Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Fintech và những cơ hội, thách thức đối với ngành Tài chính - Ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.2 KB, 15 trang )

Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Fintech VÀ NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Hồng Khánh Lam1
Học viện Chính trị Khu vực I
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng khoa học cơng nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang bùng nổ trên tồn thế
giới được dự đoán sẽ làm thay đổi căn bản nền sản xuất, cấu trúc kinh tế, xã hội. Nhờ
vào những cơng nghệ cốt lõi (điện tốn đám mây, Dữ liệu lớn, công nghệ blockchain,
sinh học tổng hợp, hệ thống thực - ảo,...), cuộc cách mạng này sẽ tác động đến tất cả các
ngành, lĩnh vực, các hoạt động của đời sống, tạo ra những thay đổi chưa từng có tiền lệ
trong lịch sử (Klaus, 2016). Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các cơng nghệ tài chính
(Fintech) đã và đang tạo ra nhiều thay đổi đối với ngành Tài chính - Ngân hàng. Fintech
đang tái định hình ngành này thông qua việc cung ứng các giải pháp tài chính sáng tạo,
có tính cạnh tranh cao, đe dọa đến thị phần và doanh thu của các định chế tài chính
truyền thống (PwC, 2017). Bài viết này sẽ chỉ ra những cơ hội và thách thức mà Fintech
tạo ra đối với ngành Tài chính - Ngân hàng, từ đó đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam.
Từ khóa: cơng nghệ tài chính, Fintech, Fintech 3.0, tài chính ngân hàng.
1. Khái quát chung về Fintech
1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “Fintech” được ghép bởi hai từ “financial” và “technology”, có nghĩa là
cơng nghệ tài chính. Có nhiều khái niệm về Fintech đã được đưa ra, trong đó, theo Hội
đồng Ổn định Tài chính (FSB), Fintech là “các sáng tạo tài chính dựa trên nền tảng công
nghệ để tạo ra các mô hình kinh doanh, ứng dụng, quy trình, sản phẩm, dịch vụ mới có
tác động cụ thể đến các thị trường và định chế tài chính, cũng như trong việc cung cấp
các dịch vụ tài chính” (BCBS, 2018).
Lịch sử hình thành và phát triển Fintech
Theo Douglas và cộng sự (2015), Fintech đã trải qua một quá trình hình thành và


phát triển rất dài, có thể chia thành ba giai đoạn phát triển (xem bảng 1.1).

1

Email:

210


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Bảng 1.1: Các giai đoạn phát triển của Fintech
Fintech 1.0
(1866 - 1967)
•1866: Cáp xuyên Đại tây
dương
•1918: Fedwire
Thành tựu cơng
•1958: thẻ tín dụng ra đời
nghệ có ảnh
•1966: mạng lưới điện tín
hưởng đến ngành
tồn cầu
tài chính
•1967: bộ cơng cụ giải mã
code
Kết quả


Fintech 2.0
(1967 - 2000)
•1967: máy ATM đầu tiên, máy
tính tài chính cầm tay
•1973: mã SWIFT
•1983: điện thoại di động
•1983: ngân hàng trực tuyến
•1990s: quản trị rủi ro định lượng/
VaR
•1999: Internet, bong bóng dot.
com
Thúc đẩy tồn cầu hóa các dịch Thúc đẩy số hóa các dịch vụ
vụ tài chính
tài chính

Fintech 3.0
(2008 - Nay)
•2007: Iphone ra đời
•2008: Wealthfront thành lập
và cung cấp dịch vụ đầu tư trực
tuyến
•2009: triển khai Bitcoin, Square
ra đời cung cấp dịch vụ thanh
tốn qua điện thoại
•2011: dịch vụ chuyển tiền ngang
cấp Transferwise ra đời
Sự nổi lên của những công ty công
nghệ sáng tạo

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Douglas và cộng sự (2015)


Như vậy, mặc dù thuật ngữ “Fintech” có thể cịn mới nhưng việc ứng dụng cơng
nghệ thơng tin vào các hoạt động tài chính đã diễn ra từ rất lâu và sự kết hợp đó là một
điều tất yếu bởi theo Hiroshi (2016), ngành tài chính giống như ngành cơng nghiệp về
thơng tin, nhiều dịch vụ tài chính như thanh tốn, đầu tư hay quản trị rủi ro đều dựa
trên việc xử lý lượng thông tin quy mô lớn. Sự kết hợp này giúp sáng tạo ra nhiều giải
pháp, dịch vụ mới, như những làn sóng mới làm thay đổi tồn bộ cách thức cung ứng,
vận hành, sử dụng cũng như kỳ vọng của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ trong
ngành tài chính. Đặc biệt, trong thời đại Fintech 3.0 (nhiều tài liệu còn sử dụng thuật ngữ
Fintech 3.5), sự thay đổi khơng chỉ ở sản phẩm, dịch vụ mà cịn thay đổi trong đối tượng
cung cấp và việc ứng dụng nhanh chóng những cơng nghệ mới vào cả hai mảng khách
hàng cá nhân và khách hàng tổ chức.
Những động lực phát triển của Fintech 3.0
Động lực phát triển của Fintech khác nhau giữa các quốc gia phát triển và đang phát
triển. Ở các quốc gia phát triển, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được cho là
động lực ban đầu thúc đẩy cho sự ra đời và hình thành Fintech hiện đại (Douglas, 2016
và Lindhout, 2016). Khủng hoảng tài chính năm 2008 đã khiến cho thị trường mất niềm
tin vào các định chế tài chính cũng như các dịch vụ tài chính truyền thống. Hậu khủng
hoảng, nhiều ngân hàng phải đối mặt với khó khăn trong việc đáp ứng các quy định bắt
buộc để đảm bảo an toàn hệ thống khiến hệ thống hoạt động cứng nhắc, khó khăn trong
đáp ứng nhu cầu khách hàng trong khi chi phí vận hành có xu hướng tăng. Đây là cơ
211


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

hội để các giải pháp cơng nghệ phát triển. Các công ty khởi nghiệp (startups) trong lĩnh
vực công nghệ xuất hiện và mang đến những giải pháp tài chính đơn giản, nhanh chóng,

và đặc biệt là độc lập với hệ thống ngân hàng truyền thống. Bên cạnh đó là do sự thay
đổi trong thói quen sử dụng của khách hàng đối với dịch vụ tài chính. Nhờ vào sự phổ
biến của điện thoại thông minh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các sản phẩm công
nghệ như Facebook, Amazon, Google, người dùng đang dần quen và u thích những
trải nghiệm cơng nghệ tiện ích, nhanh chóng. Điều này làm ảnh hưởng đến kỳ vọng của
khách hàng với những sản phẩm, dịch vụ khác, trong đó có dịch vụ tài chính (Lưu Ánh
Nguyệt, 2017). Người dùng sẽ mong muốn những sản phẩm nhiều tiện ích với mức chi
phí thấp.
Ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
Fintech nổi lên như một hệ quả tất yếu xuất phát từ nhu cầu phải phát triển và khắc
phục những hạn chế đang tồn tại của hệ thống tài chính hiện có. Thị trường tài chính
thiếu cạnh tranh, mang nặng tính mệnh lệnh hành chính bởi ngân hàng Trung ương.
Thị trường khơng tin tưởng vào hệ thống ngân hàng truyền thống đồng nghĩa với việc
dễ chấp nhận những giải pháp thay thế được cung cấp bởi các tổ chức phi ngân hàng. Về
mặt kết cấu hạ tầng, hệ thống các chi nhánh ngân hàng ở khu vực châu Á không được
rộng khắp như ở châu Âu. Ở châu Âu, cứ 100 nghìn người có 62,5 chi nhánh thì con số
này ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương chỉ dừng lại ở 12,5 chi nhánh (Janos, 2014).
Đây là lý do mà các sản phẩm và dịch vụ tài chính cung cấp thông qua ứng dụng điện
thoại di động trở nên thu hút hơn.
Dù là ở đâu, động lực quan trọng nhất quyết định tương lai của Fintech là sự xuất
hiện và nổi lên của những công nghệ mới, hiện đại. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra đã cho ra đời và phát triển nhiều công nghệ tiên tiến cho phép ứng dụng
vào nhiều ngành, lĩnh vực. Các công nghệ đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngành
tài chính ngân hàng phải kể đến là:
- Công nghệ blockchain (chuỗi khối) và DLT (sổ cái phân tán): Bitcoin và các loại
tiền điện tử cho phép chuyển giao phi tập trung tài sản mà không cần phải thông qua tổ
chức thanh toán bù trừ trung gian. Sự xuất hiện của tiền điện tử, chuỗi khối, giao dịch
tiền điện tử, cho phép sử dụng tiền điện tử thay thế tiền thật trong các hoạt động thương
mại điện tử thông qua các phương pháp mã hóa, bảo mật. Cơng nghệ chuỗi khối hay
sổ cái điện tử cho phép người dùng có thể truy cập được thông tin lịch sử của mọi giao

dịch, nhưng vẫn đảm bảo an tồn việc bảo mật thơng tin, cũng như ngăn chặn gian lận
trong các giao dịch tài chính. Do đó, độ an tồn, bảo mật và minh bạch cao hơn so với sổ
cái truyền thống của các định chế tài chính. Việc ứng dụng cơng nghệ chuỗi khối tại các
212


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

ngân hàng sẽ cho phép đơn giản hóa các giao dịch xuyên quốc gia, giảm thời gian giao
dịch và chi phí, tăng tính hiệu quả trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Phân tích dữ liệu và Dữ liệu lớn (Big Data): Cũng giống như các ngành khác, thu
thập, xử lý dữ liệu giữ vai trò quan trọng trong ngành cơng nghiệp Fintech. Sức mạnh
tính tốn của máy tính tăng lên giúp con người xử lý được một khối lượng khổng lồ dữ
liệu. Việc thu thập dữ liệu, thông tin về hành vi của khách hàng cho phép phân tích hành
vi của khách hàng, làm cơ sở cho việc ra các quyết định cải thiện, đổi mới các quy trình
cũng như sản phẩm, dịch vụ, hướng tới thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng tốt hơn.
- Điện thoại di động: Sự phổ biến của mạng Internet và điện thoại thông minh là
tiền đề quan trọng cho việc gia tăng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính dưới dạng
các phần mềm ứng dụng điện tử sử dụng trên điện thoại di động. Đây là giải pháp cho
vấn đề hệ thống chi nhánh của các định chế tài chính khơng thể phủ rộng khắp các vùng,
miền. Sự phát triển của các cộng đồng mạng xã hội khiến cho sản phẩm, dịch vụ có thể
tiếp cận tới nhiều đối tượng khách hàng hơn nhờ vào sự chia sẻ của cộng đồng số hóa.
Đây cũng là nơi để các công ty Fintech thu thập thông tin của các đối tượng khách hàng
với chi phí thấp.
Ngồi ra, Fintech có thể phát triển mạnh mẽ như hiện nay là do rào cản gia nhập thị
trường đối với các công ty Fintech tương đối thấp. Chi phí đầu tư của các công ty
Fintech giảm do tận dụng lợi thế của công nghệ mới và các dịch vụ sẵn có trên điện
tốn đám mây, giao diện lập trình ứng dụng (API). Chi phí của việc khởi tạo một doanh

nghiệp công nghệ đang ngày một giảm (CB Insight, 2016). Trong khi đó, việc tiếp cận
với các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm thuận tiện hơn. Lượng vốn đầu tư từ các quỹ đầu
tư mạo hiểm rót vào các công ty Fintech tăng trong những năm qua và trong giai đoạn
2012 - 2016, có hơn 50 tỷ USD được rót vào các cơng ty Fintech. Các cơng ty Fintech
cũng chưa gặp phải những rào cản pháp lý, các điều luật, quy định chặt chẽ về vốn, hoạt
động... như các định chế tài chính truyền thống, do đó các Fintech có chi phí hoạt động
thấp hơn và nhiều thuận lợi hơn khi đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Và mặc dù cung
cấp dịch vụ tài chính nhưng những công ty Fintech không cần phải nắm trong tay một
lượng vốn lớn, không cần hệ thống các chi nhánh rộng khắp hay bất kì máy rút tiền tự
động (ATM) nào.
1.2. Các sản phẩm và lĩnh vực hoạt động của Fintech
Sản phẩm của Fintech được chia thành hai nhóm, phân theo đối tượng sử dụng.
Nhóm thứ nhất là những sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân (ví dụ như những
cơng nghệ hỗ trợ cá nhân trong việc vay mượn, quản lý tiền bạc, tài sản,...). Nhóm thứ
213


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

hai là những sản phẩm cơng nghệ hậu cần (back-office), hỗ trợ cho hoạt động của các tổ
chức, các định chế tài chính.
Các cơng ty Fintech trên toàn thế giới đã và đang tham gia ngày càng sâu rộng vào
5 mảng hoạt động chính (Douglas và cộng sự, 2015) là:
(1) Hỗ trợ tài chính và đầu tư: Fintech đã phát triển thêm những cơ chế hỗ trợ
tài chính như đầu tư mạo hiểm (venture capital), quỹ cổ phần riêng (private equity),
phát hành đại chúng (public offerings), thu xếp bán riêng (private placement), niêm yết
(listings),... Ở lĩnh vực quản lý đầu tư, những tên tuổi lớn như Vanguard và BlackRock có
dịch vụ “robot tư vấn” (robo adviser) sử dụng các thuật toán để tự động điều chỉnh danh

mục đầu tư tương ứng với mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Một số quỹ đầu cơ
đang thử nghiệm sử dụng trí thơng minh nhân tạo để robot có thể tự học các thuật tốn
(Lưu Ánh Nguyệt, 2017).
Trong hoạt động này, có thể kể đến mơ hình của AMP Credit Technologies cung cấp
nền tảng công nghệ giúp các định chế tài chính quản lý các khoản cho vay.
(2) Quản trị hoạt động và quản trị rủi ro: ứng dụng các lý thuyết tài chính, cơng
nghệ định lượng tài chính và chuyển hóa thành những ngun tắc quản trị rủi ro hoạt
động để giúp hạn chế rủi ro xảy ra và tối đa hóa lợi nhuận.
(3) Thanh tốn và kết cấu hạ tầng: Fintech tập trung vào các giải pháp thanh tốn
thơng qua Internet và điện thoại di động, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Cung
cấp nền tảng cho giao dịch và thanh toán chứng khoán cũng như giao dịch phái sinh
OTC vẫn là những mảng có nhiều dư địa phát triển đối với Fintech. Dịch vụ thanh tốn
trực tuyến phát triển dưới nhiều hình thức, ví điện tử di động cho phép thanh tốn qua
điểm bán hàng (POS), thanh toán chuyển khoản. Các sản phẩm Fintech nổi bật trong
lĩnh vực này có thể kể đến như ví điện tử (Paypal, Google Wallet, Alipay, Samsung pay),
tiền điện tử (bitcoin, ethreum), chuyển tiền ngang cấp (Transferwise),...
(4) Dữ liệu: được coi trọng từ thời kỳ Fintech 2.0, tuy nhiên mảng thu thập, phân
tích và mua bán, trao đổi dữ liệu luôn hấp dẫn đối với các công ty Fintech. Sự phát triển
của công nghệ Big Data (Dữ liệu lớn) hỗ trợ đắc lực cho việc tăng cường hiệu quả của
những dịch vụ sẵn có và cho ra đời các dịch vụ mới hướng tới làm hài lòng nhu cầu, kỳ
vọng của khách hàng.
(5) Giao diện khách hàng: đặc biệt là những dịch vụ trực tuyến và dịch vụ cung ứng
qua điện thoại di động. Đây là lĩnh vực mà các công ty Fintech cạnh tranh trực tiếp với
các định chế tài chính truyền thống.
214


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"


Bảng 1.2: Một số cơng ty Fintech nổi bật trong các hoạt động
Hỗ trợ tài chính và
đầu tư

Quản trị hoạt
động và rủi ro

Thanh toán và kết
cấu hạ tầng

Dữ liệu

Giao diện
người dùng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Hai loại dịch vụ tài chính mang lại những thành cơng lớn cho công ty Fintech là cho
vay ngang cấp (peer-to-peer lendings) và gọi vốn cộng đồng (crowdfunding). Cho vay
ngang hàng trực tuyến là mơ hình kinh doanh kết nối trực tiếp những cá nhân, tổ chức
có tiền nhàn rỗi với những cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay, mà khơng cần phải thông
qua một tổ chức trung gian nào. Bên cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng trực tuyến sẽ
ghi nhận nhu cầu của người đi vay, phân tích rủi ro đơn vay và khả năng chi trả, đồng
thời phân loại đơn vay theo từng thang điểm với các mức lãi suất tương ứng và hiển thị
trực tuyến đối với các nhà đầu tư. Bên cung cấp dịch vụ này sẽ thu phí đối với cả hai
bên cho vay và đi vay. Mơ hình này đang hoạt động rất hiệu quả, giúp giảm thời gian xác
nhận các khoản vay từ vài tuần ở các ngân hàng truyền thống xuống còn vài giờ, đáp
ứng được nhu cầu đi vay của nhiều đối tượng không thể đi vay từ các định chế tài chính.
Thành cơng nhất của loại hình này phải kể đến Lending Club được thành lập năm 2007,

trụ sở chính ở San Francisco, Mỹ. Tính đến nay đã có khoảng 2.4 triệu khách hàng với
số vốn cho vay lên đến 35 tỷ USD được cho vay thông qua diễn đàn này (số liệu do công
ty công bố).
Gọi vốn cộng đồng là việc kêu gọi và gom vốn cho các dự án thông qua website, chủ
yếu là các dự án khởi nghiệp, các dự án sáng tạo mới của các cá nhân hay của doanh
nghiệp quy mơ nhỏ. Mơ hình này giúp giải quyết vấn đề vốn cho các cá nhân, doanh
nghiệp quy mô nhỏ khi những đối tượng này thường khó tiếp cận với nguồn vốn vay của
ngân hàng do phải có tài sản đảm bảo thế chấp hay cũng không thể gọi vốn từ thị trường
bằng cách chào bán chứng khốn do quy mơ nhỏ và các điều kiện về pháp lý. Điển hình
215


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

có mơ hình gọi vốn Kickstarter. Đi vào hoạt động từ tháng 4/2009, Kickstarter đã cấp
vốn thành cơng cho hơn 144 nghìn dự án, số tiền đầu tư lên tới 3,7 tỉ USD được góp
bởi 15 triệu người, với khoảng 4 nghìn dự án duy trì hoạt động thành công (Kickstarter.
com). Nếu một dự án hay một doanh nghiệp khởi nghiệp kêu gọi vốn từ một nhà đầu tư
nào đó thì sẽ vấp phải nhiều khó khăn do e ngại của nhà đầu tư về khả năng thành công
của dự án, nhưng gọi vốn thông qua Kickstarter, khó khăn này được giải quyết bởi số vốn
đầu tư đến từ rất nhiều người quyên góp, nghĩa là mỗi người chỉ cần góp số ít vốn nên sẽ
khơng cịn e ngại về việc thất bại.
2. Cơ hội và thách thức Fintech tạo ra đối với ngành Tài chính Ngân hàng
2.1. Cơ hội
Fintech đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ cách thức vận hành, cung ứng và sử dụng
các sản phẩm, dịch vụ tài chính
Fintech đã và đang tác động tới vai trị của các định chế tài chính truyền thống thông
qua việc tạo ra hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, tính cạnh tranh cao. Những đổi

mới từ Fintech tạo ra áp lực đổi mới các mơ hình kinh doanh tài chính hiện nay, gây ảnh
hưởng đến tính hiệu quả của các chính sách, quy định hiện hành.
Sự cạnh tranh giữa các định chế tài chính truyền thống với các công ty Fintech sẽ là
cơ hội để cho ra đời các giải pháp tài chính nhiều tiện ích như nhanh chóng, dễ sử dụng,
với mức chi phí thấp, có thể giao dịch theo thời gian thực. Các sản phẩm và dịch vụ tài
chính đang phát triển theo xu hướng cá nhân hóa, ảo hóa.
Phương thức giao dịch chuyển dần từ giao dịch trực tiếp tại các chi nhánh sang giao
dịch trực tuyến, hồn tồn thơng qua ứng dụng, thiết bị di động và mạng Internet. Ngân
hàng ảo sẽ là mơ hình trong tương lai.
Tồn cầu hóa các dịch vụ tài chính
Bằng việc cung ứng các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến thông qua Internet và điện
thoại di động, Fintech có khả năng tồn cầu hóa các dịch vụ tài chính cơ bản khơng
chỉ tại các nước phát triển mà ở cả các nước đang phát triển, những nơi mà dịch vụ tài
chính chưa phổ biến nhưng có tốc độ phát triển mạng Internet và điện thoại thông minh
nhanh (Hiroshi, 2016). Đây là cơ sở để thực hiện mục tiêu tài chính bao qt tồn diện,
mục tiêu mà các nhà chính sách đều hướng tới. Tài chính bao qt tồn diện là điều kiện
cần thiết để đạt được 7/17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc đến 2030.
216


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Đó là khi mọi cá nhân và doanh nghiệp đều có thể tiếp cận với các sản phẩm và dịch
vụ tài chính hữu ích, với giá cả hợp lý, đáp ứng được nhu cầu giao dịch, thanh tốn, tiết
kiệm, tín dụng và bảo hiểm, có trách nhiệm và bền vững (World Bank). Theo thống kê,
năm 2017 có đến hơn 30% người trưởng thành trên toàn thế giới khơng tiếp cận được
các dịch vụ tài chính cơ bản như khơng có tài khoản ngân hàng, khơng có hoạt động
vay hay gửi tiền (World Bank, 2018). Nếu như trước đây, việc thực hiện mục tiêu bao

quát toàn diện gặp khó khăn do việc phủ sóng các chi nhánh tại khắp các vùng miền cần
nhiều chi phí thì ranh giới quốc gia và khó khăn về địa lý khơng thể trở thành rào cản
đối với Fintech.
Fintech tạo ra cơ hội để các định chế tài chính truyền thống nâng cao doanh thu và
hiệu quả kinh doanh
Hợp tác với các công ty Fintech đem lại những cơ hội cho các định chế tài chính
truyền thống nâng cao hiệu quả kinh doanh, đổi mới trong sản phẩm, dịch vụ, từ đó tăng
doanh thu và làm hài lòng khách hàng tốt hơn. Theo PwC (2016), 74% các tổ chức tài
chính cung cấp vốn và thanh toán cho rằng Fintech giúp tăng lợi nhuận bằng nhiều cách
thức. Tuy nhiên, vấn đề hợp tác giữa Fintech và các định chế tài chính truyền thống cịn
gặp nhiều khó khăn. Từ góc độ của các cơng ty Fintech, khác biệt về quản trị và văn hóa,
quy trình hoạt động và quy định không rõ ràng là ba thách thức lớn khi làm việc với các
tổ chức tài chính truyền thống. Hình thức hợp tác phổ biến nhất của các doanh nghiệp
truyền thống với các công ty Fintech là liên doanh (chiếm 32%).
2.2. Thách thức
Các định chế tài chính truyền thống bị đe dọa về thị phần và doanh thu
Bằng những sản phẩm, dịch vụ, cách thức cung ứng mới, Fintech đang tái định hình
lại ngành tài chính ngân hàng. Theo cuộc khảo sát của PwC năm 2017 về Fintech toàn
cầu1, khoảng 80% số chuyên gia tin rằng hoạt động kinh doanh của họ bị đe dọa bởi các
công ty Fintech. Cũng theo các chuyên gia này, thị trường đang mở rộng hơn trong việc
tiếp nhận các sản phẩm, dịch vụ của Fintech (xem hình 2.1 dưới đây). 77% số chuyên gia
tham gia khảo sát cho biết họ sẽ phải tiến hành đổi mới tổ chức (các định chế tài chính)
từ bên trong trong vịng 3 - 5 năm tới để bắt kịp với sự đổi mới. Cách duy nhất để tăng
được doanh thu là đầu tư để học hỏi, sáng tạo đổi mới.

217


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA


"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Thanh tốn

Chuyển tiền

Tài chính
cá nhân

Vay nợ
cá nhân

Tài khoản
tiết kiệm

Bảo hiểm

Nguồn: PwC, 2017

Hình 2.1: Lượng khách hàng đã tin tưởng sử dụng các dịch vụ của Fintech
Các doanh nghiệp dịch vụ tài chính hiện tại cho rằng 23% hoạt động kinh doanh
của họ có nguy cơ rơi vào tay các công ty Fintech trong tương lai. Trong khi đó, bản thân
các cơng ty Fintech cho rằng họ có thể giành được 33% hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp truyền thống. Khảo sát cho thấy ngành dịch vụ ngân hàng và thanh toán
sẽ chịu nhiều áp lực nhất từ các công ty Fintech. Những đại diện tham gia khảo sát đến
từ lĩnh vực chuyển tiền và thanh toán dự đốn rằng trong 5 năm tới, họ có thể để mất
28% thị phần của mình vào tay các Fintech, còn các ngân hàng cho rằng họ sẽ mất 24%
thị phần. Trong khi đó, tỷ lệ này là 22% trong lĩnh vực quản lý tài sản và 21% trong lĩnh
vực bảo hiểm. 2/3 hay 67% các doanh nghiệp dịch vụ tài chính cho biết nguy cơ hàng
đầu đến từ Fintech là áp lực lên biên lợi nhuận, tiếp đến là nguy cơ mất thị phần (59%)

(PwC, 2016).
Một trong những cách then chốt mà Fintech gây áp lực lên biên lợi nhuận là thơng
qua đởi mới hướng vào giảm chi phí vận hành. Ngành ngân hàng Anh đã đóng cửa
khoảng 500 chi nhánh trong năm 2014 và ít nhất 654 chi nhánh trong năm 2015. Ngân
hàng Lloyds (Anh) đã sa thải 1.000 nhân viên trong năm 2015, trong nỗ lực giảm chi
nhánh và chuyển sang tự động hóa, áp dụng cơng nghệ trong cung cấp dịch vụ ngân
hàng (Accenture, 2016).
Thách thức về rủi ro hoạt động và an ninh an toàn, bảo mật của hệ thống
Sự phát triển của Fintech tạo nên mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về công nghệ
thông tin (IT) giữa các tổ chức (ngân hàng, công ty Fintech,...) với các công ty cung cấp
kết cấu hạ tầng. Chính vì vậy, chỉ cần một rủi ro về IT xảy ra có thể lan ra tạo thành
khủng hoảng trong hệ thống, đặc biệt là đối với những dịch vụ tài chính được cung ứng
218


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

bởi một hoặc một vài tổ chức. Sự gia nhập của các công ty Fintech vào thị trường tài
chính khiến hệ sinh thái ngành này trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều các sản phẩm hay dịch vụ tài chính sáng tạo tạo nên
một hệ thống các dịch vụ phức tạp, khó quản lý và kiểm soát rủi ro hoạt động.
Thách thức về thể chế
Fintech là một lĩnh vực mới, phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sự phát triển của Fintech
tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới, những mơ hình kinh doanh mới nên những ràng
buộc pháp lý áp dụng Fintech cịn hạn chế. Khơng những vậy, trong khi hoạt động của
các công ty Fintech vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì các quy định pháp lý lại bị giới
hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh quy mô và tầm ảnh
hưởng của Fintech đang ngày càng gia tăng, tác động của những rủi ro trên có thể gây ra

những bất ổn tài chính nhất định. Chính phủ một số quốc gia (Trung Quốc, Anh) đã phải
ban hành các quy định nhằm giảm thiểu rủi ro từ sự phát triển bùng nổ của cho vay ngang
hàng trực tuyến. Hồng Kông, Nhật Bản cũng đã thành lập các đơn vị quản lý, tư vấn của
chính phủ, liên quan tới dịch vụ tài chính Fintech và dự kiến tiến hành sửa đổi các điều
luật liên quan tới dịch vụ thanh toán và hoạt động ngân hàng (Lưu Ánh Nguyệt, 2017).
3. Một số kiến nghị, đề xuất cho Việt Nam
3.1. Tình hình phát triển Fintech ở Việt Nam
So với tiềm năng phát triển, Việt Nam chưa thực sự nắm bắt được những cơ hội mà
Fintech đem đến. Fintech mới phát triển ở Việt Nam trong khoảng 5 năm gần đây và vẫn
đang trong giai đoạn phát triển sơ khai. Mặc dù sự phát triển mạnh mẽ của Fintech trên
thế giới và tại một số quốc gia châu Á (Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông) cũng đã tạo
ra một số thay đổi tích cực trong hệ thống đến tài chính - ngân hàng ở Việt Nam. Tuy
nhiên, việc đầu tư vào các sản phẩm Fintech sáng tạo hay đầu tư vào các công ty Fintech
vẫn chưa được chú trọng. Các cơng nghệ tài chính được phát triển ở thị trường Việt Nam
vẫn chưa có sự đa dạng, hiện nay mới chỉ tập trung vào mảng thanh toán và nhắm vào
đối tượng khách hàng cá nhân. Trên thị trường có khoảng 70 cơng ty Fintech đang họat
động thì gần hai phần ba trong số đó là các ứng dụng thanh toán cung cấp cho người tiêu
dùng các phương thức thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số
như ví điện tử, cổng thanh tốn trực tuyến, thanh toán di động,... (như MoMo, 123Pay,
VinaPay,...). Các mảng khác như gây quỹ cộng đồng (FundStart, Comicola, Betado,
Firststep), cho vay trực tuyến (BankGo), quản lý quỹ tài chính cá nhân (MoneyLover,
Mobivi) cũng có xuất hiện nhưng đều ở quy mơ nhỏ và chưa có sự phát triển vượt trội.
219


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Các loại hình như cho vay ngang hàng, quản lý đầu tư tự động,... gần như chưa xuất hiện

(Lưu Ánh Nguyệt, 2017).
Sự phát triển của Fintech tại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Trình độ, năng lực về cơng nghệ thơng tin cịn hạn chế nên các sản phẩm, dịch vụ còn sơ
khai, chưa đủ đột phá, sáng tạo để cạnh tranh với các sản phẩm, dịch vụ truyền thống.
Hành lang pháp lý không bắt kịp với sự phát triển của các mô hình mới là rủi ro hiện
hữu đối với các cơng ty Fintech. Bên cạnh thách thức về thể chế mà nhiều quốc gia khác
cũng gặp phải, tại thị trường Việt Nam, Fintech cịn phải giải quyết thách thức về văn
hóa, thói quen sử dụng dịch vụ của khách hàng khi mà người dân vẫn giữ tâm lý nghi
ngờ, e ngại đối với những dịch vụ cho vay qua môi trường mạng điện tử. Hệ thống cơ sở
dữ liệu về hồ sơ công dân, cá nhân không đầy đủ trong khi đây là dữ liệu quan trọng đối
với việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ Fintech. Hệ sinh thái Fintech còn thiếu liên kết
chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia (cơ quan quản lý, các định chế tài chính, các cơng ty
Fintech). Vì vậy nhìn chung ở Việt Nam, các định chế tài chính vẫn chiếm ưu thế trong
cuộc cạnh tranh và chưa bị ảnh hưởng nhiều về thị phần hay doanh thu bởi ngành công
nghiệp Fintech. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ khơng thể nằm ngồi xu hướng phát triển của
thế giới khi làn sóng Fintech đang nhanh chóng lan rộng và tạo ra những thay đổi mạnh
mẽ trong ngành tài chính - ngân hàng tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Về phía chính phủ, đã có nhiều động thái thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ đối với
Fintech. Năm 2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lần đầu tiên triển khai cuộc thi Thử
thách sáng tạo cùng công nghệ tài chính được tài trợ của chính phủ Úc và Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các dịch vụ tài chính,
phổ cập tài chính mạnh mẽ hơn nữa tại Việt Nam. NHNN cũng thể hiện quan điểm ủng
hộ và mong muốn thúc đẩy hợp tác giữa các công ty Fintech với các ngân hàng ở Việt
Nam để tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho sự phát triển năng động của thị trường. Trước
đó, NHNN cũng đã triển khai thí điểm, cho phép các tổ chức phi ngân hàng (non-banks)
cung ứng dịch vụ thanh tốn và tính đến tháng 6/2016, NHNN đã cấp phép hoạt động
chính thức cho 20 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh tốn.
Ngành cơng nghiệp Fintech ở Việt Nam dự báo sẽ phát triển mạnh hơn trong giai
đoạn tới. Năm 2017, có hơn 53% dân số Việt Nam đã sử dụng Internet, đây là mức cao
trên thế giới. Gần 50% dân số kết nối với mạng xã hội. Số lượng thuê bao di động đạt

124,7 triệu thuê bao với hơn 41 triệu thuê bao hoạt động thường xuyên (We are social,
2018). Theo một công bố mới đây của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đã có 59% dân
số sở hữu tài khoản ngân hàng. Năm 2017, ở các thành phố lớn, 95% dân số sở hữu điện
thoại di động thì có đến 84% trong số đó sử dụng điện thoại thông minh. Con số này ở
220


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

khu vực nơng thơn cũng rất cao, trong khi 89% dân số sử dụng điện thoại di động thì đã
có 68% trong số đó sở hữu điện thoại thông minh (Nielsen, 2017). Không chỉ vậy, theo
thống kê, có đến 98% số doanh nghiệp ở Việt Nam có quy mơ vừa và nhỏ. Các cơng ty
Fintech cũng có thể hướng tới nhóm khách hàng này vì đây cũng là nhóm gặp khó khăn
khi tiếp cận nguồn tài chính từ các ngân hàng.
3.2. Một số kiến nghị, đề xuất cho Việt Nam
Ø
Đối với Chính phủ
Thứ nhất, xây dựng, hồn thiện khuôn khổ pháp lý, xây dựng cơ chế quản lý tạo
thuận lợi cho sự ra đời, phát triển của các công ty Fintech cũng như cho việc hợp tác giữa
các cơng ty Fintech với các định chế tài chính.
Hành lang pháp lý không đầy đủ là một rủi ro đối với các nhà đầu tư. Đây có thể
là lý do khiến các nhà đầu tư có tâm lý e ngại, dè chừng khi đầu tư vào các ngành, lĩnh
vực mới mà pháp luật chưa theo kịp. Vì vậy, để Fintech phát triển mạnh mẽ hơn nữa ở
Việt Nam, trước hết NHNN cùng với các Bộ, ban ngành cần rà sốt các quy định pháp
luật, các chính sách về cơng nghệ để khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng, tạo dựng một sân chơi bình đẳng, minh bạch, các quy định phù hợp
và chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết, giải quyết các vấn đề về quyền bảo mật, an ninh,
sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng.

Với những ngành, lĩnh vực mới như Fintech, tư duy xây dựng luật cũng phải mới.
Chẳng hạn như cho phép ngân hàng được kết nối trực tiếp với các trung tâm dữ liệu
về căn cước cơng dân của chính phủ và các trung tâm thơng tin tín dụng để có thể
nhận biết khách hàng và phân tích lịch sử tín dụng của khách hàng trực tuyến. Hay
cho phép sử dụng và cơng nhận tính pháp lý của các chứng từ điện tử, dữ liệu điện tử,
chữ ký điện tử,... nhằm giảm thiểu đến mức tối đa các loại giấy tờ giao dịch giữa ngân
hàng và khách hàng.
Thứ hai, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số về công dân Việt Nam. Đây là một việc
làm cần thiết mà chỉ có Chính phủ mới có thể tiến hành được, khơng chỉ phục vụ cho
nhu cầu quản lý dân cư, mà đây còn là cơ sở cho sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực
hiện đại trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong trường hợp của Fintech, cơ
sở dữ liệu số là điều kiện cần để các cơng ty Fintech có thể phát triển các giải pháp tài
chính số hóa tiếp cận tới tất cả các nhóm đối tượng, đặc biệt là những đối tượng sinh
sống ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo,... thường rất khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ
tài chính.
221


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

Ø
Đối với các định chế tài chính truyền thống và các công ty Fintech
Các định chế tài chính và Fintech cần xác định tư duy đúng đắn trong cạnh tranh.
Fintech và các định chế tài chính nên hợp tác với nhau hơn là cạnh tranh trực tiếp. Đây
là mối quan hệ hợp tác cả hai bên cùng có lợi, tạo ra sức mạnh tổng thể cho thị trường
tài chính. Mỗi bên đều nắm giữ những lợi thế riêng. Nếu như các cơng ty Fintech có lợi
thế vượt trội về công nghệ so với bộ phận IT tại các ngân hàng thì các ngân hàng lại sở
hữu lượng khách hàng lớn, tin tưởng vào uy tín của ngân hàng và cùng với đó là cơ sở

Dữ liệu lớn về khách hàng. Mặc dù có lợi thế về cơng nghệ, tính đột phá nhưng các cơng
ty Fintech ít kinh nghiệm trong ngành tài chính - ngân hàng nên khó có thể kiểm sốt
hết các rủi ro trong q trình hoạt động. Việc hợp tác giúp các công ty Fintech có thể
tiếp cận với một lượng lớn những khách hàng của các ngân hàng truyền thống, trong khi
đó các ngân hàng có thể tận dụng những giải pháp cơng nghệ sáng tạo để phục vụ khách
hàng tốt hơn, với chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo lợi ích của cả hai bên, cần phải
xây dựng cơ chế hợp tác phù hợp.
4. KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, Fintech là tương lai của ngành tài chính - ngân hàng. Việc nhận
diện những cơ hội và thách thức của Fintech đối với hệ thống tài chính - ngân hàng
là một tiền đề quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách, các định chế tài chính
truyền thống cũng như các cơng ty công nghệ khởi nghiệp trong lĩnh vực này kiến tạo
nên một thị trường tài chính hiện đại, phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả trong
tương lai. Ở khu vực châu Á, Fintech đang phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc, Singapore,
Hồng Kơng. Chính phủ các quốc gia này đã có nhiều giải pháp mạnh mẽ hỗ trợ cho sự
phát triển của Fintech. Những bài học quốc tế trong thúc đẩy phát triển Fintech, đặc biệt
ở những quốc gia có đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa tương đồng với Việt Nam (chẳng
hạn như Trung Quốc) là một hướng nghiên cứu cần thiết, có thể giúp cho chúng ta tìm
ra giải pháp để tạo ra cú hích cho sự phát triển của Fintech tại thị trường Việt Nam. Một
hướng nghiên cứu khác có thể là các cơ chế hợp tác đảm bảo lợi ích cả hai bên, giữa
Fintech với các định chế tài chính truyền thống.

222


Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

GHI CHÚ

Khảo sát “Những ranh giới bị xóa nhịa: Các Fintech đang định hình ngành dịch vụ
tài chính như thế nào” được thực hiện tại 46 q́c gia với 544 CEO, lãnh đạo bộ phận đổi
mới sáng tạo, giám đốc công nghệ thông tin (CIO) và các quản lý cấp cao có tham gia vào
q trình chủn đổi kỹ thuật số và công nghệ trong ngành dịch vụ tài chính.
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Ánh Nguyệt (2017), “Xu hướng phát triển của cơng nghệ tài chính và một số tác
động tới thị trường tài chính”, Cổng TTĐT Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính,
truy cập tại < />2. Accenture (2016), Fintech and the Volving Landscape: Landing Points for the Industry;
3. BCBS (2018), Implications of Fintech Developments for Banks and Bank Supervisors,
ISBN 978-92-9259-128-1;
4. Douglas và cộng sự (2015), The Evolution of Fintech: A New Post - crisis paradigm,
Research Paper No. 2015/047;
5. Golden Sachs Global (3/2015),  The Future of Finance Part 3: The Socialization of
Finance;
6. Hiroshi Nakaso (2016), Fintech - Its Impacts on Finance, Economies and Central
Banking, Bank of Japan;
7. Janos Barberis, The Rise of Fintech: Getting Hong Kong to lead the digital financial
transition in APAC, Fintech HK 13 (Nov., 2014);
8. Klaus Schwab, (2016), The Fourth Industrial Revolution;
9. KPMG (2015), The perfect storm of technology and capital markets: The modern
history of Fintech;
10. Lindhout (2016), Fintech: A disruptive force to be reckoned with Regulating the future
of banking, Tilburg University;
11. Nielsen 2017, Vietnam Smartphone Insight Report;
12. OICU-IOSCO (2017), IOSCO Research Report on Financial Technologies (Fintech),
< />223



Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA

"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"

13. PwC (2016), Blurred Lines: How Fintech is Shaping Financial Services - Global Fintech
Report;
14. PwC (2017), Redrawing the lines: Fintech’s growing influence on Financial Services Global Fintech Report;
15. World Bank, (2018), The Global Financial Findex Database 2017;
16. We are Social (2017), Digital in 2017: A study of Internet, Social Media, and Mobile
use throughout the region of Southeast Asia;
17. />18. />19. />
Ngày gửi bài: 19/5/2018
Ngày gửi lại bài: 29/5/2018
Ngày duyệt đăng: 02/06/2018

224



×