Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Protein đậu nành và khả năng thay thế trứng trong chế biến bánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.91 KB, 6 trang )

PROTEIN ĐẬU NÀNH VÀ KHẢ NĂNG THAY THẾ TRỨNG TRONG
CHẾ BIẾN BÁNH
Nguyễn Thị Thơ
Viện Khoa học Ứng dụng, trường Đại học Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh (HUTECH)

TĨM TẮT
Trong cơng nghệ thực phẩm, đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành được xem là nguồn protein thực vật
hoàn hảo. Với nhiều mục đích sử dụng liên quan đến dinh dưỡng và công nghệ, protein đậu nành ngày
càng được nghiên cứu và chiết tách rộng rãi thành các dạng chế phẩm thương mại khác nhau để bổ sung
vào các sản phẩm thực phẩm nhằm tăng cường giá trị dinh dưỡng và cải thiện cấu trúc. Hơn nữa, những
tiến bộ trong công nghệ chiết tách đã tạo ra các sản phẩm protein đậu nành với nhiều tính chất chức năng
quan trọng. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh protein đậu nành có độ hịa tan và tính chất nhũ hóa
tương tự như protein trứng, việc thay đổi pH sẽ làm ảnh hưởng đến độ hòa tan và độ bền của nhũ tương.
Về khả năng tạo bọt, protein đậu nành tạo bọt có độ bền kém hơn bọt của protein trứng ở cùng nhiệt độ
phịng. Protein đậu nành có đặc tính tạo gel tốt như protein trứng nhưng gel tạo thành khơng bền ở nhiệt
độ cao. Do có những tính chất quan trọng như trên nên hiện nay protein đậu nành ngày càng được quan
tâm nghiên cứu để thay thế một phần hoặc tồn bộ trứng sử dụng trong cơng thức bánh nướng.
Từ khóa: Protein đậu hành, SPC, SPI, nhũ hóa, tạo bọt.

1. GIỚI THIỆU
Protein đậu nành từ lâu đã được sử dụng để chế biến các thực phẩm chay như các sản phẩm giả thịt để cải
thiện đặc tính chức năng và giá trị dinh dưỡng. Cùng với sự tiến bộ của công nghệ chiết tách, các chế phẩm
protein đậu nành thương mại ngày càng được nghiên cứu sản xuất và quan tâm sử dụng để bổ sung vào
nhiều loại sản phẩm thực phẩm khác như sữa, súp, nước sốt, ngũ cốc ăn sáng, bột protein…và gần đây
chúng được sử dụng như chất thay thế trứng trong bánh nướng và các sản phẩm mà trứng là thành phần
quan trọng. Mặc dù trên thực tế sự quan tâm đến việc sử dụng protein đậu nành như là chất thay thế trứng
tiềm năng trong ngành công nghiệp thực phẩm đã tăng lên, nhưng các nghiên cứu được công bố về lĩnh
vực này chưa nhiều. Vì vậy, bài tổng quan này trình bày về các chế phẩm protein đậu nành có mặt trên thị
trường, các tính chất chức năng của chúng như độ hịa tan, tính nhũ hóa, khả năng tạo bọt và tạo gel cũng
như so sánh các tính chất chức năng của protein đậu nành với protein trứng, từ đó đánh giá được khả năng
thay thế trứng của chúng trong công thức bánh nướng truyền thống.



2. GIỚI THIỆU CÁC CHẾ PHẨM PROTEIN ĐẬU NÀNH
Đậu nành cũng như các sản phẩm từ đậu nành được phân loại là thực phẩm tốt cho sức khỏe vì chúng có
chứa axit béo omega-3, isoflavones, chất xơ, các axit amin thiết yếu và hàm lượng protein cao. Một nhược
điểm liên quan đậu nành là hương vị rất khác biệt của nó rất khó che giấu, và do đó, ứng dụng của đậu
nành và protein đậu nành chỉ giới hạn ở một số sản phẩm thực phẩm [8]. Đậu nành hạt chứa khoảng 40%
hàm lượng protein, được xay và sau đó sàng lọc để thu dạng bột mịn (Soy Flour). Sau khi tách vỏ, nghiền
vỡ và loại béo, người ta thu được những mảnh vụn đậu nành lớn (đậu nành vảy-Soy Flakes) chứa khoảng
50% hàm lượng của protein đậu nành còn
chịu ảnh hưởng của sức mạnh ion (xem hình 2).

Hình 2. Ảnh hưởng của sự thay đổi sức mạnh ion đến độ hòa tan của protein tại các điểm pH (Shen, 1976).

3.2. Khả năng nhũ hoá
Cùng với độ hòa tan tốt, cấu trúc bậc 3 của phân tử protein với sự phân bố của các nhóm ưa nước, kị nước
(ưa béo) đã làm cho protein đậu nành liên kết tốt với các phân tử nước và béo, tăng khả năng nhũ hóa làm
bền các hệ nhũ tương nước trong béo (W/O) hay béo trong nước (O/W). Các gel bền được hình thành ở
nhiệt độ thấp và nồng độ protein cao. pH cũng có ảnh hưởng đến các đặc tính nhũ hóa của protein đậu
nành. Bột đậu nành có thể tạo ra một nhũ tương giống như mayonnaise cực kỳ dày (ở pH 6,5 và pH 8,2)
và ở các giá trị pH thấp hơn, nó tạo nhũ tương có dạng giống salad dressing (nước sốt được pha chế dùng
trong chế biến món salad). Kamat và các cộng sự, 1978 cho rằng hệ nhũ tương của protein đậu nành tạo
thành kém ổn định nhất ở pH đẳng điện (pI) và ổn định tốt nhất ở khoảng pH từ 6-9. Nồng độ protein cũng
là một yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và ổn định của hệ nhũ tương: trong khi khả năng hình thành hệ
nhũ tương (Emulsion Capacity)-g dầu được nhũ hóa/g protein giảm tỉ lệ thuận với nồng độ protein thì độ
bền của hệ nhũ tương tăng lên (Lin, 1974)

3.3. Tính chất tạo bọt
Các chế phẩm protein đậu nành đều có khả năng tạo bọt tốt. Nồng độ protein của chế phẩm đậu nành càng
cao thì khả năng tạo bọt và độ ổn định bọt càng tốt. Tuy nhiên sự có mặt của chất béo trong các chế phẩm
đậu nành sẽ giảm đặc tính tạo bọt do chúng làm mất ổn định màng protein. Vì thế các chế phẩm tinh chế

SPC và SPI đã được xử lý tách béo hồn tồn giúp cải thiện đặc tính tạo bọt của chúng (Eldridge, 1963).
Các thông số quan trọng giúp đánh giá tính tạo bọt của protein bao gồm độ ổn định bọt (FS- Foam
stability), khả năng tạo bọt (FC- Foam Capacity) và độ mở rộng của bọt (FE- Foam expansion) hay độ
tràn bọt (Foam Overum). FE và FC được đo theo khối lượng (%) khi đánh, FS được đo bằng thể tích bọt
theo thời gian (thường là 0-30 phút). Quá trình gia nhiệt dung dịch protein đậu nành ở 75-800C là cần thiết
và tối ưu để có giá trị FE và FS cao nhất. FE và FS đạt giá trị cao nhất ở nồng độ protein 3%
(Eldridge,1963). pH cũng ảnh hưởng lên FE và FS, chúng đạt giá trị cao nhất ở = 2 và pH = 9 và thấp
nhất ở pH =4-6.

854


3.4. Đặc tính tạo gel
Gel protein là mạng lưới 3 chiều có khả năng giữ nước. Đặc trưng của gel là có độ nhớt, độ dẻo và độ đàn
hồi tương đối cao. Dung dịch protein đậu nành tạo thành gel khi được gia nhiệt và làm nguội. Giai đoạn
đầu gia nhiệt trên 600C làm cho phân tử globulin cấu trúc bậc 4 bị phân cắt dẫn đễn duỗi mạch polypeptide
và làm tăng độ nhớt. Độ nhớt của protein đậu nành tăng theo cấp số nhân khi nhiệt độ tăng. Đến khi làm
nguội, các mạch polypepide liên kết lại nhờ vào các liên kết yếu như liên kết ion, liên kết hydro, liên kết kị
nước để hình thành gel (Saio,1975). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ protein đậu nành ảnh hưởng
đến độ cứng của gel và các đặc tính tạo gel của protein đậu nành phụ thuộc vào nhiệt độ, pH, và sức mạnh
ion. Các gel bền được hình thành ở nhiêt độ thấp và nồng độ protein cao. SPC và SPI tạo gel có độ bền
khác nhau phụ thuộc vào nồng độ protein và nhiệt độ [4].

4. SO SÁNH TÍNH CHẤT CHỨC NĂNG CỦA PROTEIN ĐẬU NÀNH VÀ PROTEIN
TRỨNG [8]
4.1. Độ hòa tan
Protein trứng cho thấy độ hòa tan khác nhau ở các giá trị pH khác nhau theo đường cong hình chữ U
tương tự như trong trường hợp của các sản phẩm protein đậu nành SPC và SPI. Protein trong lòng trắng
trứng và lòng đỏ trứng có điểm đẳng điện trung bình (pI) lần lượt là 5,4 và 5,3 trong khi điểm pI của đậu
nành ở 4,5. Ở các điểm pI này độ hòa tan của các protein là kém nhất [1].


4.2. Khả năng nhũ hóa
Protein lịng đỏ trứng là chất nhũ hóa tốt vì chúng chứa các protein lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-Low
Density Lipoprotein) và lipoprotein tỉ trọng cao (HDL-High Density Lipoprotein). Những protein này
không được tìm thấy trong protein đậu nành, tuy nhiên, protein đậu nành vẫn có đặc tính nhũ hố tốt bởi
vì nó chứa các phân tử hoạt động bề mặt, đó là amphiphilic, có tác dụng làm bền hệ nhũ tương. Cũng
giống như trong trường hợp độ hòa tan, pH ảnh hưởng đến các đặc tính nhũ hố của tất cả nghiên cứu
protein. Protein trứng và protein đậu nành có khả năng nhũ hóa tốt nhất ở các giá trị pH cao hơn.

4.3. Tính chất tạo bọt
Albumin có trong lịng trắng trứng có đặc tính tạo bọt rất tốt. Protein đậu nành khơng có thành phần
protein giống với trứng do đó đặc tính tạo bọt của nó có thể khác với trứng. Tuy nhiên, protein đậu nành
cũng là chất tạo bọt tốt và độ dày của bọt phụ thuộc vào độ pH. Protein đậu nành có độ hịa tan cao trong
pha lỏng và chúng có thể tạo thành một màng xung quanh bọt khí trong hệ thống thực phẩm.

4.4. Đặc tính tạo gel
Cũng giống như trong trường hợp protein trứng, protein đậu nành cũng có thể tạo gel, và việc thay đổi
nồng độ protein, pH và nhiệt độ có thể làm thay đổi độ cứng của gel. Tuy nhiên protein đậu nành tạo thành
gel mạnh nhất ở nhiệt độ thấp hơn nên protein đậu nành không phải là chất thay thế trứng tốt nếu chỉ xem
xét về đặc tính tạo gel.

5. KHẢ NĂNG THAY THẾ TRỨNG CỦA PROTEIN ĐẬU NÀNH TRONG CHẾ BIẾN BÁNH
Từ lâu, trứng được sử dụng trong sản xuất bánh nướng vì các tính chất chức năng tuyệt vời như độ hịa
tan, tạo bọt, khả năng nhũ hố và đặc tính tạo gel, chất lượng protein cao và hương vị đặc trưng. Tuy
nhiên, đôi khi trứng trở thành yếu tố cản trở tiêu dùng do: 1) người sử dụng khơng quen với hương vị đặc
trưng của nó; 2) trứng chứa hàm lượng cholesterol cao; 3) tôn giáo hay nhu cầu ăn uống (ăn chay); 4)
trứng gây dị ứng, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ. Với các tính chất chức năng tương tự như protein trứng đã
855



trình bày ở phần trước, đậu nành và các chế phẩm protein đậu nành đã được nghiên cứu để sử dụng độc
lập hoặc kết hợp với các chất khác nhằm thay thế một phần hoặc toàn bộ trứng trong chế biến bánh để
khắc phục các vấn đề từ việc sử dụng trứng.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy protein đậu nành có khả năng nhũ hóa tốt tương tự như protein
trứng, nó giúp tăng cường sự liên kết giữa các thành phần khác nhau trong công thức bánh như tăng cường
khả năng giữ nước và liên kết với béo của protein và tinh bột có trong bột mì. Gwiazda và cộng sự (1979)
trình bày kết quả là SPI và SPC có các đặc tính nhũ hố tốt và khác nhau. SPI cho thấy độ hoạt động nhũ
tương (EA- Emulsion activity) là 96% và độ ổn định nhũ tương (ES- Emulsion stability) là 92% cịn
SPC có EA là 55,6% và ES là 56,8%. Jideani (2011) cũng cho rằng SPI và SPC là chất nhũ hóa tốt nhưng
SPC thể hiện khả năng nhũ hóa thấp hơn SPI [1]. Về khả năng tạo bọt, trong một nghiên cứu được thực
hiện bởi Boye cộng sự (2010) SPI cho thấy protein đậu nành có giá trị FE là 41,8% và FS là 93% trong
khi protein trứng có giá trị FE là 479% và FS là 52% (Lomakina K., 2006). Mặc dầu FS của protein đậu
nành nhỏ hơn trứng rất nhiều nhưng bọt tạo thành lại có độ ổn định cao gần gấp đơi trứng.
Nghiên cứu của Nazanin Fatemeh Rahmati & Mostafa Mazaheri Tehrani, 2014 đã kết luận rằng việc thay
thế trứng bằng dịch sữa đậu nành (10% protein) ở tỉ lệ 75% không làm thay đổi đáng kể các tính chất của
bánh nướng và được người tiêu dùng chấp nhận [6]. Điều này chứng tỏ mặc dầu protein đậu nành với các
tính chất chức năng tương tự trứng có thể thay thế hồn tồn trứng trong chế biến bánh nhưng do hàm
lượng protein có trong dịch sữa đậu nành của nghiên cứu này thấp (10%) nên khi thay thế tồn bộ trứng
(100%) đã khơng tạo được chất lượng sản phẩm như mong muốn.
Một nghiên cứu khác của Zeidanloo và các cộng sự, 2014 đã khảo sát hiệu quả của việc sử dụng kết hợp
bột đậu nành và gum guar thay thế toàn bộ trứng trong công thức bánh nướng. Kết quả nghiên cứu đã xác
định hỗn hợp 50% bột đậu nành và 0,3% guar gum cho sản phẩm bánh có độ xốp cao nhất và chất lượng
cảm quan tốt [8]. Ở nghiên cứu này, tác giả đã ử dụng bột đậ nành ng ên có hà lượng protein cao,
kết hợp với đặc t nh nhũ hóa tốt của guar gum khi sử dụng ở nồng độ thấp đã tha thế được toàn bộ trứng
(100%) sử dụng trong cùng công thức bánh gi p đảm bảo chất lượng bánh nướng đạt yêu cầu về độ nở
xốp và cho chất lượng cảm quan cao.
Muyang Lin và các cộng sự, 2017 cũng đã đánh giá khả năng thay thế trứng (13,93%) trong công thức
bánh nướng bằng việc sử dụng riêng lẻ SPI (3,3%) và 5 mẫu kết hợp (SPI + 0.1% xanthan gum; SPI + 1%
Mono-, di glyceride; SPI + 1% Soy lecithin; SPI + 0.1% xanthan gum + 1% Mono-, di glycerid và SPI +
0.1% xanthan gum + 1% Soy lecithin). Kết quả đã chứng tỏ rằng với hàm lượng thay thế tồn bộ trứng

trong cơng thức bằng 3,3 % SPI và 1% mono-,diglyceride thì thể tích riêng, tỉ trọng, độ cứng và độ ẩm của
mẫu bánh không khác biệt so với mẫu đối chứng. Về mặt cấu trúc, các công thức trên đều chứa nhiều
gliadin với kích thước 100-200nm và mạng gluten có ít lỗ rỗng nhưng kích thước lỗ rỗng to hơn [5]. Ở
nghiên cứu này các tác giả đã sử dụng kết hợp chế phẩm SPI có hàm lượng protein rất cao (SUPRO 120®;
90% protein) cùng với các chất nhũ hóa như lecithin đậu nành (Soy lecithin) và Mono-,diglycerid và chất
tạo gel Xanthan gum ở nồng độ thấp để tăng cường khả năng nhũ hóa. Kết quả là lượng SPI sử dụng chỉ
bằng khoảng ¼ lượng trứng kết hợp với đặc tính nhũ hóa tốt của Mono-, di glycerid đã tạo cho bánh
nướng đạt độ xốp và chất lượng không khác biệt so với bánh nướng có sử dụng trứng, đồng thời giúp giảm
chi phí sản xuất.

6. KẾT LUẬN
Các chế phẩm protein đậu nành chứa hàm lượng protein khác nhau tùy vào phương pháp chiết tách.
Protein đậu nành có thể được sử ở dạng thô hoặc bổ sung ở các dạng tinh chế với hàm lượng protein rất
cao vào thành phần của các sản phẩm thực phẩm để tăng cường dinh dưỡng và cải thiện đặc tính cấu trúc
nhờ độ hịa tan tốt, tính chất nhũ hóa, khả năng tạo bọt và tạo gel. Với các tính chất chức năng này, protein
856


đậu nành qua nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ tiềm năng thay thế trứng của nó trong chế biến bánh giúp khắc
phục những yếu tố cản trở tiêu dùng từ việc sử dụng trứng trong công thức bánh nướng và trong các sản
phẩm mà trứng là thành phần quan trọng. Bên cạnh đó việc giảm hoặc loại bỏ thành phần trứng trong sản
phẩm còn mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà sản xuất. Điều này dẫn đến việc sử dụng protein đậu nành
như chất thay thế trứng trong thực phẩm ngày càng được quan tâm và ứng dụng rộng rãi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Jideani, V.A. (2011) Functional Properties of Soybean Food Ingredients in Food Systems.
Department of Food Technology, Cape Peninsula University of Technology.


[2]

Joseph G. Endres, Soy Protein Products: Characteristics, Nutritional Aspects, and Utilization Joseph
G. Endres, A Publication of AOCS Press P.O. Box 3489 Champaign, IL 61826-3489 USA

[3]

Kinsella, J. E. (1979). Functional properties of soy proteins. Journal of the American Oil Chemists‘
Society, 56(3), 242–258.

[4]

Lee, J. (2011) Soy protein hydrolysate; solubility, thermal stability, bioactivity, and sensory
acceptability in tea beverage. Thesis submitted to the faculty of the graduate school of the
University of Minnesota, Master of Science.

[5]

Lin, M., Tay, S. H., Yang, H., Yang, B., & Li, H. (2017). Replacement of eggs with soybean protein
isolates and polysaccharides to prepare yellow cakes suitable for vegetarians. Food Chemistry, 229,
663–673.

[6]

Rahmati, N. F., & Mazaheri Tehrani, M. (2015). Replacement of Egg in Cake: Effect of Soy Milk
on Quality and Sensory Characteristics. Journal of Food Processing and Preservation, 39(6), 574–
582.

[7]


Soderberg, J. (2013). Functional properties of legume proteins compared to egg proteins and their
potential as egg replacers in vegan food. Faculty of Natural Resources and Agricultural Sciences,
43p.

[8]

Zeidanloo, M. H., Ghavidel, R. A., & Afshar, S. E. (2014). The evaluation of egg replacement with
soy flour and guar gum in oil cake, 6655, 222–227.

857



×