Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Đề tài những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.17 KB, 63 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay
là tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; trong đó điều kiện đặt ra đối với một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước không thể đứng
cao hơn và vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã
hội ban hành pháp luật.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất trong xã hội, được hình thành từ nhân
dân và thực hiện quyền điều hành, quản lý xã hội trong đó có những nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Đe có thể thực
hiện được những nhiệm vụ này, Nhà nước phải thơng qua các cơ quan đại diện cho mình ở các ngành, các
cấp chính quyền mà cụ thể là thơng qua việc thực thi công vụ của công chức nhà nước. Trong q trình
Nhà nước thực hiện các cơng việc thuộc thẩm quyền của mình thơng qua hành vi của đội ngũ cơng chức
thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Ngồi việc gây thiệt hại trong
q trình thực thi cơng vụ, thực tiễn cịn đặt ra nhiều tình huống cụ thể mà trong đó Nhà nước có thể trực
tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, vấn đề đặt ra là nếu cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do
nguyên nhân từ phía cá nhân, chủ thể khác thì được cá nhân, tổ chức đó bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật, vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước có phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại hay không hay Nhà nước được miễn trừ trách nhiệm? Thực tiễn Việt Nam hiện
nay đã có các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước: cụ
thể là các quy định trong Bộ luật Dân sự 1995 và nay là Bộ luật Dân sự 2005 quy định về trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước (Điều 619 và Điều 620 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các cơ quan nhà nước trong trường hợp cán bộ, công chức gây thiệt hại và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của các cơ quan tiến hành tố tụng trong trường hợp người có thẩm quyền của cơ quan


2

tiến hành tố tụng gây thiệt hại) và các văn bản dưới luật khác quy định về vấn đề này. Trong thời gian gần


đây, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm
2003 (sau đây gọi tắt lả Nghị quyết số 388) về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong tố tụng hình sự gây ra. Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa nhận trách
nhiệm của Nhà nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực thi các quy định của pháp luật thì
khơng hiệu quả. Sự ra đời của Nghị quyết số 388 dù đã góp phần là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân,
tổ chức có thể bảo vệ quyền lợi của mình nhưng chưa đầy đủ, bao qt và tồn diện.
Chính từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản, cũng như
đánh giá một cách tồn diện nội dung và q trình thực thi pháp luật hiện hành về trách nhiệm của Nhà
nước sẽ là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước một cách toàn diện, đầy đủ,
góp phần hồn thiện pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có một số chun đề nghiên cứu và bài viết liên quan đến nội
dung của đề tài như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự". Luận văn này nghiên cứu nhiều vấn đề, trong đó
có những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả như: tiếp cận vấn đề trách nhiệm dân sự,
khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và đặc điểm pháp lý.

- Bài viết "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" của TS Phùng Trung Tập Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong bài viết này có đề
cập đến nhiều vấn đề trong đó có nội dung có tính chất tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài
của tác giả như: việc phân tích những hành vi có lỗi trong một số loại trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng
(về cơ sở xác định lỗi, hình thức lỗi), hay khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật.


3

- Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tổ tụng gây ra". Nội dung của Luận án đề cập đến nhiều vấn đề có tính tham khảo quan
trọng cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả như: đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm

nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra khi
tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Ngồi ra, cịn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số tác giả làm công tác xây
dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo Luật Bồi
thường Nhà nước (trong chương trình chuẩn bị trong năm 2006 của Quốc hội khóa 11) cũng là những tài
liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước cho cá nhân, tổ
chức khi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong q trình thực thi cơng vụ của cơng chức nhà nước, khi Nhà
nước ra những quyết định trái pháp luật và một số trường hợp cụ thể khác;
- Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc;
- Nội dung và thực tiễn thi hành pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thuờng
thiệt hại của Nhà nuớc.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ứng dụng cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học tin cậy khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa
học phù hợp khác.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a) Mục đích


4

- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng Nhà nước phải chịu trách nhiệm
bồi thường cho những thiệt hại đã gây ra cho cá nhân, tổ chức trong một số trường hợp cụ thể;
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước, liên hệ với thực tiễn của Việt Nam để khẳng định sự cần thiết của việc thừa nhận trách nhiệm của

Nhà nước và phải thiết lập một cơ chế thực thi nghiêm chỉnh và đầy đủ;
- Phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước và của thực tiễn thi hành;
- Kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước.
b) Nhiệm vụ
- Nghiên cứu để tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành của tư tưởng về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước;
- Bước đầu phân tích một số vấn đề lý luận để thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước; nêu và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở
Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Nhà nước;
- Trình bày, phân tích và so sánh một số chế định cơ bản trong pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước của một số quốc gia trên thế giới;
- Kiến nghị để hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Trên cơ sở những phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản, luận văn khẳng định việc thừa nhận
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp, đồng thời luận văn đưa ra cách tiếp
cận mới về trách nhiệm của Nhà nước;


5

- Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2
chương:

Chương 1: Khải quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và
một sổ kiến nghị

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA NHÀ NƯỚC
1.1.

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHỂ ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI CỦA NHÀ NƯỚC

1.1.1. Sơ lược về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước của một số nước
trên thế giới
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một vấn đề còn rất mới cả về mặt khoa
học lẫn thực tiễn pháp luật thực định trên thế giới. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, từ quan điểm


6

chủ quyền tuyệt đối của Nhà nước nên quan niệm phổ biến trên thế giới được biết đến vẫn là quan niệm
về quyền miễn trừ của Nhà nước, theo đó "vua khơng thể làm gì sai" và vì vậy khơng phải chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động của mình, về mặt lịch sử, xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai, nhiều nước giành được độc lập, nhiều cuộc cách mạng dân chủ địi quyền lợi chính
đáng kể cả trong trường hợp lợi ích bị xâm phạm bởi cơ quan cơng quyền. Do quá trình lịch sử như vậy
mà trong Hiến pháp của nhiều nước đã ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và nhiều
quốc gia trên thế giới đã có Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
Nhật Bản là nước mà pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước rất hiệu quả. Quá

trình hình thành của lĩnh vực pháp luật này cũng rất phức tạp. Trong thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ
hai, ở Nhật Bản đã tồn tại một hệ thống giải quyết các khiếu kiện đối với Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống
này lại là hệ thống về trách nhiệm khơng thuộc Nhà nước, theo đó các yêu cầu về bồi thường nhà nước sẽ
không được giải quyết và do vậy, các đương sự phải khởi kiện theo thủ tục tố tụng tư pháp; kết quả là các
hành vi vi phạm pháp luật của các quan chức nhà nuớc đuợc nhìn nhận nhu những hành vi của cá nhân
đơn thuần [5, tr. 452]. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản ban hành Hiến pháp năm 1947, tại
Điều 17 có quy định: "Mọi nguời có quyền yêu cầu Nhà nuớc hoặc cơ quan công quyền bồi thuờng thiệt
hại mà họ phải gánh chịu do những hành vi trái pháp luật của các quan chức nhà nuớc gây ra theo quy
định của pháp luật". Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để nguời dân Nhật Bản có thể tự bảo vệ quyền
lợi của mình và cũng nhu cơ sở hiến định quan trọng để xây dựng các đạo luật về trách nhiệm bồi thuờng
thiệt hại của Nhà nuớc. Cùng trong năm 1947, Nghị viện Nhật Bản đã thông qua Luật Bồi thuờng nhà
nuớc. Đạo luật này tuy chỉ có sáu (6) điều luật nhung đã khẳng định đuợc ý nghĩa to lớn của nó. Nội dung
cụ thể của Luật bao gồm: Điều 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc và
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi hoàn của công chức nhà nuớc (hay trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại
xảy ra do thực hiện công quyền); Điều 2: Trách nhiệm bồi thuờng trong truờng hợp có thiệt hại xảy ra đối
với nguời dân do những sai sót trong việc xây dựng hoặc quản lý các con đuờng, sông và các phuơng tiện
công cộng khác (hay trách nhiệm bồi thuờng xảy ra do khiếm khuyết trong xây dựng và quản lý công


7

trình cơng cộng); Điều 3: Trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể trong hai truờng hợp quy định tại hai
truờng hợp trên; Điều 4: Việc áp dụng đồng thời Bộ luật Dân sự khi giải quyết quan hệ bồi thuờng nhà
nuớc; Điều 5: Việc áp dụng các đạo luật khác trong truờng hợp những đạo luật đó có quy định về trách
nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc trong lĩnh vực riêng biệt; Điều 6: về nguyên tắc có đi có lại, cụ
thể là truờng hợp nguời nuớc ngồi bị thiệt hại thì truờng hợp nào sẽ đuợc bồi thuờng. Các khiếu kiện yêu
cầu Nhà nuớc bồi thuờng đuợc coi là các vụ kiện dân sự [5, tr. 454] nên các quy định của Bộ luật Dân sự
Nhật Bản sẽ đuợc viện dẫn áp dụng trong truờng hợp cần thiết. Luật Bồi thuờng nhà nuớc của Nhật Bản
tuy đơn giản nhung việc áp dụng lại rất linh hoạt vì Tịa án Nhật Bản có thẩm quyền rất lớn trong việc
giải thích và áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Năm 1950, Nghị viện Nhật Bản tiếp tục

ban hành Luật Đền bù hình sự, theo đó, quy định trách nhiệm đền bù tổn thất của Nhà nuớc đối với những
nguời bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự - một điểm cần luu ý là đạo luật này chỉ áp dụng cho
truờng hợp mà nạn nhân đã đuợc chuyển sang giai đoạn xét xử ở Tòa án và đuợc Tòa án phán quyết là
trắng án. Một điểm cần luu ý khác là đạo luật này nhằm mục đích áp dụng cho những hành vi của cơ quan
tiến hành tố tụng mà không xem xét đến yếu tố lỗi của nguời trực tiếp thực hiện hành vi tố tụng. Theo giải
thích của các chuyên gia Nhật Bản thì đây là một trong những đạo luật nhằm áp dụng cho truờng hợp:
hành vi cần thiết phải làm và hành vi này không trái pháp luật; hành vi cần thiết mà Nhà nuớc đã thực
hiện dù cần thiết và hợp pháp song không thể tránh đuợc việc gây ra một tổn thất cho ai đó; việc gây ra
tổn thất đuợc coi nhu việc một nguời chịu thiệt thịi vì một lợi ích chung và vì vậy Nhà nuớc có biện
pháp, chính sách đền bù thỏa đáng [33, tr. 5-6]. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ Tu pháp Nhật Bản còn
ban hành Quy tắc về bồi thuờng cho nguời bị tình nghi, theo đó những nguời là nạn nhân của hoạt động
điều tra, truy tố nhung đuợc chấm dứt hoạt động tố tụng mà chua chuyển sang giai đoạn xét xử ở Tịa án
thì cũng sẽ đuợc đền bù.
Một quốc gia châu Âu có hệ thống pháp luật rất phát triển là Cộng hòa Liên bang Đức thì nuớc
này khơng có một hệ thống pháp luật rõ ràng về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc. Năm
1981, quốc gia Tây Đức cũ có ban hành Luật về trách nhiệm Nhà nuớc; tuy nhiên, sau đó đạo luật này bị


8

tun là trái Hiến pháp và vì vậy khơng có hiệu lực thi hành. Hiện nay việc xét xử của Tòa án đối với các
yêu cầu bồi thuờng nhà nuớc đuợc thực hiện trên cơ sở Điều 34 Hiến pháp Đức và Điều 839 Bộ luật Dân
sự Đức về trách nhiệm của công chức do vi phạm trách nhiệm công vụ [8, tr. 1].
Một quốc gia khác - Tmng Quốc - nuớc láng giềng của Việt Nam cũng có hệ thống pháp luật về
trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc đã đuợc định hình ổn định. Văn bản pháp luật hiện nay
đuợc áp dụng để giải quyết các yêu cầu bồi thuờng nhà nuớc của Trung Quốc là Luật về trách nhiệm bồi
thuờng thiệt hại của Nhà nuớc đuợc Quốc hội Trung Quốc thông qua năm 1994. Đạo luật này quy định
trách nhiệm của Nhà nuớc Trung Quốc trong truờng hợp các cơ quan nhà nuớc gây thiệt hại trái pháp luật
cho cá nhân, tổ chức; phạm vi áp dụng của đạo luật này loại trừ lĩnh vực lập pháp, theo đó chỉ những hành
vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hành chính và tu pháp hình sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật

này [17]. Khác với Luật Bồi thuờng nhà nuớc của Nhật Bản, Luật của Trung Quốc lại quy định rất chi tiết
và cụ thể về các vấn đề, ví dụ: các truờng hợp đuợc bồi thuờng do xâm phạm quyền nhân thân (Điều 3);
các truờng hợp đuợc bồi thuờng do xâm phạm về tài sản (Điều 4); các truờng hợp Nhà nuớc khơng phải
bồi thuờng (Điều 5) v.v... [17]. Ngồi ra, để áp dụng Luật này trên thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao
Trung Quốc và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc cũng đã có văn bản huớng dẫn để thi hành.
1.1.2. Sơ lược về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước của Việt Nam
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được Nhà nước ta ghi nhận từ sau khi
thành lập nước. Điều này được thể hiện ngay từ Hiến pháp năm 1959, Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định:
"Người bị thiệt hại về hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi
thường" [23].
Hiến pháp năm 1980 khẳng định pháp luật bảo hộ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của
công dân bên cạnh việc xác định mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của cơng dân phải được
kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường (Điều 70 và Điều
73).


9

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1980, điều 24 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy
định:
Cơng dân có quyền khiếu nại và tố cáo những việc làm trái pháp luật của cơ quan điều
tra, Viện Kiểm sát và Tòa án hoặc của bất kỳ cá nhân nào thuộc cơ quan đó.
Cơ quan có thẩm quyền phải xem xét và giải quyết nhanh chóng các khiếu nại và tố cáo,
thông báo bằng văn bản kết quả cho nguời khiếu nại và có biện pháp khắc phục.
Cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thuờng cho nguời bị thiệt
hại. Cá nhân có hành vi trái pháp luật thì tùy từng truờng hợp mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị tmy
cứu trách nhiệm hình sự [25].
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định nguyên tắc: "Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích Nhà nuớc
và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý theo pháp luật" (Điều 12), nhung đã phân biệt hai loại trách
nhiệm: Điều 72 quy định trách nhiệm của cơ quan tố tụng: "Nguời bị bắt bị giam giữ, bị truy tố, xét xử

trái pháp luật có quyền đuợc bồi thuờng thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Nguời làm trái pháp
trong việc bắt, giam giữ, truy tố xét xử gây thiệt hại cho nguời khác phải bị xử lý nghiêm minh". Điều 74
quy định "Mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải đuợc xử lý
nghiêm minh, nguời bị thiệt hại có quyền đuợc bồi thuờng về vật chất và phục hồi danh dự"
Trên cơ sở nguyên tắc chung của Hiến pháp năm 1992 về việc bảo hộ quyền lợi của tổ chức, cá
nhân và trách nhiệm dân sự của nguời có hành vi gây thiệt hại, để xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm
này và khắc phục các tồn tại truớc đây, Bộ luật Dân sự đã quy định trách nhiệm bồi thuờng do nguời có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định:
Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thuờng thiệt hại do nguời có thẩm quyền của mình
gây ra trong khi thi hành cơng vụ; trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố xét xử và thi
hành án.


1
0

Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu nguời đã gây ra thiệt hại phải hoàn trả
khoản tiền mà mình đã bồi thuờng cho nguời bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu nguời
có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành cơng vụ [27].
Cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự, ngày 3/5/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
47/CP về giải quyết bồi thuờng thiệt hại do công chức, viên chức nhà nuớc, nguời có thẩm quyền trong cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra.
Ngay sau khi Nghị định 47/ CP ra đời, để quy định chi tiết và huớng dẫn thi hành Nghị định
47/CP, các cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nuớc trong lĩnh vực có liên quan đã ban hành nhiều văn
bản huớng dẫn quan trọng: Ngày 4/6/1998 Ban Tổ chức - Cán bộ Chính Phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã ban
hành Thông tu số 54/1998 TT-TCCP huớng dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định 47/CP; ngày
30/3/1998 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tu số 38/1998/TT-BTC huớng dẫn việc lập dự toán ngân sách
nhà nuớc cho bồi thuờng thiệt hại do cơng chức, viên chức, nguời có thẩm quyền của cơ quan nhà nuớc,
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Trong những năm gần đây vấn đề bồi thuờng thiệt hại cho nguời bị oan do nguời có thẩm quyền

trong hoạt động tố tụng gây ra đuợc Đảng ta đặc biệt quan tâm, cụ thể: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày
21/3/2000 của Bộ Chính trị chỉ rõ:
Cùng với việc phát hiện và chú trọng giải quyết kịp thời các vụ án có dấu hiệu oan, sai,
cần khẩn truơng nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để bồi thuờng thiệt hại với các truờng
hợp bị oan, sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra...
Việc bồi thuờng thiệt hại cần thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với từng truờng hợp cụ
thể; những tài sản đã bị tịch thu, kê biên sai thì cần hồn trả ngay; cần làm rõ cơ sở pháp lý,
trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân; phân định trách nhiệm từng cơ quan và cá nhân tiến hành tố
tụng và mức độ thiệt hại về dân sự do việc làm oan sai gây ra... [10].


1
1

Nghị quyết số 08 -NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị yêu cầu "... khẩn truơng ban hành và
thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thuờng thiệt hại đối với những truờng hợp oan, sai
trong hoạt động tố tụng;nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thuờng thiệt hại về tu pháp..." [11].
Quán triệt đầy đủ yêu cầu Chỉ thị số 53-CT/TW và Nghị quyết số 08, ngày 17/3/2003, ủy ban
thuờng vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/ NQ-UBTVQH11 bồi thuờng thiệt hại cho
nguời bị oan do nguời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra.
Ngày 25/3/2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Tu
pháp, Bộ Quốc phịng và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tu số 01/2004/ TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC-BTP-BQP-BTC huớng dẫn việc thực hiện Nghị quyết 388 (sau đây gọi tắt là Thông tu 01).
Ngày 13/5/2004, Viện truởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04 về việc triển khai
thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự và yêu cầu Viện kiểm sát các cấp tiến hành tổng rà soát lập danh sách
những nguời bị oan thuộc trách nhiệm bồi thuờng của Viện kiểm sát nhân dân. Tiếp đố, ngày 28/5/2004
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có văn bản huớng dẫn Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung uơng thực hiện việc tổng rà sốt, ngày 1/6/2004 đã có huớng dẫn thống nhất mở sổ thụ lý vụ
việc giả quyết đơn yêu cầu bồi thuờng thiệt hại nguời bị oan và huớng dẫn về các trình tự thủ tục giải
quyết bồi thuờng; Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 72/2004/KHXX ngày 21/4/2004
huớng dẫn cụ thể hơn về thẩm quyền và các thủ tục bồi thuờng của ngành tòa án theo quy định của Nghị

quyết 388; Bộ Công an đã ban hành Thông tu số 18/2004/TT-BCA ngày 9/11/2004 huớng dẫn bồi thuờng
thiệt hại cho các truờng hợp bị oan do nguời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc Cơng
an nhân dân gây ra.
Ngày 26/11/2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thơng qua Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, toàn diện các quy định tố tụng hình sự của nuớc ta cho phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề Bồi thuờng cho nguời bị oan quy định tại
Nghị quyết 388, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã ghi nhận quyền đuợc bồi thuờng thiệt hại và phục


1
2

hồi danh dự, quyền lợi của nguời bị oan trở thành một nguyên tắc cơ bản của Bộ luật. Điều 29 Bộ luật
quy định:
Nguời bị oan do nguời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
đuợc bồi thuờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thuờng thiệt
hại và phục hồi danh dự quyền lợi cho nguời bị oan; nguời đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi
hồn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật [28].
Bộ luật Dân sự năm 2005 - Bộ luật điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn các quan hệ dân sự của cá
nhân, pháp nhân, tổ chức và thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995 đã tiếp tục ghi nhận trách nhiệm bồi
thuờng thiệt hại của cán bộ cơng chức và nguời có thẩm quyền của cơ quan tố tụng. Cụ thể:
Cơ quan tổ chức quản lý cán bộ công chức phải bồi thuờng thiệt hại do cán bộ cơng chức
của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ cơng chức có trách nhiệm u cầu cán bộ cơng chức
phải hồn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ cơng chức có lỗi trong khi
thi hành công vụ (Điều 619) [30].

Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thuờng thiệt hại do nguời có thẩm quyền của mình gây
ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tố tụng

Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu nguời có thẩm quyền đã gây thiệt hại
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu nguời có thẩm quyền có lỗi trong
khi thi hành nhiệm vụ (Điều 620) [30].
Nhu vậy, vấn đề trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc Việt Nam đã manh nha hình thành
ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nuớc thông qua một số quy định cụ thể trong Hiến pháp. Chỉ đến
khi Bộ luật Dân sự 1995 đuợc thông qua (hiện nay là Bộ luật Dân sự 2005 và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác), pháp luật về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc mới thực sự định hình. Hiện
nay, Nghị quyết số 49/2005/NQ-QH11 ngày 19/11/2005 về Chng trình xây dựng pháp luật của Quốc


1
3

hội năm 2006, Quốc hội đã đua dự án Luật Bồi thuờng nhà nuớc vào chng trình chuẩn bị. Dự án Luật
này đang đuợc kỳ vọng sẽ điều chỉnh một cách toàn diện quan hệ bồi thuờng nhà nuớc, khắc phục những
hạn chế của những văn bản pháp luật truớc đó.
1.2.

QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA

NHÀ NƯỚC
1.2.1. Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng không loại trừ quan hệ phát sinh giữa Nhà nước
và công dân. Nhà nước và các cá nhân, tổ chức khác khi là các bên trong một quan hệ pháp luật.
Quá trình chuyển đổi từ xã hội cũ sang xã hội mới, từ xã hội thần dân sang xã hội công dân kéo
theo những quan niệm hoàn toàn mới về mối quan hệ giữa cơng dân và Nhà nước, chính những quan

niệm này đóng vai trò to lớn trong việc thay đổi nội dung của pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước
và người dân. Trong xã hội thần dân, quan niệm chính thống, ngự trị trong nhiều thế kỷ là "Vua không
bao giờ sai", theo đó Vua - hay rộng hơn là Nhà nước khơng thể làm gì sai trái và do đó khơng phải chịu

trách nhiệm đối với mọi hoạt động của mình. Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội, sự mở rộng dân
chủ cộng với sự bình đẳng ngày càng thể hiện rõ trong các mối quan hệ giữa nguời dân và Nhà nuớc đang
thu hẹp dần chỗ đứng của quan niệm này trong xã hội. Nhà nuớc với tu cách là một chủ thể của pháp luật,
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật đều có những quyền, nghĩa vụ và phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nhu vậy, việc Nhà nuớc nếu gây thiệt hại thì phải có
trách nhiệm bồi thuờng cho bên cịn lại trong quan hệ pháp luật là "câu chuyện hiển nhiên trong xã hội
mới" [22, tr. 1]. Xét về bản chất, trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc thể hiện ở những nội
dung cơ bản sau đây:
a) Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một cơ chế pháp lý hiệu quả
ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước
Nhà nuớc với tu cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành xã hội thông qua quyền lực
đã đuợc ghi nhận (dù trực tiếp Nhà nuớc thực hiện hoặc thông qua một cơ quan, tổ chức không phải của


1
4

Nhà nuớc) thì thuờng có xu huớng lạm dụng quyền lực. Sự lạm dụng có nhiều biểu hiện cụ thể, song về
hình thức thuờng là sự vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi quyền lực, về hậu quả thuờng là sự tổn
hại các quyền, lợi ích hợp pháp của đối tuợng quản lý gây ra bởi các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên.
Chính vì vậy, chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc có thể coi là một cơ
chế pháp lý gián tiếp rất hiệu quả trong số các phuơng pháp có thể hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền
lực của Nhà nuớc. Ngày 17.3.2003, ủy ban Thuờng vụ Quốc hội sau khi ban hành Nghị quyết số
388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thuờng thiệt hại cho nguời bị oan do nguời có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra, nghị quyết này đã thực sự tạo ra một cơ chế pháp lý hiệu quả để bảo vệ
quyền lợi của nguời dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Hiện nay có quan điểm cho rằng nghị quyết này
trên phuơng diện tổ chức quyền lực nhà nuớc có bản chất là "sự hạn chế quyền lực tu pháp bởi nó quy
định trách nhiệm của quyền lực tu pháp trong trường hợp triển khai quyền lực này không đúng các quy
định của pháp luật" [43, tr. 39]. Đây cũng có thể coi là một cách tiếp cận, đánh giá tucmg đối mới hiện
nay. Nhìn từ góc độ pháp luật dân sự, việc Nhà nuớc phải bồi thuờng cho nguời dân khơng phải là tự hạn

chế quyền lực của mình mà:
Việc Nhà nuớc quy định trách nhiệm pháp lý của mình hồn tồn khơng phải là hạn chế

quyền lực hay chủ quyền trong mối quan hệ với cơng dân, mà chính là nâng cao trách nhiệm của
Nhà nuớc là biện pháp bảo đảm cho các quyền tự do của công dân; bảo đảm sự thực thi những
chủ truơng, chính sách pháp luật mang tính cải cách trong xã hội, góp phần nâng cao uy tín, vị
thế của nhà nuớc, làm tăng sự tin tuởng của công dân vào bộ máy nhà nuớc [3, tr. 53].
b) Việc Nhà nước bồi thường thiệt hại cho người dân là một biểu hiện của một chế độ dân chủ
Trong một chế độ dân chủ, Nhà nuớc do nhân dân thành lập ra và bộ máy nhà nuớc sau đó sẽ thực
hiện quyền lực nhà nuớc thông qua sự ủy thác trực tiếp hoặc gián tiếp của nhân dân. Nhà nuớc dân chủ
phải là một nhà nuớc có trách nhiệm đối với nguời dân của mình, và do đó "trong truờng hợp làm thiệt hại
cho nhân dân, thì phải có sự bồi thuờng thiệt hại cho nhân dân... hay nói cách khác, Nhà nuớc dân chủ là
Nhà nuớc biết bồi thuờng thiệt hại cho nhân dân" [9, tr. 1]. Việt Nam là một quốc gia dân chủ, vì vậy việc


1
5

xác lập một cơ chế pháp lý về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc là hoàn toàn cần thiết để đáp
ứng đòi hỏi của một Nhà nuớc dân chủ.
Chế định trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc là một yêu cầu cơ bản của việc xây dựng
và hoàn thiện Nhà nuớc pháp quyền. Nhà nuớc pháp quyền hiện tại đang là một trong những mục tiêu uu
tiên xây dựng và tiến tới hoàn thiện của nuớc ta. Trong điều kiện nhà nuớc pháp quyền, pháp luật ln giữ
vị trí tối thuợng, pháp luật phải đuợc mọi chủ thể tôn trọng. Tồn tại song song với nền pháp chế đó là một
nền dân chủ thực sự, trong đó Nhà nuớc và cơng dân bình đẳng trên nhiều phuơng diện. Một tiêu chí rất
quan trọng để xây dựng và hồn thiện mơ hình mhà nước pháp quyền là Nhà nước không thể đứng cao
hơn và phải vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã
hội có quyền ban hành pháp luật. Khi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi cá
nhân, tổ chức khác thì những cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức bị Nhà

nước xâm phạm thì liệu Nhà nước có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại như những chủ thể thông
thường khác? Đặt trong bối cảnh Nhà nước không thể đứng cao hơn và phải vận hành chỉ trong khn
khổ của pháp luật thì tất yếu Nhà nước phải có trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình gây ra cho các
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước pháp quyền không phải là "công trình" của riêng ai. Đe có được
"cơng trình" này địi hỏi khơng chỉ nỗ lực của riêng những người có thẩm quyền "kiến thiết" mà cịn cần
phải có một sự "phản hồi" từ phía xã hội. Sự phản hồi này có thể được thực hiện thơng qua nhiều phương
thức, trong đó việc phát hiện ra những hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu khắc phục hậu quả là phương
thức phản hồi mà chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước xác lập. Chế định
này khơng chỉ là cơng cụ mà qua đó Nhà nước khơng những kiểm sốt được hoạt động của mình, phịng
ngừa vi phạm pháp luật mà qua đó Nhà nước cịn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xã hội và ngay cả lợi ích của chính Nhà nước - một nền pháp chế vững chắc, tính lành mạnh
và hiệu quả trong hoạt động của đội ngũ công chức - một trong những yêu cầu quan trọng đối với Nhà
nước pháp quyền.


1
6

c) Việc xây dựng chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là phù hợp với yêu
cầu của việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới
Từ những yêu cầu cơ bản đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền yêu cầu giải quyết bồi
thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của
con người. Tại khoản 5 Điều 9, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có
hiệu lực từ ngày 23/3/1976 (Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) đã tuyên bố:
"Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu
cầu được bồi thường". Bên cạnh đó, thực tiễn pháp lý trên thế giới đã cho thấy càng ngày càng có nhiều
quốc gia có luật về trách nhiệm nhà nước (dù rằng nội dung cũng như truyền thống pháp luật các nước có
khác nhau). Nhà nước phải thừa nhận trách nhiệm đối với những hậu quả mình gây ra. Ngay trong khu
vực Đơng Ỏ cũng đã có nhiều quốc gia đã có luật riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
(Trung quốc đã ban hành Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm 1994, Nhật Bản có

Luật Bồi thường nhà nước từ rất sớm, năm 1947, trong khu vực Đông Nam Ỏ cũng đã có nhiều quốc gia
có luật về trách nhiệm nhà nước như Philippine, Indonesia v.v..). Đối với trường hợp của Hoa Kỳ - quốc

gia giàu có và ln tự hào về nền dân chủ của mình - thì hiện vẫn tồn tại nguyên tắc "miễn trừ quốc gia" ở
quốc gia này. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc Nhà nước Hoa Kỳ từ chối trách nhiệm mà
Nhà nước Hoa Kỳ chỉ có thể bị kiện nếu "có sự đồng thuận của chính quốc gia này" [37, tr. 17] và cơ
quan có thẩm quyền thực hiện "đồng thuận" để Nhà nước bị kiện ở Hoa Kỳ là Quốc hội Hoa Kỳ, theo đó
quyền phủ quyết việc áp dụng hoặc giữ nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc gia thuộc về Quốc hội Hoa
Kỳ. Mặc dù cho đến nay Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên tắc miễn trừ quốc gia đối với việc bồi thường thiệt hại
do công chức gây ra trong hoạt động tư pháp, lập pháp nhưng Hoa Kỳ cũng đã thừa nhận trách nhiệm
trong lĩnh vực hành chính (năm 1946 Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Luật bồi thường liên bang quy định
phủ quyết nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc gia đối với việc bồi thường thiệt hại do công chức gây ra
trong hoạt động hành chính) [372, tr. 17]. Trong bối cảnh như vậy, khơng chỉ hịa vào xu thế chung của


1
7

khu vực, của thế giới mà việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước cũng là phù hợp với nền dân chủ mà
chúng ta đang tích cực xây dựng.
1.2.2.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong giói hạn của chính sách pháp lý

Nhà nước và pháp luật là hai vấn đề không bao giờ tách rời nhau và có mối quan hệ tác động qua
lại. Nhà nước ban hành ra pháp luật và pháp luật sau đó quay trở lại tác động trở lại Nhà nước. Chính
sách của Nhà nước được thể hiện thông qua công cụ chủ yếu là pháp luật, vì vậy việc mỗi Nhà nước nhìn
nhận như thế nào về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước mà sẽ ban hành chế định pháp
luật tương ứng. Ngoài ra, đặt trong bối cảnh của từng khu vực địa lý cũng như đặc thù truyền thống pháp
luật của từng nước mà việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở mức độ nào, hình

thức thể hiện trong pháp luật ra sao sẽ thể hiện rõ chính sách pháp lý của mỗi quốc gia đối với vấn đề này.
Việc xem xét một số nội dung cơ bản của chính sách pháp lý đối với vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng mơ hình pháp lý về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước và được thể hiện ở những đặc điểm sau:
a) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong mối quan hệ với địa vị pháp lý của
Nhà nước khi tham gia một quan hệ pháp luật
Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì tùy vào các quan hệ cụ thể mà tư cách của
Nhà nước sẽ rất khác nhau. Nếu căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia thì tư
cách này rất đa dạng, tuy nhiên, lấy tiêu chí là Nhà nước có thực hiện hay khơng chức năng quản lý, điều

hành xã hội khi tham gia một quan hệ pháp luật thì có thể phân chia thành hai loại: Một là, Nhà nước
nhân danh quyền lực công khi tham gia quan hệ pháp luật; hai là, Nhà nước không nhân danh quyền lực
công khi tham gia quan hệ pháp luật. Có thể nói, đây là vấn đề pháp lý nhưng mang tính chính sách, theo
đó pháp luật của mỗi quốc gia sẽ có cách quy định đặc thù riêng của mình. Có thể nói đa số các quốc gia
quy định chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc chỉ điều chỉnh trách nhiệm
của Nhà nuớc với tu cách nhân danh quyền lực công khi tham gia quan hệ pháp luật nào đó. Một số quốc
gia lại quy định trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc theo cả hai truờng hợp - Nhà nuớc mang


1
8

tu cách bình thuờng và nhân danh quyền lực cơng. Ví dụ: pháp luật của Cộng hịa Liên bang Đức quy
định trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc trong ba truờng hợp: một là, trách nhiệm pháp lý
trong quan hệ hợp đồng; hai là, trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi trái luật của quan chức chính

phủ; ba là, trách nhiệm pháp lý đối với hành vi chiếm đoạt [8, tr. 2]. về nguyên tắc chung, khi tham gia
mọi quan hệ pháp luật thì nếu Nhà nuớc gây thiệt hại thì đều phải bồi thuờng. Tuy nhiên, trong hai loại
quan hệ pháp luật nêu trên thì trách nhiệm của Nhà nuớc sẽ rất khác nhau và "theo nhận thức chung thì
khi tham gia những quan hệ pháp luật bình đẳng và tự do, Nhà nuớc đuợc đối xử nhu bất kỳ một loại chủ

thể pháp luật (dân sự) nào nên vì thế khơng cần có những quy định pháp luật riêng rẽ" để điều chỉnh [22,
tr. 2]. Chính vì vậy, chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc chỉ điều chỉnh
trách nhiệm bồi thuờng đối với những thiệt hại do Nhà nuớc gây ra khi tham gia một quan hệ pháp luật và
nhân danh quyền lực công.
b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong mối quan hệ với tính hợp pháp hoặc
bất hợp pháp của hành vi gây thiệt hại
Nhu đã phân tích, chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại của Nhà nuớc chỉ điều
chỉnh quan hệ bồi thuờng thiệt hại phát sinh giữa Nhà nuớc và bên còn lại bị thiệt hại gây ra bởi hoạt
động của Nhà nuớc khi nhân danh quyền lực công. Hoạt động của Nhà nuớc gồm những hoạt động hợp
pháp và hoạt động không hợp pháp; về nguyên tắc, công chức khi thực thi công vụ của Nhà nuớc gây
thiệt hại trải pháp luật cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nuớc phải chịu trách nhiệm bồi thuờng. vấn đề đặt ra
là nếu việc thực thi công vụ hoàn toàn đúng pháp luật nhưng xét về kết quả thì vẫn gây ra thiệt hại cho cá
nhân, tổ chức thì trong trường hợp này Nhà nước có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay
không? Nếu Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường thì tính chất của trách nhiệm này có tương tự với

tính chất của trách nhiệm mà Nhà nước phải gánh chịu do gây thiệt hại trái pháp luật hay không? về lý
luận, việc bồi thường chỉ đặt ra trong trường hợp có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của bên này đối
với một bên khác. Trường hợp bồi thường không do lỗi cũng chỉ được đặt ra trong một số trường hợp đặc
biệt. Ví dụ: Bộ luật Dân sự 2005, Điều 604 khoản 2 quy định: "Trong trường hợp pháp luật quy định


1
9

người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp khơng có lơi thì áp dụng quy định đó." và trong
toàn bộ các quy định trong Chương XXI về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chỉ có duy
nhất Điều 623 khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là có
quy định về trách nhiệm bồi thường cả trong trường hợp khơng có lỗi. Đứng ở vị trí là Nhà nước thì chắc
chắn Nhà nước "mong muốn" chỉ phải bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại trái pháp luật; tuy nhiên
đứng ở vị trí của người bị thiệt hại thì nếu Nhà nước khơng phải bồi thường cho họ cho dù việc gây thiệt

hại của Nhà nước là không trái pháp luật sẽ là rất bất cơng vì hoạt động cơng quyền của Nhà nước được
thực hiện là nhằm mục đích chung, vì lợi ích chung.
c) về mức bồi thường
Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhiều đến các quy định về bồi thường trong pháp luật của các quốc

gia vì nó liên quan đến "túi tiền" của Nhà nước (ngân sách) và có mối liên hệ chặt chẽ với tính hợp pháp
hoặc bất hợp pháp của hành vi gây thiệt hại.
Trên nguyên tắc chung, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, tuy nhiên các quốc gia
lại có cách quy định rất khác nhau. Pháp luật của Nhật Bản trên cơ sở tiếp cận trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước trên hai góc độ: một là, bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại là hành
vi trái pháp luật; hai là, đền bù cho nạn nhân của hoạt động tố tụng hình sự trên cơ sở mức đền bù được
ấn định rõ ràng trong Luật. Đối với trường hợp thứ nhất, hành vi gây thiệt hại là trái pháp luật, vì vậy mức
bồi thường là tồn bộ thiệt hại; trường hợp thứ hai, các hoạt động tố tụng hình sự dù đúng Luật nhưng xét
về hậu quả vẫn gây ra thiệt hại cho người dân nên mức đền bù sẽ là cố định [19, tr. 10]. Pháp luật Việt
Nam, cụ thể là Nghị quyết số 388 thì lại quy định giới hạn mức bồi thường tổn thất về tinh thần cho nạn
nhân của hoạt động tố tụng hình sự (Điều 5). Pháp luật của Philippine cũng quy định mức bồi thường tối
đa (không quá 10.000 peso) trong mọi trường hợp [4, tr. 22].
d) về các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước chịu sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm
nhà nước


2
0

Có thể nói, đây là vấn đề thể hiện rõ nhất chính sách pháp lý của các quốc gia khi quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Bộ máy nhà nước của hầu hết các quốc gia tuy có ít nhiều khác
nhau song đều được xây dựng trcn cơ sở của học thuyết tam quyền phân lập, vì vậy hoạt động của Nhà
nước về cơ bản cũng được phân chia theo các lĩnh vực hoạt động: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhiều
quốc gia không loại trừ bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào ra khỏi phạm vi điều chỉnh của pháp luật bồi
thường thiệt hại của Nhà nước song cũng khơng ít quốc gia loại trừ một hoặc hai lĩnh vực. Pháp luật của

Nhật Bản khơng quy định lĩnh vực nào thì chịu sự điều chỉnh của Luật Bồi thường nhà nước Nhật Bản điều này đồng nghĩa với việc "không quy định" tức là "không loại trừ" (xem Điều 1 Luật Bồi thường nhà
nước Nhật Bản). Điều này cũng được các chuyên gia pháp lý Nhật Bản khẳng định [19, tr. 9]. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng Luật Bồi thường nhà nước Nhật Bản cho thấy lĩnh vực lập pháp là lĩnh vực rất nhạy
cảm, vì vậy, dù khơng loại trừ song việc Tịa án khi xét xử các vụ kiện về yêu cầu bồi thường đối với hoạt
động lập pháp cũng là rất hạn chế vì:

(1) hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính quốc gia và về nguyên tắc những hoạt động mang

tính quốc gia được loại trừ
khỏi sự tác động của hoạt động tư pháp; (2) về mặt chính trị, Nhà nước mà cụ thể là Quốc hội ban
hành một đạo luật bị coi là vi hiến thì có thể xác định sự sai sót này của Quốc hội là hậu quả của
hoạt động bầu cử - nói cách khác sai sót khơng phải do q trình lập pháp mà là do sự lựa chọn
khi bầu cử [34, tr. 8].
Pháp luật của Hoa Kỳ chỉ quy định trách nhiệm đối với hoạt động hành chính, loại trừ trách nhiệm
nhà nước đối với lĩnh vực lập pháp và tư pháp [37, tr. 17]. Pháp luật của Trung Quốc, nước có nhiều điểm
tương đồng nhất với Việt Nam, cũng loại trừ hoạt động lập pháp ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Trong đạo luật này chỉ có hai chương khi quy định về các
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước là Chương II về Bồi thường hành chính và Chương III về Bồi thường
hình sự. Nhìn chung, đa số các nước quy định rất hạn chế về lĩnh vực lập pháp, sự hạn chế có thể là loại
trừ hoặc là sự hạn chế áp dụng pháp luật để giải quyết trên thực tiễn. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cũng


2
1

đưa ra quan điểm của mình về sự đặc biệt của bồi thường thiệt hại đối với hoạt động lập pháp, theo đó lập
pháp được hiểu là việc hoạch định các chính sách, quyết định con người thực hiện các chính sách đó, vì
vậy nếu có thiệt hại xảy ra thì bồi thường trong hoạt động lập pháp được hiểu đồng nhất với sự thay đổi
chính sách, thay đổi con người đã từng đưa ra các chính sách gây thiệt hại cho nhân dân [9, tr. 8-9].
về tính chất của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, như đã phân

tích, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một yêu cầu tất yếu của thời đại, vì vậy trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước phải là trách nhiệm tự thân của Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách
pháp lý sẽ ảnh hưởng đến tính chất của quan hệ pháp luật này. Nếu Nhà nước thừa nhận trách nhiệm như
là trách nhiệm tự thân - Nhà nước phải bồi thường như các chủ thể bình thường nếu gây thiệt hại - thì
quan hệ bồi thường nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự. Nếu Nhà nước không thừa nhận trách nhiệm
bồi thường của mình mà chỉ coi việc bồi thường là một hoạt động "đền bù" nhằm bù đắp cho những mất
mát, tổn thất mà các cá nhân, tổ chức đã phải gánh chịu từ hoạt động của Nhà nước thì việc "đền bù"
khơng thể coi là một hoạt động dân sự mà là hoạt động hành chính. Qua đó, cơ chế để thực hiện đền bù
cho các nạn nhân sẽ là cơ chế hành chính. Nếu Nhà nước thừa nhận trách nhiệm bồi thường nhưng việc
bồi thường được nhìn nhận chỉ là "trả thay" cho công chức nhà nước vì trong nhiều trường hợp cơng chức
khơng thể thực hiện được việc bồi thường, thì điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường sẽ chỉ đặt ra đối
với bản thân công chức mà thôi.
1.3. KHẮT NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA NHÀ NƯỚC
1.3.1. Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại

Thiệt hại được hiếu là "mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của" [45, tr. 1571]. Quan điểm
truyền thống của pháp luật dân sự luôn coi thiệt hại là những tổn thất có liên quan đến tài sản; tuy nhiên
theo những quan điểm hiện nay thì thiệt hại bao gồm không chỉ những tổn thất về tài sản. Theo Từ điển
giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là "tốn thất về tỉnh mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ" [39, tr. 118]. Bộ luật Dân sự


2
2

Việt Nam năm 1995 quy định tại Điều 310: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần". Bộ luật Dân sự Việt Nam
năm 2005 quy định tại Điều 305: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần." Như vậy, về mặt khoa học và luật

thực định thì quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại là thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt
hại về tinh thần [2, tr. 12], [45, tr. 713]. Thiệt hại về tinh thần bao gồm "tổn thất về danh dự, uy tín, nhân
phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân" và thiệt hại về vật chất bao gồm "tài sản bị mất, hủy
hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không
thu được mà đáng ra thu được". Tóm lại, thiệt hại có thế hiếu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban
đầu của sự vật sau khỉ chịu sự tác động từ bên ngoài.

Bồi thường là việc "đền bù những tổn thất đã gây ra" [45, tr. 191]. về mặt pháp lý, bồi thường thiệt
hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là
việc đền bù những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy bồi thường
thiệt hại là "hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu
quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại" [39, tr. 31].
Với quan niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác
động bên ngồi, vì vậy bồi thường thiệt hại có thể hiểu là trách nhiệm khơi phục lại tình trạng ban đầu của
sự vật hiện tượng, về mặt pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài sản, tổn thất về tính mạng, sức khỏe, uy
tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi thường thiệt hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng những
cách thức và tiêu chí do pháp luật đặt ra.
1.3.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân là trách nhiệm pháp lý được xác định với mọi chủ thể. Vì vậy, khi Nhà nước thực hiện công quyền
gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước không chỉ nhằm khôi phục các tổn thất tài sản mà còn phải bù đắp


2
3

những tổn thất tinh thần cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tốn thất về tài sản, bù đắp những tốn thất về tỉnh thần
trong trường hợp người thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước vì lợi ích chung đã gây thiệt hại về tài sản, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể khác.
Trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước gồm các yếu tố cơ bản sau: chủ
thể; khách thể; các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
về chủ thể, các bên trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước luôn luôn bao gồm bên
gây thiệt hại - Nhà nước, và bên bị thiệt hại là các cá nhân, tổ chức, chủ thể khác; trong đó Nhà nước ln
ln là một bên trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại này. Việc quy định trực tiếp trách
nhiệm bồi thường thuộc về một cơ quan đại diện chung hay trách nhiệm thuộc về từng cơ quan cụ thể
thuộc về chính sách pháp lý của mỗi quốc gia, tuy nhiên cần phải khẳng định rằng một bên chủ thể có
trách nhiệm ln ln là Nhà nước; cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường khơng nhân danh mình mà
nhân danh Nhà nước trực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như nhân danh Nhà nước khi thực
hiện công vụ.
về khách thể, trong các quan hệ pháp luật, khách thể là "lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các chủ
thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ pháp luật" [44, tr. 411]. Trong quan hệ pháp
luật dân sự, khách thể là "đối tượng mà các chủ thể quan tâm, hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào
khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự" [44, tr. 411]. Trên thực tế, khi hoạt động công quyền gây ra thiệt
hại, thì đó là những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần của các cá nhân, tổ chức; tuy nhiên có một thiệt
hại mà khơng thể đo, đếm được là lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của
Nhà nước. Chính vì vậy, khách thể trong trường hợp này là "quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân và lợi
ích của Nhà nước" vì:
khi xảy ra bất kỳ một vụ oan, sai thì khơng chỉ có cơng dân là người duy nhất bị thiệt hại
mà luôn kéo theo những tổn thất của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước phải bồi thường vật chất,


2
4

tinh thần cho người bị oan. Mặt khác, thiệt hại của Nhà nước tưởng chừng như vơ hình nhưng
hậu quả trên thực tế vẫn có thể dễ dàng nhận thấy được. Đó là sự giảm sút uy tín của Nhà nước,
là sự xói mịn lịng tin của nhân dân đối với Nhà nước [2, tr. 60].

về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trước hết, điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là tổng hợp các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Quan điểm chính thống hiện nay cho rằng các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

bao gồm: có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
pháp luật và thiệt hại đã xảy ra, người gây thiệt hại phải có lỗi [7, tr. 84]. Trong quan hệ bồi thường thiệt
hại của Nhà nước thì các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
(1) Có thiệt hại xảy ra;
(2) Có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành cơng vụ;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra;
(4) Cơng chức gây thiệt hại phải có lỗi khi thực hiện công vụ.
Mặc dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là dạng trách nhiệm dân sự, tuy nhiên, so
với trách nhiệm dân sự thông thường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước có những đặc điểm
khác biệt với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường ở những yếu tố sau:
a) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
Pháp luật Việt Nam kể từ Bộ luật Dân sự 1995 đến nay đều quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do công chức nhà nước gây ra, theo đó quan hệ bồi thường nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự.
Cũng có ý kiến cho rằng quan hệ pháp luật này vừa có tính dân sự, vừa có tính hành chính vì một bên chủ
thể trong quan hệ pháp luật ln là Nhà nước [19, tr. 10].
Như đã phân tích, việc xác định tính chất của quan hệ bồi thường nhà nước chịu ảnh hưởng của
chính sách pháp lý. Tuy nhiên, xuất phát từ tính tất yếu của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại


2
5

của Nhà nước, vì vậy, Nhà nước cũng như các chủ thể thông thường, phải bồi thường khi gây thiệt hại cho
các cá nhân, tổ chức. Do đó, quan hệ bồi thường nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự.

Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang một trong hai tư cách (tư cách
như một chủ thể thông thường và tư cách của chủ thể của quyền lực cơng); theo đó, những quan hệ pháp
luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền lực công không phải là những quan hệ hợp
đồng. Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực cơng phải là những quan
hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng chính của Nhà nước.
Trong q trình thực hiện những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì
Nhà nước sẽ phải bồi thường. Việc bồi thường không phải do vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng, chính vì
vậy trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công quyền là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp
Cách tiếp cận của pháp luật nhiều nước trên thế giới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước về cơ bản có hai loại là trách nhiệm trực tiếp và trách nhiệm thay thế [32, tr. 4].
Nếu coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm thay thế thì trước đó phải
xác định: Thứ nhất, hành vi trái pháp luật là hành vi của công chức và nếu hành vi trái pháp luật này gây

thiệt hại thì cơng chức phải bồi thường thiệt hại. Thứ hai, Nhà nước là bên gánh chịu trách nhiệm thay
cho công chức vì: cơng chức thực hiện các hoạt động cơng vụ là vì lợi ích của
Nhà nước, mà khơng vì bản thân họ, vì vậy Nhà nước cũng nên có trách nhiệm; bên cạnh đó, hành vi của
cơng chức là hành vi công vụ, thực hiện quyền lực Nhà nước và vì vậy ln tiềm ẩn sự rủi ro, vậy thì Nhà
nước với tư cách là người quy định việc thực hiện các hoạt động tiềm ẩn rủi ro cũng phải gánh chịu rủi ro
và phải bồi thường thiệt hại. Ngồi ra, nếu quy trách nhiệm cho cơng chức thì với khả năng tài chính của
mình thì cơng chức khơng thể bồi thường, và nếu như vậy thì người bị thiệt hại không được bảo đảm
quyền lợi. Nhà nước với trách nhiệm hiến định là phải bảo vệ công dân nên Nhà nước phải bồi thường và
cần chú ý là nếu quy định cơng chức phải bồi thường thì sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính lành mạnh


×