Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nên KTTT xây dựng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.17 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MAC-LENIN
Đề tài: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân
tích mâu thuẫn biện chứng trong nên KTTT xây dựng
XHCN
Họ và tên: Đặng Xuân Trình
Lớp: Anh 13 – K59 – KTKT
Chuyên ngành: Kế toán – Kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm

HÀ NỘI – THÁNG 6 NĂM 2021
1


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU………………………………………………………………………….3
CHƯƠNG I: TÍNH TẤT YẾU XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở
VIỆT NAM………………………………………………………………………………..4
1. Thực trạng của nền KTTT định hướng XHCN…………………………………4
2. Sự hình thành của nền KTTT định hướng XHCN……………………………...5
3. Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN…………………………………..5
4. Chủ trương xây dựng và phát triển của nền KTTT……………………………..6
CHƯƠNG II: NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM……………………………..6
1. Thành tựu của nền KTTT định hướng XHCN………………………………….6
2. Khó khăn của nền KTTT định hướng XHCN…………………………………..6
3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản trong
quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN……………………..…………………7


3.1. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất…………………7
3.2. Hạn chế……………………………………………………………………..8
3.3. Khắc phục…………………………………………………………………..9
4. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội……………...10
4.1. Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội……………………...10
4.2. Nhược điểm………………………………………………………………11
5. Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN…………….12
5.1. Tích cực………………………………………………………………….12
5.2. Tiêu cực………………………………………………………………….13
5.3. Cách giải quyết…………………………………………………………..14
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………...15
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………….16

LỜI NÓI ĐẦU
2


Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn,
làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập
dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc
tế. Chúng ta có được những thành cơng rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ
quan cũng như khách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành cơng
của sự nghiệp đổi mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, được khởi xướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI.
Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta cịn rất nhiều mặt hạn chế do
chính nền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng
thời kỳ quá độ chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ
tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước thì ngồi những khó khăn về kinh tế, còn tồn

tại những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế
mà việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần
thiết.
Nghiên cứu đề tài: "Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu
thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay" dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúp
chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc
phát triển kinh tế.

CHƯƠNG I: TÍNH TẤT YẾU XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH
3


HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
1. Thực trạng của nền KTTT định hướng XHCN
Trước năm 1986, ở Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đã có nhận thức
khơng đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau và không thể cùng
tồn tại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH khơng
thể xây dựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế
phi thị trường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không
thể tồn tại trong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam.
Mơ hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tập
trung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời bình,
mơ hình đó tỏ ra khơng phù hợp và thực chất đó là mơ hình phi kinh tế. Hơn thế
nữa đất nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng
kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt đất nước bị bao vây kinh tế,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trong thời kỳ này, mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thị trường, quan
hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không được nhận thức

vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bị xem nhẹ,
thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch Nhà nước, các chỉ
tiêu kinh tế, các quyết định kinh tế được soạn thảo từ Nhà nước, làm cho thị trường
bị biến dạng dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đến khủng
hoảng kinh tế.
Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế
XHCN. Đó là nền KTTT theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.

2. Sự hình thành của nền KTTT định hướng XHCN
4


Vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nơ lệ lồi người đã
có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản
xuất đã bắt đầu có sản phẩm thặng dư, mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu
nhiên, nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm
chủ những sản phẩm "dư thừa" đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản
phẩm mà mình thiếu do kết quả của phân cơng chun mơn hố đưa lại. Thị trường
sơ khai xuất hiện từ đó.
Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã
hội phong kiến đầu xã hội tư bản chủ nghĩa KTTT mới được xác lập hoàn toàn.
Ngày nay, khi KTTT hiện đại đã phát triển một cách phổ biến thì đặc trưng cơ
bản đó, khơng những khơng mất đi mà còn được bổ sung, làm phong phú thêm bởi
các hình thức và nhân dân của quan hệ trao đổi và vai trò can thiệp của Nhà nước
vào q trình đó.
Như vậy nên KTTT phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một cơng trình sáng
tạo của lồi người trong q trình sản xuất và trao đổi, đó là trình độ văn minh mà
nhân loại đã đạt được. Do đó mọi quan niệm cho rằng KTTT là phát minh riêng
của CNTB là khơng có căn cứ, việc đồng nhất KTTT với CNTB để rồi né tránh,
hoặc sử dụng nó như một cơng cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng cơ chế thị

trường có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN... đều có thể dẫn đến
những sai lầm đáng tiếc.

3. Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN
Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.

4. Chủ trương xây dựng và phát triển của nền KTTT định
5


hướng XHCN
Thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Đó chính là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH.

CHƯƠNG II: NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM.
1. Thành tựu của nền KTTT định hướng XHCN
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta tiến bắt đầu tiến hành công cuộc
đổi mới toàn diện, và cho đến nay, sau hơn 15 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết
quả to lớn trong mọi mặt đời sống xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp ba,
từ tình trạng hàng hố khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu
cầu thiết yếu của nhân dân.
Từ một nước phải nhập khẩu gạo, hiện nay chúng ta đã vươn lên thành nước
xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới. Trong GDP, tỷ trọng nơng nghiệp giảm từ

38,7% xuống cịn 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch
vụ tăng từ 38,6% lên 39,1%....

2. Khó khăn của nền KTTT định hướng XHCN
Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ nền
kinh tế yếu kém, mang tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành
theo cơ chế thị trường địi hỏi phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học, công nghệ
phát triển và một nền kinh tế vững mạnh.... tiếp theo đó là cơ chế quản lý của Nhà
nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện nó
khơng cịn đồng bộ. ý thức hệ còn chưa được rõ ràng tác phong cá nhân yếu kém...
6


Mặt khác, bản thân KTTT có xu hướng tự phát, cịn định hướng XHCN là hoạt
động có ý thức của con người dựa trên nhận thức các quy luật khách quan của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một trong những mâu thuẫn cơ bản có quan hệ
đến nhiều mâu thuẫn khác... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và
phát triển KTTT, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển.

3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mâu thuẫn cơ bản trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN.
3.1. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, cịn quan hệ
sản xuất là hình thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là
yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình
độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa và trở thành
yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi
quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn phù
hợp với lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau,
nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở Việt Nam, mặc
dù Nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay
vào xây dựng và phát triển nền KTTT thì lực lượng sản xuất ln tỏ ra mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất.

3.2. Hạn chế
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những điểm cơ bản của nền KTTT,
7


thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để
tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt
động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Việc thí điểm cổ phần hố doanh nghiệp Nhà nước còn chậm chạp. Chưa quan
tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế
hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ cịn là hình thức, cản trở sản xuất
phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiệm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác
với phát triển.
Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát
huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này.
Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngồi cịn nhiều sơ hở, kinh tế vĩ
mơ cịn những yếu tố thiếu vững chắc.
Cơng tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch xây dựng, quản
lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính cịn chậm.
Thương nghiệp Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy
tốt vai trò chủ đạo trên thị trường.
Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra
tác động xấu với sản xuất.
Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn

lớn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình
trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất có mất sự cân đối.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp, nó khơng những giải phóng được sức sản xuất
mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy vấn
đề cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này.
3.3. Khắc phục
8


Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa nguồn lực, tạo sức bật mới cho
phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở
hữu khác nhau.
Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do
luật định và được pháp luật bảo vệ.
Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành tập đồn
kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển KTTT để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan
trọng: xây dựng các tổng Công ty Nhà nước đủ mạnh để làm nịng cốt trong những
tập đồn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh
doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo
cơ chế Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh
bình đẳng trước pháp luật xố bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không
nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng

động thúc đẩy doanh nghiệp có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng phát triển hợp
tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền KTTT.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hồn thiện các loại thị trường đi
đơi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng
động, có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh,
công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
9


Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an tồn hiệu quả thị
trường chứng khốn, thị trường bảo hiểm. Hình thành và phát triển thị trường bất
động sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện cơng ăn việc làm cho người dân từ đó
nâng cao đời sống xã hội.
Và việc cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng
nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

4. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội.
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện
tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi tích tập thể
và lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
chẳng những khơng bị mất đi mà cịn có những diễn biễn phức tạp hơn.
Nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được
tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch.... KTTT có sự quản lý của Nhà
nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều
kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức
trách của mình.
4.1. Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội

Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một
động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu cá nhân có lợi, nhưng
lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ cá nhân. Lợi ích
chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tơn
trọng và phát huy, cịn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá
nhân, là nguyên nhân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số
cá nhân trong bộ máy của Nhà nước.
10


Nếu xã hội khơng có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn
này chẳng những khơng giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì cùng với sự phát triển
kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao
cho cá nhân trực tiếp quản lý.
Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng
viên là rất nghiêm trọng.
4.2. Nhược điểm
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt,
kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm,
không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước,
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó đi vào
cuộc sống.
Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành cịn bất cập, thiếu kiểm tra,
đơn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao.
Nhiều cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng còn chưa
được xử lý thật kiên quyết.

Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và
chưa được thơng suốt ở các cấp, các ngành.
Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
Tổ chức bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng
nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, khơng ít trường hợp trên và
dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho
việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực phát triển.
Một số người và cơ quan do lợi ích cá nhân, cục bộ khơng muốn đẩy mạnh cải
11


cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước....
Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng
nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc
dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo
lợi nhuận. Hiện tượng làm hành giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm.
Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong
nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý
của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế.

5. Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
5.1. Tích cực
KTTT là môi trường kinh tế thuận lợi cho việc xác lập, địa vị chủ thể của cá
nhân, phát huy năng lực cá nhân, hình thành tính tích cực tự giác của cá nhân
người lao động, giải phóng cá nhân hoạt động kinh tế khơi phục thuộc vào kế
hoạch độc đốn, lơi cuốn họ vào thị trường trao đổi và trở thành chủ thể của sự vận
hành kinh tế.
KTTT đòi hỏi mọi người phải quan tâm đến giá trị của sản phẩm lao động tức
là phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế trong nhận thức và hoạt động của con người.

Nếu như trước đây chúng ta quá nhấn mạnh đến giá trị tinh thần mà xem nhẹ
lợi ích vật chất, khơng quan tâm đến lợi ích cá nhân, thì giờ đây cơ chế thị trường
địi hỏi phải nhìn nhận đúng mức lợi ích vật chất và lợi ích cá nhân là động lực của
sản xuất.
Bản chất của KTTT là cạnh tranh, năng động và sáng tạo khơng ngừng. Nó địi
hỏi mỗi người phải nỗ lực, độc lập và sáng tạo trong hoạt động của mình để có thể
vượt lên thực tại, đứng vững và khẳng định mình trong thử thách.
Trong KTTT, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên
mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng.
12


KTTT phản ánh đầy đủ trình độ văn mình và phát triển xã hội, là nhân tố phát
triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên.
KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng
và đi vào phục hồi, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại.
Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi,
và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn.
Đây là kết quả đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ
khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mơ tồn xã hội.
5.2. Tiêu cực
KTTT đang làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Việc
tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân, chỉ chú trọng đến lợi ích vật chất mà chà đạp lên
những giá trị tinh thần truyền thống đang làm tha hoá và biến chất một lớp người
trong xã hội. KTTT làm cho con người phụ thuộc vào vật (hàng hoá), tiền tệ, giá trị
trao đổi và quan hệ trảo đổi hàng hoá.
Trong quan niệm của họ "tiền là điều kiện cao nhất" tâm lý sùng bái đồng tiền
lan tràn trở thành thứ "bái vật giáo tiền tệ".
Tiền tệ là giá trị trao đổi ai có tiền là có quyền lực xã hội và dựa vào quyền lực

này mà chiếm đoạt tất cả những thứ mà người đó cần.
Họ quyết tâm làm giàu bằng bất cứ giá nào, bằng mọi cách và bằng mọi con
đường với đủ phương kế. Đó là một nguyên nhân sinh ra các tệ nạn xã hội như
tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và của công dân...
Tác động tự phát của cơ chế thị trường biểu hiện đa dạng, nhiều hình, nhiều
vẻ, song nó tập trung ở lối sống thực dụng khơng tình người.
Đồng tiền làm băng hoại đạo đức và chi phối ngay cả những quan hệ vốn là
thiêng liêng như quan hệ giữa cha mẹ với con cái, quan hệ vợ chồng, quan hệ thầy
trò, thậm chí ngay cả trong tình u...
13


Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu con người XHCN là
một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là 2 mặt
đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và q trình xây dựng con người vừa có
sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng
và phát huy con người, vừa tạo ra những độc tố để huỷ hoại con người.
5.3. Cách giải quyết
Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được
giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN Đảng ta xác định "sản xuất hàng hố khơng đối lập với CNXH mà là
thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH được xây dựng".
Như vậy, Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con
người CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản
lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn
vị sản xuất kinh doanh.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây
dựng nguồn lực con người cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục
nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân

văn.
Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ cácdi sản văn hoá
nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là cơng cụ, phương tiện quan trọng để tác động
góp phần giải quyết những mâu thuẫn nêu trên.

KẾT LUẬN
Qua nội dung của bài tiểu luận, chúng ta đã sáng tỏ được phần nào thực trạng
của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong công cuộc đổi mới và đã đạt
14


được rất nhiều thành tưụ to lớn. Song đứng trước xu thế phát triển không ngừng
của thế giới, chúng ta vẫn phải luôn phấn đấu về mọi mặt: kinh tế cũng như đời
sống xã hội.
Kinh tế thị trường - với mặt trái của nó là điều hồn tồn khơng thể tránh khỏi.
Đảng và Nhà nước ta đã khéo léo vận dụng những ưu điểm của kinh tế thị trường
để phát triển nền kinh tế nước nhà, đó là sự vận dụng có sự phù hợp với điều kiện
khách quan cũng như chủ quan. Để giảm bớt những tiêu cực, những mâu thuẫn
xung quanh vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường thì sự quản lý của Nhà nước
đóng vai trị rất quan trọng.
Một xã hội phát triển hài hồ các mặt kinh tế, đạo đức, văn hoá thực chất đó là
một xã hội đậm đà tính người.
Vì vậy có thể nói, khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta
xây dựng đồng nghĩa với khái niệm kinh tế thị trường nhân văn. Phấn đấu từng
bước đạt tới những mục tiêu của nền kinh tế thị trường nhân văn đó chính là từng
bước chúng ta thực hiện lý tưởng nhân văn của nhân loại. Và cũng chính vì vậy,
cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hơm nay hồ được vào dịng chảy
chung của nhân loại, chúng ta được cả cộng đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng
và ủng hộ. Chúng ta đang đi trên con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn và

chúng ta tin rằng Đảng sẽ lái con thuyền Việt Nam cập tới bến bờ vinh quan và
hạnh phúc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Đào Duy Huân "Mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN ở Việt
Nam" Báo PTKT số 105 năm 1999.
15


2. Nguyễn Chí Mỹ "Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền KTTT với việc
xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" CTQG, 1999.
3. Mai Ngọc Cường "KTTT định hướng XHCH ở Việt Nam" CTQG, 2001.
4. GS. TS. Phan Tất Dong "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội một nội dung của KTTT định hướng XHCN" Báo QPTD số 7/2000.
5. Nguyễn Sinh Cúc "KTTT định hướng XHCN" NXB Thống kê
6. Nguyễn Văn Nhớn - Dương Xuân Ngọc "Vai trị của Nhà nước trong việc
thực hiện cơng bằng xã hội" - Tạp chí Triết học 7 (134)/2002.
7. TS. Phạm Văn Sinh "Về đặc trưng quan hệ sản xuất của mơ hình KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam" - Báo PTKT 115/2000.
8. Lê Hồng Khánh "Vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay" Triết
học số 2 (120), tháng 4/2001.
9. Đặng Hữu Toàn "Xác định, đánh giá các giá trị đạo đức trong KTTT ở nước ta
hiện nay" - Báo Nghiên cứu - Trao đổi số 6(3/2000).
10. Nguyễn Văn Huyên "Xây dựng nền KTTT vì một xã hội nhân văn" Báo
Triết học, số 7/2002.

16




×