Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Một số biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua các hoạt động học tập và giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.07 KB, 18 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành
Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp
thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”, “Phối hợp sử dụng kết quả đánh
giá trong quá trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học; đánh giá của người dạy
với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình
và xã hội”. Việc kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng
vào ghi nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận
xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản biện,
mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh được thể hiện rất rõ qua Thông tư số
30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT về đánh giá học sinh
tiểu học. Đặc biệt, cách đánh giá mới này, không xếp loại học tập theo các mức
giỏi, khá, trung bình, yếu, khơng so sánh học sinh này với học sinh khác nhằm
khuyến khích được các em tự nỗ lực vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm
số, căn bệnh thành tích trong giáo dục. Vậy làm thế nào để hình thành cho cho học
sinh sự phát triển đúng đắn lâu dài về phẩm chất, năng lực ? Để làm tốt nội dung
trên địi hỏi người giáo viên phải thực sự có cái nhìn sâu rộng, sự linh động sáng
tạo, ứng xử thích hợp đối với từng đối tượng học sinh, để có thể dẫn dắt các em từ
chỗ chưa có ý thức phải thực hiện theo sự nhắc nhở và cuối cùng có ý thức chuyển
sang tự giác học tập, sinh hoạt cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Với học sinh Tiểu học, các năng lực, kĩ năng được hình thành và phát triển
trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh
hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể
hiện qua việc tự phục vụ; tự quản; giao tiếp hợp tác; tự học, giải quyết vấn đề và
các kĩ năng ứng phó trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Các phẩm chất, kĩ năng
của HS được hình thành và phát triển trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường
xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc
sống hàng ngày; chia sẻ, hợp tác, giao tiếp, ứng xử với bạn bè, thầy cô, người lớn


và khi gặp cá sự cố trong cuộc sống. Điều này được thể hiện qua việc chăm học,
chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách
nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đồn kết; u gia đình, bạn bè, con người và cách xử lí
các biến cố trong va vấp.
Giáo viên sẽ quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học sinh hàng ngày,
hàng tuần để nhận xét, quan sát cách xử lí các tình huống mà GV dạy lồng ghép
trong các tiết học để nhận định sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm
chất, kĩ năng từ đó động viên, khích lệ, giúp HS khắc phục khó khăn, phát huy ưu
điểm và các tố chất riêng, điều chỉnh hoạt động, ứng xử kịp thời để tiến bộ.
1


Thực hiện công văn số 789/GDĐT-TH về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm
vụ cấp Tiểu học năm học 2019-2020 trong đó có nhiệm vụ: Tích hợp các nội dung
giáo dục kĩ năng sống , giáo dục địa phương, giáo dục truyền thống, các trò chơi
dân gian, múa hát dân ca, hò khoan Lệ Thủy,…vào trường học. Hướng dẫn học
sinh tự quản, chủ động tổ chức, điều khiển các hoạt động tập thể và hoạt động giáo
dục.
Tổ chức các buổi lễ trang trọng, vui tươi, tạo dấu ấn sâu sắc cho học sinh.
Tăng cường tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục kỹ năng sống, giáo dục
truyền thống đạo đức và xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa, thân thiện cho học sinh.
Tăng cường các hoạt động thực hành, hoạt động trải nghiệm, kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn , phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường, địa
phương và khả năng học tập của học sinh.Chú trọng giáo dục đạo đức lối sống, giá
trị sống, kĩ năng sống, hiểu biết xã hội cho học sinh, trong đó cần phối hợp chặt
chẽ với các tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh để giáo dục học sinh một cách thiết thực, hiệu quả. Tập trung
vào đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới cách thức tổ chức các hoạt động
giáo dục sao cho nhẹ nhàng, tự nhiên hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.

Tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục trong và ngồi giờ chính
khóa.Chuyển mạnh các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp,
hoạt động ngoại khóa sang hướng tổ chức hoạt động trải nghiệm; tập trung vào các
hoạt động rèn kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, làm quen với một số nghề truyền
thống ở địa phương. Tăng cường tổ chức và quản lí các hoạt động giáo dục kĩ năng
sống theo Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 của Bộ GD&ĐT ban
hành Quy định về Quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống và hoạt động giáo dục
ngoài giờ chính khóa.
Dạy kỹ năng sống cho HS trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết
ở các trường phổ thơng nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung về
rèn luyện kỹ năng sống chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ
yếu được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục Đạo đức, Thể Dục,
Tiếng Việt… hay trong các tiết chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy,
các em chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng sống. Đó là điều đang cịn khó
khăn, lúng túng cho bản thân tôi để rèn luyện kỹ năng sống cho HS.
Là một người giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi xác định rõ
trọng trách, xem mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phát triển năng
lực, phẩm chất, đặc biệt là kĩ năng sống trong thời đại mới, (thời đại công nghệ
thông tin phát triển mạnh đồng thời cũng có nhiều tệ nạn xã hội khó lường) cho
HS trong điều kiện xã nhà trường thuộc địa bàn cịn khó khăn, một học sinh ở xa,
con đường đến trường phải đi qua các con sơng ,suối, đường ít người qua lại là
vấn đề khơng đơn giản nó khiến bản thân tơi trăn trở, chọn đề tài nghiên cứu: "Một
2


số biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 4 thông qua các hoạt động học tập và giáo dục ".
1.2. Điểm mới của đề tài:
Giúp HS có những kĩ năng sống tốt hơn như giao tiếp tốt, thích nghi với môi
trường sống ở địa phương, yêu lao động. Biết cách xử lí tốt trong va chạm thực tế

như gặp thiên tai hỏa hoạn , trong các tệ nạn xã hội như tệ nạn bắt cóc trẻ con, tệ
nạn quấy rối , kĩ năng thoát hiểm, kĩ năng ứng xử, kĩ năng kiềm chế bản thân, kĩ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ...
Giúp HS có kỹ năng giao tiếp nhằm hình thành và phát triển năng lực và
phẩm chất theo hướng tích cực giúp HS tự tin sáng tạo trong việc tìm tịi, khám
phá tri thức.
Tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức cho phụ huynh trong công
tác giáo dục học sinh. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ
huynh thông qua việc thiết lập kênh thông tin điện tử: Bằng điện thoại, gmail.....để
trao đổi các thông tin kịp thời về công tác giáo dục học sinh đối với các phụ huynh,
hộ gia đình đi làm ăn xa. Hình thành thói quen cho phụ huynh thường xuyên quan
tâm, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập.
Phối hợp với giáo viên bộ môn tạo cho các em môi trường giao tiếp tốt. Dạy
lồng ghép tích hợp các kĩ năng sống, từ đó các em có nền nếp học tập tự giác, tích
cực, đồng thời nâng cao chất lượng công tác giáo dục về năng lực, phẩm chất, cũng
như kĩ năng sống cho học sinh.
1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Với sáng kiến này, bản thân tôi đã thực hiện trên đối tượng học sinh lớp 4 tại
đơn vị và phổ biến với tất cả giáo viên trong nhà trường và được áp dụng đạt hiệu
quả cao. Đồng thời cũng được nhà trường đánh giá cao, phổ biến nhân rộng trong
toàn đơn vị.

3


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng:
2.1.1. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học cũng như việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

- Tổ chun mơn, đồn thể trong nhà trường ln tạo điều kiện giúp đỡ hỗ
trợ nhiệt tình về mọi mặt.
- GV trong khối nhiệt tình, phối hợp tốt cùng với GVCN lớp.
- Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học: Lớp học rộng rãi,
thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách phù hợp cho các em học sinh.
- Thông qua cuộc họp phụ huynh Nhà trường đã chỉ đạo GVCN triển khai
công văn số 789/GDĐT-TH về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ cấp Tiểu học
năm học 2019-2020. Thông tư số 22/2016/TT - BGDDT sửa đổi đánh giá học sinh
tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT - BGDDT đến tận từng phụ
huynh để cùng phối kết hợp trong giáo dục và đánh giá học sinh.
- Bản thân nhiệt tình trong cơng tác, hết lịng vì học sinh thân u.
- Một số phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. Cơng
tác xã hội hóa giáo dục được phát triển.
- Lớp 4B là lớp được phụ huynh đồng tình đăng ký học theo mơ hình
Trường học mới và đăng kí học bơi an tồn, tham gia các hoạt động giáo dục kĩ
năng sống, đây là một thuận lợi cho việc hình thành các năng lực, phẩm chất và kĩ
năng sống để các em phát triển toàn diện.
- Phần lớn học sinh ngoan ngỗn, biết u thương đồn kết giúp đỡ lẫn nhau
trong học tập.
2.1.2. Khó khăn:
* Về học sinh
- Thực tế trong năm học 2019- 2020, lớp 4B do tơi phụ trách cịn một số em
ý thức học tập chưa cao: Học sinh đến lớp không đúng giờ, quên mang dụng cụ
học tập, chưa tập trung chú ý trong giờ học, chưa hợp tác trong nhóm gây ảnh
hưởng đến việc học tập cũng như nề nếp của lớp. Đa số các em là con em nông dân
bản chất thật thà được ông bà, bố mẹ bao bọc nên các em ít va chạm, dễ tinh người
nên rất dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng.
- Một số em thiếu bình tỉnh vì chưa được trang bị các kiến thức kĩ năng xử lí
tình huống trong việc bảo vệ mình, kĩ năng thốt hiểm hoặc là kĩ năng tìm kiếm sự
hỗ trợ....

- Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và
sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần cịn
mang tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài cịn chậm nhưng chưa dám tìm
kiếm sự giúp đỡ của bạn, của cơ giáo về những điều mình chưa biết.
* Về phụ huynh
- Phần lớn phụ huynh là nông dân, một số gia đình khó khăn mãi làm ăn nên
phụ huynh khơng có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái.
4


- Một số phụ huynh chỉ quan tâm đến kiến thức văn hóa của con mà chưa
quan tâm đến tâm tư, tình cảm, chia sẻ của con, ngại nói về giới tính với con và
chưa chú tâm nhiều về kĩ năng sống hàng ngày của con.
- Địa bàn học sinh ở rộng dẫn đến ảnh hưởng khơng ít đến việc đi lại, học
hành của con em nhất là mùa mưa bão, việc phối kết giữa GV và phụ huynh cũng
có phần khó khăn.
2.1.3. Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng:
* Khảo sát nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành thảo
luận nhóm trong một số tiết Tốn, Tiếng Việt
Năng lực hợp tác nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
TSHS
Biết cách hợp tác, chia sẻ
ra khỏi nhóm, khơng chia sẻ.
SL
%
SL
%
34
20

58,8
14
41,2
Khảo sát nội dung “Xử lí các tình huống ứng phó trong cuộc sống” qua việc
dạy lồng ghép trong các tiết học
Kĩ năng xử lí các tình huống ứng phó trong cuộc sống .
Chưa biết cách xử lí hoặc cịn lúng
TSHS
Biết cách xử lí
túng.
SL
%
SL
%
34
13
38,2
21
61,8
* Khảo sát về chất lượng mơn Tốn- Tiếng Việt đầu năm học:
Mơn

Giỏi
SL

%

Khá
SL


Tốn
Tiếng Việt

%

TB
SL

9

26,5

8

23,5

%

Yếu
SL

%

12

35,3

10

29,4


3

8.8

11

32,4

11

32,4

4

11,8

Từ những thực trạng trên là giáo viên chủ nhiệm lớp tơi đã băn khoăn, tìm
tịi để tìm ra những giải pháp nhằm hình thành năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống
của học sinh lớp mình phụ trách. Với mong muốn được góp một phần kinh nghiệm
của mình vào việc giáo dục một số năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh
thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục là điều thực sự cần thiết ".
2.2. Các biện pháp:
2.2.1. Biện pháp 1: Tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua
phụ huynh, tiếp cận tạo niềm tin:
Ngay từ đầu năm học khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4B, bản
thân đã trực tiếp điều tra tình hình thực tế, sơ khảo về tình hình mọi mặt để nắm
5



mặt mạnh, mặt yếu của lớp mình phụ trách. Trong lớp có bao nhiêu học sinh con
gia đình nghèo, gia đình khó khăn, con cơng nhân, con nơng dân, bao nhiêu em ở
địa bàn xa đường sá ít người đi lại, bao nhiêu em bố mẹ đi làm ăn xa nên phải ở
với ông bà, bao nhiêu em biết bơi... Từ đó có cơ sở để phân loại các biện pháp giáo
dục. Đối với những học sinh nghèo, học sinh gặp hồn cảnh khó khăn thì ln kết
hợp với nhà trường, hội cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi
điều kiện giúp đỡ các em về mọi mặt tinh thần cũng như vật chất.
Sau khi nhận lớp tơi đã tìm hiểu kỹ từng em thơng qua phụ huynh bằng
những câu hỏi thông thường như: hỏi tên, tuổi, sở thích,…khen ngợi đồ dùng của
các em để giúp các em mạnh dạn, tự tin và cảm thấy gần gũi với giáo viên hơn.
Nhất là đối với những em nhút nhát, chưa tự tin khi chia sẻ ý kiến trước đám đơng.
Qua phụ huynh giáo viên cịn phải biết thêm về những mặt ưu điểm, khuyết điểm
của từng em để phát huy và có biện pháp khắc phục.
Tơi ln tạo ra sự gần gũi với các em trong học tập cũng như trong giao tiếp,
vui chơi để phát hiện khả năng nhận thức tư duy ở mỗi em. Thường xuyên theo dõi
để phát hiện học sinh nào chăm học, học sinh nào lười học, em nào trung thực, em
nào chưa trung thực. Với những em lười học, tôi thường động viên các em bằng
những lời nói nhẹ nhàng, bằng những tuyên dương tán thưởng khi các em chăm
học hơn. Với những em chưa trung thực, tôi thường dùng các câu chuyện có tình
huống để kể cho các em nghe, cho các em liên hệ giáo dục qua câu chuyện đó.
2.2.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ
năng thông của các em ở lớp 3:
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể trong cơng tác
chuyển giao tiếp nhận học sinh từ lớp dưới.
Vào kì kiểm tra chuyển giao cuối mỗi năm học Ban giám hiệu trường tiểu
học thống nhất và có dự kiến phân cơng GVCN lớp năm sau tiến hành coi chấm thi
nghiệm thu chất lượng của lớp dưới. Tiến hành kiểm tra kiến thức và năng lực của
học sinh. Qua kiểm tra tôi đã nắm bắt được những học sinh có năng lực nổi trội
hoặc còn hạn chế như: Em nào đọc tốt, rõ lưu loát, học sinh nào viết chữ đẹp, em
nào nắm chắc về tốn, em có kĩ năng tính tốn chậm, diễn đạt trong viết văn cịn

lủng củng......
Ngồi ra tơi cịn gặp giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em để tìm hiểu rõ
về tình hình mọi mặt của từng học sinh, để nắm được các mặt mạnh, mặt yếu của
từng học sinh, đặc biệt là năng lực của các em. Qua đó, tơi biết được học sinh nào
học giỏi, có năng lực nổi trội nào, học sinh nào ngoan, gia đình của học sinh đã
quan tâm đến các em...để từ đó có biện pháp cụ thể hơn cho lớp mình trong năm
học tới.
Ví dụ: Ở lớp 3 có em Đồn Văn Tài hiện đang là học sinh lớp 4 tôi chủ
nhiệm, ở lớp 3 em là học sinh tiếp thu chậm, em là học sinh ở lại lớp hồi lớp 1, em
ít nói ,ít tham gia các hoạt động nhưng em thích cách nói nhẹ nhàng, thích khen .
6


Hay em Lê Thị Mĩ Kiều, ở lớp 3 em có năng lực quản lý tốt, bốn năm liền làm lớp
trưởng từ lớp 1-4, em Đồn Nguyễn Quỳnh Anh có năng khiếu nổi trội là viết chữ
đẹp. Có hai em Nguyễn Trần Sao Sáng và Nguyễn Trọng Oai Sang ở địa bàn xã
Kim Thủy đường đến trường rất xa và phải đi qua mốt số chỗ nước hay ngập khi
có mưa, Có em Hồng Thị Ni Na Nhà sát đường Hồ Chí Minh đường đến trường
cũng xa và ít người qua lại,trong lớp cịn có nhiều học sinh ở với ông bà vì bố mẹ
bận làm ăn xa ...
Qua việc nắm bắt tình hình của từng học sinh, giáo viên lên kế hoạch đặt ra
mục tiêu cụ thể cho từng học sinh của lớp mình để giúp các em vừa học tốt vừa
phát huy được thế mạnh của mình cũng như kĩ năng sống cho các em.
2.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học :
Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó có
biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra Hội đồng tự quản của lớp.
Hội đồng tự quản phải là người có năng lực tự học tốt, đối xử hồ đồng với bạn bè,
mạnh dạn, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong cơng việc được giao, có khả năng điều
hành, tự quản lớp hoạt động tốt.
Xây dựng lớp có nề nếp tốt tức là tạo cho các em học sinh có năng lực tự

quản tốt, vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả
năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được
nề nếp tự quản, bầu chọn được Hội đồng tự quản của lớp gồm: 1 Chủ tịch Hội
đồng, 2 Phó Chủ tịch, 5 trưởng ban phụ trách theo các ban: Ban học tập, văn nghệ,
sức khỏe, đối ngoại, thư viện. Sau khi bầu xong, giáo viên họp Hội đồng tự quản
và các trưởng ban để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em. GVCN cùng
Hội đồng tự quản và các ban xây dựng các nội quy của lớp cụ thể, rõ ràng cho cả
năm học.
Ngồi ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng
mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của
lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ
nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học
sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học
sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục nghiêm khắc nhưng cởi mở
gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối
không trù ém sĩ nhục học sinh.
Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà cịn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như vào lớp
thuộc bài, lên lớp hiểu bài, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp Ban học tập
kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng
góp một phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ
đầu năm học, giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy
7


lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường và 5 điều Bác Hồ
dạy.
Giáo viên ln động viên, khuyến khích các cá nhận, nhóm, tổ thi đua với
nhau, nếu nhóm nào có một em đi học muộn hoặc nghỉ học khơng có giấy xin phép
của cha mẹ các em thì xét thi đua nhóm đó đứng sau các nhóm khơng có em nào vi

phạm. Muốn động viên phong trào thi đua thì giáo viên chủ nhiệm phải công minh,
tuyệt đối không thiên vị theo cảm tính, từ đó gây lịng tin với các em.
Khơng những giáo dục học sinh có nề nếp tốt trong giờ học, trong lớp mà
còn thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt
ngồi giờ.
Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để Hội đồng tự
quản, Trưởng ban học tập kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào
truy bài dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy
giáo viên khơng có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt.
Nhưng cũng không phải phó mặc, giáo viên khơng chỉ nghe Hội đồng tự
quản báo cáo kết quả chuẩn bị bài của các em mà có thể kiểm tra đột xuất 1, 2 bài
trong mỗi nhóm. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, khơng chiếm mất giờ
dạy mà cịn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế đùa nghịch của
các em khi chưa vào học.
2.2.4. Biện pháp 4: Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các
biện pháp cụ thể để giáo dục học sinh:
Căn cứ vào tình hình của lớp sau một thời gian học tập, tiến hành phân loại đối
tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh tốt, có bao nhiêu học chưa
tốt. Để có biện pháp giáo dục các em về mặt nào, mơn nào để cịn kịp thời bồi
dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp.
Những em yếu, chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi vị trí giáo viên dễ tiếp
cận, xếp một em học tốt ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em kèm bạn yếu qua
từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo
dõi hướng dẫn, tiếp sức học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các em
qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy nâng cao kiến thức bồi
dưỡng học sinh có năng lực học tập tốt.
Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em
hát tập thể, chơi các trò chơi dân gian để giúp các em càng gần nhau hơn, thân
thiện cùng nhau hơn, giúp các em phát huy khả năng giao tiếp, ứng xử tình huống
dễ dàng hơn.

Giáo viên gặp gỡ phụ huynh thường xuyên để tìm hiểu thêm về hồn cảnh
riêng của từng em, từ đó có cách giúp đỡ cho phù hợp. Đồng thời kêu gọi sự phối
hợp chặt chẽ giữa phụ huynh và giáo viên trong việc xây dựng thời gian biểu học ở
nhà, nhắc nhở việc chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp, kiểm tra bài làm,
bài học ở nhà cho hoàn chỉnh.
8


Đối với học sinh cá biệt, giáo viên cần phải tăng cường việc gặp gỡ, trao đổi
thường xuyên với phụ huynh để nắm rõ ngun nhân, từ đó tìm biện pháp khả thi
nhất để giúp đỡ em nhiều hơn. Chú ý khai thác điểm tốt dù nhỏ nhất để khích lệ,
động viên, khen thưởng kịp thời, gây sự chú ý, ngưỡng mộ của các bạn trong lớp,
tạo niền tin, để các em thấy được việc học là quan trọng, là tương lai sau này của
một đời người, là niềm hy vọng của gia đình và xã hội, từ đó các em sẽ có ý thức
hơn và chuyển hướng rõ rệt. Điều tối kỵ nhất là đừng nhìn các em với cái nhìn gay
gắt, và khơng nên nhớ hồi những thói hư, tật xấu của các em, với cái tâm của một
người thầy, của một người mẹ hãy mở rộng tấm lòng vị tha với các em hơn mới
thật sự cảm hóa các em dần hồn thiện hơn.
Đối với những em gia đình gặp hồn cảnh khó khăn, giáo viên cần có sự
quan tâm đặc biệt hơn, tham mưu với lãnh đạo nhà trường với Ban đại diện CMHS
hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần tạo điều kiện cho các em được tham gia
học tập tốt, ngoài ra giáo viên cần phải trao đổi với phụ huynh động viên cho các
em đi học chuyên cần, không bỏ dở nữa chừng dù trong bất cứ hồn cảnh nào.
Khơng chỉ quan tâm đến học sinh cá biệt mà một khâu quan trọng trong
công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phải quan tâm đến những em tốt, những em có
năng khiếu bẩm sinh như vẽ đẹp, hát hay, kể chuyện tốt… cử tham gia các phong
trào nhà trường hay địa phương tổ chức vừa giúp các em phát huy được khả năng
vừa được điểm phong trào cho lớp, cho trường.
Trong giảng dạy, giáo viên phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy
ra và cách ứng xử với học sinh. Thực hiện cơng tác giáo dục tồn diện thông qua

việc kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thường xun liên hệ
trao đổi thơng tin hai chiều với phụ huynh hoặc đến nhà để trao đổi tình hình học
tập của học sinh. Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như:
Đơi bạn cùng tiến, Nhóm học tập tự quản... Qua đó thường xun kiểm tra động
viên khuyến khích các em bằng phong trào hội hoa học tốt.
2.2.5. Biện pháp 5: Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học
sinh và giữa học sinh với học sinh:
* Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới;
giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân cơng-hợp
tác. Thầy thiết kế-trị thi cơng. Thầy giao việc-trị làm. Mỗi lời thầy nói ra phải là
một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi u cầu tơi đưa ra, học trị phải thi
hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tơi u cầu học trị phải cố gắng làm cho đúng.
Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm,
nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan
hệ cơ bản nhất của tơi và học trị là quan hệ hợp tác làm việc: tơi giao việc- học trị
làm; tơi hướng dẫn- học trị thực hiện.
Khi giao việc, tơi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách
làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trị sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào
thì phẩm chất, năng lực sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức
9


kỉ luật cũng đến nơi đến chốn. Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý
đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để
học trị noi theo. Khơng vì bất cứ lí do gì mà tơi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề
xòa, qua loa trước mặt học sinh.
Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại
chứ khơng phê phán ngay. Tơi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp.

Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tơi ln cố gắng kiềm chế và tơn trọng học
sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa
chữa. Tơi khơng bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này,
lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan nát tâm hồn
trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ ốn hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở
lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tơi biết rằng có những em học
yếu hoặc có hơm khơng học bài, làm bài nhưng lỗi khơng phải hồn tồn là do các
em. Có em ham chơi nên qn học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới.
Nhưng cũng có em học yếu, hoặc khơng học bài làm bài là do những điều kiện
khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu
phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập.
Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi
cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn,...nên khơng để ý gì đến việc học của con cái, thậm
chí các em cịn bị mắng chửi, bị đánh đập... Những sóng gió đó đã tác động đến
tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được
những ngun nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các
em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy-trị. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy
phá, hay lơ đãng không chịu hợp tác làm bài, tơi ln bình tĩnh chờ đến hết buổi
học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ
nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tơi phải đến nhà tìm hiểu
ngun nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em.
Hàng ngày, luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu
điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tơi cố tìm ra những ưu điểm
nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tơi cũng khơng
qn chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn.
Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của
học sinh, ln thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy
đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng
sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trị. Lịng nhân ái, bao dung, đức vị tha của

người thầy ln có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học
thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lịng nhân hậu, bao dung, hết lịng vì
học sinh thân u của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ
chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
10


Trong các giờ ra chơi hay các hoạt động trải nghiệm tơi tìm cách trị chuyện,
tâm sự với các em như một người bạn, hỏi han các em để biết các em nghĩ gì, quan
điểm và cách nghĩ của em như thế nào về một vài tình huống trong cuốc sống, về
cách ứng xử hàng ngày để từ đó nắm bắt được tâm lí hay vướng mắc hoặc những
điều khó nói mà các em khơng biết bày tỏ cùng ai. Từ đó tơi sẽ giúp các em suy
nghĩ tích cực hơn, ửng xử đúng hơn để các em có các kĩ năng sống tốt hơn.
* Xây dựng mối quan hệ bạn bè:
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình
ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy, nếu các em có
nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học
yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ
(Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện
một số em chia bè phái, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau.
Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Cịn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả
thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh
hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên
chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè
đồn kết, gắn bó thì tơi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi
trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập
của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đồn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp
đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác

của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
- Trong mỗi tiết học, tơi thường xun chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này,
các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn
khác. Lúc đầu có em chưa chịu, tuy ngồi chung nhóm nhưng có em lại quay mặt ra
chỗ khác, hoặc ngồi im khơng tham gia, ai muốn làm gì thì làm; có nhóm lại cãi
nhau, khơng ai chịu làm nhóm trưởng hoặc đùn đẩy nhau không chịu ghi kết quả
thảo luận vào phiếu, dẫn đến khơng hồn thành nhiệm vụ. Trước tình trạng đó, tơi
tiến hành đánh giá kết quả của từng nhóm và lấy kết quả đó chung cho tất cả các
thành viên của nhóm. Do đó, những em khá, giỏi buộc phải tích cực. Cịn những
em khơng tích cực hợp tác, cho ngồi riêng một mình và phải làm tồn bộ cơng việc
của một nhóm. Bị ngồi một mình nên khơng thể hồn thành cơng việc. Cứ như
vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện.
- Khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm,
cách cư xử của Hội đồng tự quản hoặc của một bạn nào đó thơng qua hộp thư bè
bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tơi đọc cho cả
lớp nghe rồi tun dương ngay trước lớp. Cịn những điều các em phê bình thì tơi
phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị
bạn phê bình, yêu cầu các em phải sửa chữa.
11


- Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp
không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tơi gặp gỡ trao đổi
riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đi. Sau đó phân tích
rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hịa và bắt
tay nhau vui vẻ trở lại.
- Ngay từ đầu năm tối cho các em thành lập các đôi bạn cùng tiến, nhóm
mình đồn kết và ln kiểm tra sự tiến bộ của các đơi, các nhóm.Kịp thời khen
thưởng các đơi tiến bộ, các nhóm đồn kết để khích lệ các em, tạo ra môi trường
thân thiện, các em biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

- Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc
của tuổi học trị, tơi tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong giờ ra
chơi. Những em có ngày sinh trùng vào ngày thứ bảy, chủ nhật thì sẽ được tổ chức
vào sáng thứ bảy. Hình thức tổ chức do các em trong Hội đồng tự quản, các nhóm
trưởng bàn bạc và quyết định. Nhưng chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc
mừng và một món quà nhỏ khoảng vài chục ngàn đồng do cả lớp đóng góp. Có rất
nhiều em khơng nhớ ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ được cha mẹ tổ
chức sinh nhật, chưa bao giờ được nhận một món q mang ý nghĩa sâu sắc. Vì
vậy, khi được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động.
2.2.6. Biện pháp 6: Vận dụng tốt mô hình dạy học Mơ hình trường học
mới là con đường hình thành một số năng lực và phẩm chất cho học sinh tốt
nhất.
Vận dụng phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới là thơng qua
các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bỡi GV( hay công cụ học
tập), học sinh không thụ động chờ đợi mà tự lực tích cực tham gia vào q trình
tìm kiếm, khám phá, phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức. Vận dụng phương pháp này,
GV chỉ là người mở đường, hướng dẫn, tổ chức cho HS làm việc, thường xuyên
giúp đỡ từng học sinh, quan tâm đến từng cá thể trong nhóm để đánh giá kịp thời
sự tiến bộ của các em. Cịn học sinh giữ vai trong trung tâm, hình thành phương
pháp học tập, làm việc tích cực, chủ động, sáng tạo, qua đó hình thành tốt các năng
lực như: năng lực tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề...
2.2.7. Biện pháp 7: Thực hiện tốt khấu đánh thường xuyên và cuối kỳ, cuối
năm cho học sinh theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số
22/2016/TT-BGDĐT giúp học sinh biết được kịp thời những hạn chế của mình về
phẩm chất, năng lực từ đó có những điều chỉnh theo hướng tích cực.
2.2.8. Biện pháp 8: Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội:
Đây là biện pháp thiết yếu, ngoài việc giúp các em phát triển được năng lực
phẩm chất tốt còn phát triển tốt các kĩ năng sống cho các em thông qua việc dạy
lồng ghép kĩ năng sống trong các môn học,
* Kết hợp với giáo viên bộ môn: Việc hình thành và phát triển năng lực,

phẩm chất cũng như kĩ năng sống cho học sinh được trải nghiệm qua tất cả các
mơn học, ngồi mơn Tốn, Tiếng Việt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục. Vì vậy tơi
đã kết hợp với giáo viên bộ môn rèn các nề nếp cho các em.
12


Ví dụ: Như khi dạy mơn Khoa học bài 11: Phòng tránh tai nạn đuối nước tối
sẽ danh thời gian dạy lịng ghép cho các em cách thốt hiểm khi không may bị rơi
xuống nước. Tôi sẽ đặt vấn đề nếu khơng may rơi xuống nước, nguy hiểm đến tính
mạng thì các em phải thực hiện theo 4 bước sau sẽ giúp chung ta có cơ hội sống sót
cao hơn:
- Không quẩy đạp mạnh để tránh mất sức và nhanh chìm.
- Bình tĩnh nhắm mắt ngậm miệng, nín thở (có thể lấy tay bịt mũi) để phổi
không bị sặc nước, để mặc nước đẩy người nổi dần lên, trở về tư thế bập banh bán
an toàn, đầu nổi sát mặt nước.
- Dùng tay hoặc chân làm mái chèo, quạt nước nghiêng đẩy đầu nhô khỏi
mặt nước( hoặc quạt nước xiên đẩy người bơi đi dễ dàng.)
- Khi chuyển động lên, xuống, tới trước hãy nhớ trên mặt nước ta há miệng
to thở vào nhanh và sâu, dưới mặt nước ta ngậm miệng và thở ra từ từ bằng mũi
hoặc bằng miệng. Đồng thời chúng ta kêu cứu để được trợ giúp.
Ngồi ra khuyến khích các em đăng kí học bơi để nâng cao sức khỏe và đảm
bảo an toàn cho bản thân. Hoặc qua các tiết giáo dục tâp thể tổ chức các hoạt động
lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp học, trồng chăm sóc cây
trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ năng như:
cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thơng qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả
đồ dùng lao động.
Bên cạnh đó tôi sẽ phối hợp với giáo viên dạy thể dục để hướng dẫn thêm
các kĩ năng an toàn hoặc cứu người đối nước trong các tiết học giáo dục bơi an
tồn và phịng chống đuối nước.
Qua từng giáo viên bộ mơn tơi nắm bắt, tìm hiểu về kiến thức, năng lực,

phẩm chất và kĩ năng sống của từng học sinh được sát hơn trong tất cả các môn
học khác như: Âm nhạc, Mỹ thuật, Đạo đức, ...
Vào tiết sinh hoạt của tuần cuối tháng tổ chức cuộc họp giữa giáo viên chủ
nhiệm và giáo viên bộ môn để trao đổi về kiến thức, năng lực, phẩm chất, kĩ năng
sống của từng học sinh, qua đó giáo viên nắm rõ từng đối tượng học sinh mình
được khách quan hơn. Cùng với giáo viên bộ mơn đưa ra những hình thức, biện
pháp hay để giáo dục học sinh lớp mình được hiệu quả hơn.
Phối hợp với giáo viên bộ môn trong các tiết học hoạt động ngồi giờ lên
lớp, thể dục, tơi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm vai
xử lí các tình huống phịng tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày tỏ
thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS, phòng chống đuối nước...và đóng vai
xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em cịn
được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Qua các hoạt động này giúp HS biết những kỹ năng hợp tác với người khác
và tinh thần đồng đội khi làm việc nhóm. Dạy cho HS biết trách nhiệm của bản
thân và chia sẻ trách nhiệm với mọi người để cùng hướng đến mục tiêu cuối cùng.
Làm việc nhóm nhiều sẽ giúp HS phát triển những kỹ năng xã hội cần thiết, biết
cách xây dựng và duy trì mối quan hệ. Ngồi ra HS có thêm kĩ năng năng tự bảo
13


vệ bản thân.Thông thường HS không biết được cách xử lý tình huống nguy hiểm,
do đó cần phải để HS học được cách tự bảo vệ chính mình khi gặp nguy hiểm. Khi
dạy, GV đều hướng dẫn HS những cách để tự bảo vệ bản thân những khi khơng có
người lớn bên cạnh. Ngồi ra, GV cịn tạo vài thử thách nhằm tạo cơ hội để chúng
biết cách xử lý tình huống như thế nào là phù hợp.
* Kết hợp với tổng phụ trách Đội:
Để công tác chủ nhiệm lớp được tôt giáo viên chủ nhiệm phải kết hợp chặt
chẽ với tổng phụ trách đội. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên theo dõi và
nắm bắt kịp thời các kế hoạch của Đội để tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể

và vui chơi thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho các em như:
- Qua các tiết nói chuyện đầu tuần theo từng chủ đề để lịng ghép vào các kĩ
năng sống. Ví dụ như giáo dục về giới tính chúng ta lồng ghép vào nội dung bảo vệ
bản thân tránh bị xâm hại. cung cấp những kiến thức cơ bản về tâm sinh lí của độ
tuổi HS tiểu học; những biến đổi khác biệt của HS trong độ tuổi mới lớn, đưa ra
những tình huống ứng xử tiêu biểu giúp HS biết tự bảo vệ mình cũng như nắm
được quan niệm đúng đắn về giới tính, từ đó phát triển đạo đức tốt. Cung cấp cho
học sinh kiến thức cơ bản nhất về chăm sóc, vệ sinh, bảo vệ cơ thể, dấu hiệu bình
thường - bất thường trong quá trình phát triển và cung cấp kỹ năng phòng chống,
xử lý trước nguy cơ bị xâm hại. Dạy cho trẻ cách tránh xa người lạ mặt, không bắt
chuyện hay làm quen với bất kỳ ai mà HS gặp trên đường nếu khơng có sự đồng ý
của cha mẹ. Đồng thời, Cảnh báo cho HS những nguy hiểm có thể gặp phải khi HS
đi chơi một mình với người lạ mặt hoặc đi đến những nơi vắng vẻ, những nơi tối
tăm, kín đáo.
- Để đề phịng trường hợp không may HS bị tấn công, GV nên đưa ra các giả
thiết và hướng dẫn HS cách chạy trốn. GV có thể dạy HS tìm cơ hội lúc kẻ xấu sơ
hở để chạy thật nhanh hoặc la hét thật lớn cầu cứu người xung quanh. Nên chú ý
rằng do sự chênh lệch về sức khỏe nên mọi sự phản kháng của HS gần như khơng
đem lại kết quả, thậm chí còn khiến kẻ xấu sử dụng những biện pháp bạo lực hơn.
Vì vậy chỉ có thể dùng sự thơng minh và những kỹ năng mới có thể giúp HS thốt
thân an toàn. Ngoài ra, GV cũng nên hướng dẫn cho HS ghi nhớ số điện thoại của
cha mẹ, số điện thoại khẩn cấp để HS có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức, kĩ năng bằng các trò chơi như:
Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An tồn giao thơng,..Nội dung thi được tơi soạn
bằng chương trình powerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh
mỗi lần tham gia.
- Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh
chào mừng các ngày lễ lớn.
- Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và
làm một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa

trên hướng dẫn ở báo Chăm học, tôi tập chung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm
việc theo nhóm. Các em cùng làm, giúp đỡ nhau làm việc.
14


Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi
cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng
là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích
cực. Sĩ số của lớp tơi ln đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng
nâng cao.
hoạt động của đội để thực hiện có hiệu quả các hoạt động do Đội tổ chức như:
Tham gia các hội thi văn nghệ, làm báo tường, vui tết trung thu, tham gia các trò
chơi...v.v
Phối hợp giáo viên TPT Đội tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm
các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách
mạng tháng Tám, Kỉ niệm ngày quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân
Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu này lấy trên
mạng internet rồi kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem.
Tham mưu Liên Đội hỗ trợ các em học sinh có hồn cảnh khó khăn vươn lên
học tập tốt; Liên Đội có kế hoạch tạo điều kiện giúp đỡ thông qua các hoạt động
quyên góp như: Vịng tay bè bạn, Kế hoạch nhỏ, Áo ấm đến trường, Vì người
nghèo...
2.2.9. Biện pháp 9: Phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh
làm tốt công tác giáo dục học sinh:
Tổ chức họp phụ huynh đầu năm, thông báo kế hoạch dạy học và các hoạt
động giáo dục trong năm học của nhà trường, lớp của mình chủ nhiệm. Tổ chức
thảo luận về các hoạt động của lớp, ký cam kết các nội dung thực hiện như ATGT,
ATTH, An tồn trong mùa mưa Bão, Phịng chống các tệ nạn XH và phối hợp giáo
dục học sinh, phịng chống đuối nước...v.v. Thơng báo cho phụ huynh về nội dung
các Thông tư( Thông tư 30/2014 và Thông tư 22/ 2016 của bộ Giáo dục - Đào tạo)

về đánh giá học sinh tiểu học để biết và phối hợp tốt trong công tác giáo dục con
em.
* Đối với học sinh có phụ huynh ở nhà làm ăn gần:
Giáo viên chủ nhiệm phải giữ mối quan hệ thường xuyên với phụ huynh học
sinh để nắm thông tin về học sinh và qua phụ huynh trao đổi thêm về kết quả học
tập của học sinh, về đạo đức tác phong… để gia đình cùng cộng tác trong việc giáo
dục, nhắc nhở, động viên các em trong học tập và sinh hoạt.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng
rèn nề nếp cho học sinh như:
- Hằng ngày, kiểm tra sách vở của các em.
- Nhắc nhở con học và làm bài tập đầy đủ.
- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con theo thời khoá biểu.
- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.
- Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, tránh tình trạng vừa học vừa chơi.
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập của
con qua điện thoại hoặc qua sổ liên lạc.
15


Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm phải vận động tuyên truyền trong phụ huynh
học sinh phù hợp. Tuỳ theo các điều kiện, hoàn cảnh, gia cảnh của mỗi học sinh
mà giáo viên chủ nhiệm có phương pháp tuyên truyền, vận động thuyết phục. Để
cơng tác tun truyền, vận động có hiệu quả địi hỏi giáo viên phải tìm hiểu gia
cảnh, hồn cảnh, các điều kiện phục vụ khác có liên quan như điều kiện kinh tế, vị
thế và quan hệ xã hội, quan hệ xóm làng, thân tộc…Điều đó giúp cho giáo viên có
sự thấu hiểu sâu hơn về phụ huynh học sinh để giáo viên có đồng cảm, tạo dựng
được sự thân thiện, từ đó lời nói của giáo viên sẽ có tính thuyết phục hơn và họ sẽ
dễ dàng nghe theo và tạo điều kiện, động viên con em mình trở lại trường.
* Đối với học sinh có phụ huynh đi làm ăn xa phải thiết lập kênh thông tin
liên lạc với phụ huynh qua điện thoại, Gmail, Facebook, thư từ...

- Giáo viên chủ nhiệm chủ động thu thập số điện thoai, địa chỉ gmail,
facebook của từng phụ huynh học sinh trong lớp thông qua cuộc họp phụ huynh,
ghi vào sổ chủ nhiệm hoặc sổ tay cá nhân của chủ nhiệm.
- Liên lạc bằng điện thoại, hoặc nhắn tin qua gmail đối với các phụ huynh đi
làm ăn xa nhà để trao đổi tình hình và thơng báo kết quả học và rèn luyện của học
sinh theo từng tháng từng kì.
- Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên lạc nắm bắt các dịp phụ huynh về
quê để đến nhà trao đổi về tình hình học tập của con em mình.
3. Kết quả đạt được:
Đến thời điểm cuối học kỳ I của năm học 2019-2020, nhờ việc áp dụng các
biện pháp trên, lớp tôi đã chuyển biến rõ rệt về nề nếp, chất lượng học tập cũng
như các năng lực, phẩm chất và kĩ năng sống của các em:
* Duy trì tốt sĩ số: 34/34em, tỉ lệ 100%;
* Về năng lực:
- Tự phục vụ, tự quản: 34/34 em. Tỉ lệ 100%
- Hợp tác: 34/34 em. Tỉ lệ 100%
- Tự học và giải quyết vấn đề: 34/34 em. Tỉ lệ 100%
* Về phẩm chất:
- Chăm học, chăm làm: 31/34 em. Tỉ lệ 91,2%
- Tự tin, trách nhiệm: 31/34 em. Tỉ lệ 91,2%
- Trung thực, kỉ luật: 33/34 em. Tỉ lệ 97,1%
- Đoàn kết, yêu thương: 32/34 em. Tỉ lệ 94,1%
* Kiến thức, kĩ năng các mơn học Hồn thành: 34/34 em, tỉ lệ 100%;
* Lớp đạt Hoàn thành tốt nhiệm vụ

16


3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩacủa đề tài:

Đề hình thành các năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 ở
trường Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng, vì thơng qua đó HS hình thành
những thói quen, hành vi, năng lực, kĩ năng, phẩm chất tốt giúp học sinh có nền
tảng khơng ngừng hồn thiện bản thân ở các lớp trên. Bỡi vậy đòi hỏi người giáo
viên phải sáng tạo khơng ngừng, địi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng,
trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là
trong các biện pháp giáo dục phẩm chất, năng lực và rèn luyện kiến thức, kĩ năng
cho học sinh; phải khéo léo và tinh tế để duy trì và vận động phụ huynh tích cực
tham gia vào cơng tác giáo dục. Bởi vậy, chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết
với nghề, thực sự thương u học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp 4 và đã đánh dấu một
bước đột phát đi lên trong sự nghiệp giáo dục của xã nhà nói riêng và tồn ngành
nói chung. Đạt được kết quả cao trong rèn những năng lực, phẩm chất, kĩ năng
sống cho HS theo tôi cần lưu ý những nội dung sau:
Thứ nhất: Cần tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua phụ huynh,
tiếp cận tạo niềm tin.
Thứ hai: Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ năng sống
thông qua giáo viên dạy ở lớp trước.
Thứ ba: Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học.
Thứ tư: Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các biện pháp cụ thể
để giáo dục học sinh.
Thứ năm: Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và giữa
học sinh với học sinh.
Thứ sáu: Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội.
Thứ bảy: Phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh làm tốt công tác
giáo dục học sinh.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
............
Qua áp dụng một số biện pháp trên vào thực tế lớp mình phụ trách năm học
2019 - 2020, tơi nhận thấy đề tài này có tính khả thi, có khả năng vận dụng vào

thực tế và mang tính cần thiết giúp học sinh chủ động hơn trong học tập cũng như
trong thực tế cuộc sống giảm bớt sự phụ thuộc vào thầy, cô giáo, vào bố mẹ. Qua
báo cáo nội dung sáng kiến này chuyên môn trường cũng đã trao đổi thảo luận và
thống nhất sẽ đưa vào áp dụng cho các lớp trong năm học tới. Với hiệu quả đạt
được khi các biện pháp hình thành các năng lực và phẩm chất , kĩ năng sống cho
HS lớp 4, tôi mong muốn những biện pháp trên sẽ được nhân rộng cho các trường
học trong huyện, để thu hút các em học sinh, các bậc phụ huynh cùng các thầy, cô
17


giáo hưởng ứng tích cực, đảm bảo theo mong muốn của xã hội về nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã suy nghĩ, thể hiện và trải
nghiệm ở trường tiểu học mà tôi công tác có hiệu quả. Kính mong nhận được
những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp, của các bạn đồng nghiệp để
bản thân tôi bổ sung sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn và thực hiện có
hiệu quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

18



×