Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận môn CNXHKH đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.45 KB, 16 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
--------------------------

BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN Ở VIỆT NAM

1


Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:

HÀ NỘI – 3/2020
MỤC LỤC
A.

Mở

đầu...................................................................................................................3
I. Tính cấp thiết của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.........3
II. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................4
III. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................4
IV. Nội dung nghiên cứu............................................................................................4
B. Nội dung chính.....................................................................................................5
2



I. Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.............................5
1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại.......................................................5
2. Quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam............................................................................................................................6
3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...6
II. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay...........9
III. Giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay..................................................................................12
IV. Liên hệ trách nhiệm sinh viên trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN tại Việt Nam......................................................................................14
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................15

A. MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục cải
cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng
thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ hơn vấn đề này “Nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3


của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nơng dân và
tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật quan trọng
nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định
phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước
của giai cấp công nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, tôn trọng và thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt
động của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong cơng cuộc xây dựng
và quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà nước,
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc
đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù hợp, cơ chế
tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền,
lợi ích của cơng dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về
với xã hội cơng dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Tuy nhiên cho
đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
vấn đề có nội dung lớn, địi hỏi phải có sự nghiên cứu tồn diện cả về lý luận và
thực tiễn. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, em quyết định chọn đề tài
"Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam" nhằm góp phần vào q
trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta.
II. Mục đích nghiên cứu

4


Mục tiêu lý luận: nghiên cứu lịch sử hình thành, đặc trưng và bản chất nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Mục tiêu thực tiễn: nghiên cứu thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nước ta trong giai đoạn hiện nay từ đó đưa ra những phương hướng để
xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam.

III. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà bài tiểu luận sử
dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân
tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm về việc xây
dựng nhà nước pháp quyền. Bài viết cũng sử dụng các tác phẩm của Mác,
Ăngghen, Lênin và các cơng trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và
ngoài nước về nhà nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn
sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lôgic
và phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ những nội dung của luận văn.
IV. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu chung của bài tiểu luận gồm:


Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của thế



giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử.
Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà



nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta trong giai
đoạn phát triển hiện nay.
5





Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam trong thời kỳ mới.

B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ
đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, lồi người đã bắt
đầu tìm kiếm những hình thức xã hội cơng bằng, tốt đẹp. Cùng với tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã được các nhà tư tưởng
phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà
trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh
mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền
lực nhà nước. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát
triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các
nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và
pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755),
J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… Cùng với
các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ đại khác cũng
đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như Tômát
Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát
Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…
2. Quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm nét

ở Hồ Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách mạng. Đó
6


là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự theo
phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Chính phủ là chính phủ của nhân dân, Chính
phủ phải hứa với dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
dân, ta phải hết sức tránh". Đó là một nhà nước chịu sự kiểm sốt của nhân dân,
“tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959).
Trong quan hệ với nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của
nhân dân. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ
là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đơn đốc và phê bình Chính phủ”.
Trong q trình đổi mới tư duy về chính trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà
nước pháp quyền của Đảng ta ngày càng đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết
tâm chính trị là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp
quyền cũng ngày càng cao hơn.
3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh ln
nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ ”;
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí Minh nhân
dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà
nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực
hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ
máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân.


7


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ
sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp.
Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực
pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phòng,
an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan
trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Hiến pháp có
một vai trị quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên,
việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và
phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối
thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật
khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra
pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục
đích tự thân của nó. Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của
Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan
trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến
của xã hội ta: cơng bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát

triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta. Nhà nước pháp quyền đặt ra
8


nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Vì vậy, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã
hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu
lịch sử và tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm
quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái (mâu
thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà cịn là điều kiện có ý nghĩa
tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các
hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
II. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay


9


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ
và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình; kiểm sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động
của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi mới)
đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng khố IX, X đã
khẳng định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã có những tiến bộ quan trọng:
- Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và
nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà
nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây
dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ về
kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản
xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ
về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở chất
lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận
của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo
chí...

10


- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan
hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của q trình chuyển
từ cơ chế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước đổi
mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm,
tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ
nhiều yếu kém:
- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành
chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị bng lỏng, làm giảm sút lịng tin của nhân dân
đối với Đảng, nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy
đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất
đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất
thốt nghiêm trọng.
- Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cịn có
những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức
bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung
quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.

11



- Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng bng lỏng và bao
biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.
Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ
máy nhà nước, trong đó chủ yếu là:
- Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi
nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải
vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm.
- Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà
nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi
mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu,
lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước; thiếu những biện
pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo
chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
- Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định một
số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương
nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
- Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt và
tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo
đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.
- Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết thực
và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy quyền
làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán bộ,
công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo
hiến pháp, pháp luật.

12


III. Giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn tới, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam đã và đang đặt ra yêu cầu mới ngày càng cao hơn, đáp ứng sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và Hội nhập quốc tế, vì vậy dự thảo Báo cáo chính trị
Đại hội XIII xác định chủ đề; quan điểm chỉ đạo; định hướng phát triển; những
nhiệm vụ, giải pháp về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là hết sức đúng đắn và cần thiết, theo tôi cần tập trung thực hiện
tốt một số vấn đề sau:
Trước hết, Đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng các
cấp tiếp tục quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện hiệu quả nội dung, quan điểm
chỉ đạo trong Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9-2-2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, kế
thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, để cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng; xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hai là, tăng cường xây dựng và củng cố chính quyền các cấp vững mạnh, đề
phòng xu hướng lạm dụng quyền lực trong bộ máy Nhà nước. Bởi, Đảng ta là Đảng
cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn bộ xã hội. Phần đông cán bộ, công
chức Nhà nước là đảng viên. Do đó, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân chủ yếu
thể hiện ở mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân thơng qua hệ thống pháp luật,
chính sách; thơng qua hoạt động thực thi cơng vụ của cán bộ, công chức.
Ba là, trong tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, cần tiếp tục
thực hiện quyết liệt việc sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy nhà nước theo định
hướng của Đảng “tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Có giải pháp đồng
bộ để nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm đội
13


ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ phẩm chất chính trị, am hiểu pháp luật và

kiến thức xã hội, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chú trọng tư duy đổi mới, sáng tạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ Tổ quốc và
hội nhập quốc tế.
Bốn là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể vững mạnh,
xứng đáng là người chăm lo lợi ích, đại diện hợp pháp của nhân dân, cầu nối giữa
Đảng với dân, tổ chức vận động nhân dân thực hiện hiệu quả các phong trào: Xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”; “xây dựng nơng thơn mới, đô thị văn minh”; phong trào sản xuất kinh doanh
giỏi, sáng tạo, khởi nghiệp, “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “xây
dựng xã hội học tập”... Trước mắt Đảng, Nhà nước cần chuẩn bị thật tốt công tác
nhân sự để giới thiệu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là quan điểm nhất quán của Đảng, thể hiện bản chất, tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy, việc thống nhất nhận thức và hành động của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân là vấn đề căn bản nhất, bảo đảm cho quan điểm của
Đảng được hiện thực hóa trong những năm tới, góp phần thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
IV. Liên hệ trách nhiệm sinh viên trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN tại Việt Nam
Nhận thức được vai trò quan trọng của ý thức công dân trong xây dựng nhà
nước pháp quyền, Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng mơi trường văn hóa lành
mạnh, tạo điều kiện để con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn;
cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy
14


tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”. Để có

nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân địi
hỏi sự trưởng thành, lớn mạnh của nhiều yếu tố, trong đó phải có “trình độ trưởng
thành của cơng dân về mọi mặt”.
Với vai trị là một sinh viên đại diện cho tầng lớp trí thức trẻ và có sứ mệnh
lớn lao trong việc xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt
Nam, em nhận thấy cần nâng cao trách nhiệm xã hội của bản thân đối với cộng
đồng, xã hội và nhà nước. Cá nhân em cần khơi dậy lịng nhiệt tình của tuổi trẻ,
tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, thái độ sống tích cực, xây dựng lối sống lành
mạnh, ý thức tơn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật; vận
động mọi người thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Về mặt pháp luật, sinh viên ngày nay cần áp dụng, tuân thủ một cách
tích cực, tự giác phản ánh tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, tạo điều kiện thuận
lợi để thực hiện cơng bằng xã hội và hồn thiện nhà nước pháp quyền. Điều này
biểu hiện ở việc tuân thủ luật lệ giao thông, ý thức bảo vệ mơi trường, ý thức vệ
sinh an tồn thực phẩm, ý thức công dân trong việc nộp thuế, ý thức công dân trong
văn hóa ứng xử, giữ gìn văn minh đơ thị, v.v..
Mỗi cá nhân cần thực hiện các chuẩn mực đạo đức xã hội, góp phần xây
dựng nhân cách cơng dân, ngăn chặn suy thoái về lý tưởng, đạo đức của một bộ
phận công dân. Ý thức công dân gắn chặt với niềm tin của mỗi cá nhân công dân
vào công lý, sự lãnh đạo, định hướng, điều hành của Nhà nước. Trong lĩnh vực
chính trị, ý thức cơng dân biểu hiện trước hết ở việc công dân thực hiện quyền bầu
cử, ứng cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, thái độ tích cực
hay khơng tích cực trong việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng hiến pháp, pháp
luật, tham gia giám sát cơ quan cơng quyền, tham gia phản biện chính sách có liên
quan tới quốc kế dân sinh v.v..

15


Tuy vậy, vẫn còn một số bộ phận thanh niên có biểu hiện suy thối, thiếu

gương mẫu về đạo đức và lối sống. Ví dụ, hiện nay vẫn cịn tình trạng xả rác bừa
bãi không đúng nơi quy định. Điều đó có ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức của cá nhân
công dân, tới mỗi thành viên xã hội. Chúng ta cần phê phán, ngăn chặn những hành
vi xấu này để xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dân chủ, công
bằng, văn minh.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội Đảng, văn bản quy phạm pháp luật
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Toàn văn nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Hà Nội, 2021.
2. Hiến pháp Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Sách, tạp chí
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. C.Mac và Ph.Angghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000.

16



×