Khôi phục rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008-2014
Thực tiễn điển hình và bài học kinh nghiệm
Barry Clough, Phan Văn Hoàng, Huỳnh Hữu To và Lưu Triệu Phong
Tháng 01/2016
MỤC LỤC
Tóm tắt....................................................................................................................................................... 1
Giới thiệu ................................................................................................................................................... 3
Phương pháp luận ..................................................................................................................................... 3
Lưu ý về thuật ngữ được dùng trong báo cáo ....................................................................................... 3
Cách tiếp cận chung .............................................................................................................................. 3
Phân tích và đồng bộ dữ liệu ................................................................................................................. 4
Kết quả và thành quả ................................................................................................................................ 6
Bạc Liêu ................................................................................................................................................. 6
Trồng rừng trên đất gò cao ................................................................................................................ 7
Trồng rừng trên bãi bồi về phía biển ................................................................................................ 13
Bài học kinh nghiệm ở Bạc Liêu ...................................................................................................... 19
Kiên Giang ........................................................................................................................................... 21
Vàm Rầy ........................................................................................................................................... 21
Thứ Năm .......................................................................................................................................... 24
Xẻo Bần ............................................................................................................................................ 27
Bài học kinh nghiệm ở Kiên Giang ................................................................................................... 29
Sóc Trăng ............................................................................................................................................. 30
VC002 – Xã Vĩnh Hải ....................................................................................................................... 32
VC003 - Ấp Cà Lăng A Biển ............................................................................................................. 33
VC004 - Ấp Preychop....................................................................................................................... 37
VC005 (ấp Preychop, xã Lai Hòa) ................................................................................................... 40
VC006............................................................................................................................................... 41
VC007............................................................................................................................................... 43
VC011 ............................................................................................................................................... 46
Bài học kinh nghiệm ở Sóc Trăng .................................................................................................... 48
Thực tiễn điển hình và bài học kinh nghiệm chung ................................................................................. 49
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................................... 52
Phụ lục 1 – Kế hoạch thực hiện .............................................................................................................. 53
Phụ lục 2 – 4 – Sổ tay tổng hợp .............................................................................................................. 54
Tóm tắt
Báo cáo này đánh giá những thành quả và bài học kinh nghiệm từ các hoạt động khôi phục
rừng ngập mặn được GIZ hỗ trợ ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang trong giai
đoạn từ năm 2008 đến năm 2014.
Cách tiếp cận chung ở cả ba tỉnh là nhằm thử nghiệm nhiều chiến lược khôi phục rừng ở các
dạng lập địa khó khăn khác nhau để tăng cường chức năng phòng hộ của rừng ngập mặn
ven biển. Tất cả các mơ hình trồng rừng thử nghiệm đều là thủ cơng, đơi khi có cải tạo mặt
bằng hoặc các can thiệp khác nhằm cải thiện cơ hội thành cơng.
Thành quả và bài học kinh nghiệm
Tồn bộ có 20 điểm với tổng diện tích là 60,3 ha được GIZ trồng trực tiếp ở cả ba tỉnh,
phân ra từng tỉnh ở bảng dưới đây:
Số điểm thử nghiệm và diện tích rừng trồng ở ba tỉnh
Diện tích ngập triều cao hoặc
trung bình
Tỉnh
Số điểm
được trồng
Diện tích
trồng (ha)
Bãi bồi ngập triều thấp
Số điểm
được trồng
Diện tích
trồng (ha)
Bạc Liêu
6
16,5
3
11,3
Kiên Giang
-
-
3
7,5
Sóc Trăng
7
24
1
1
Ở Sóc Trăng có thêm 14 ha rừng được trồng bởi Đoàn thanh niên hoặc các đơn vị
quản lý rừng, GIZ chỉ hỗ trợ chi phí mua giống chứ khơng trực tiếp tham gia trồng
rừng, cũng không tiến hành quan trắc rừng trồng.
Đánh giá mức thành công của rừng trồng và xác định điểm nào được, điểm nào chưa
được là một việc khá phức tạp do dữ liệu quan trắc không đầy đủ và không tiến hành
đánh giá tiếp theo để xác định nguyên nhân thành công hoặc thất bại, đặc biệt là ở
Kiên Giang và Sóc Trăng.
Điểm dễ xác định nhất đó là tất cả các diện tích rừng trồng đều có tỷ lệ sống dưới
85%, chỉ tiêu thành công hiện thời của Bộ NN & PTNT. Tuy nhiên, tỷ lệ sống không
nhất thiết phải được xem là chỉ số thành công duy nhất. Bằng chứng từ hình chụp,
ảnh vệ tinh và quan sát tại chỗ cho thấy rằng rừng đã được khôi phục thành những
quần thụ phát triển tốt ở một số điểm mà trước đó là đất trống, mặc dù rừng trồng đó
có tỷ lệ sống khá thấp.
Khơi phục rừng trong vng tơm cũ là một việc khó, nhưng kinh nghiệm ở Bạc Liêu
cho thấy có thể làm thành cơng nếu có được các cơng trình thích ứng ở hiện trường
nhằm phục hồi điều kiện thủy văn phù hợp cho cây rừng ngập mặn.
Hàng rào chữ ‘T’ và các rào chắn sóng hoặc rào giữ phù sa khác chỉ có hiệu quả ở 4
trong 13 điểm được xây dựng (ở cả ba tỉnh). Thoạt nhìn dường như có sự liên kết với
1
cao trình đáy biển ngồi khơi, nhưng hiểu biết của chúng ta hiện nay về lý do tại sao
nó có hiệu quả ở chỗ này mà khơng có hiệu quả ở chỗ khác vẫn cịn chưa đủ để dự
đốn chỗ nào hàng rào có thể áp dụng thành cơng trong tương lai.
Cần đánh giá lập địa toàn diện hơn nữa trong tương lai nhằm quyết định trồng ở đâu,
trồng cây gì, trồng lúc nào và các biện pháp cải tạo mặt bằng nào là cần thiết để đảm
bảo khôi phục rừng thành cơng.
Để quan trắc có hiệu quả hơn nữa không những chỉ tập trung đo đếm tỷ lệ sống và
tăng trưởng mà còn phải quan sát và đo đếm tần suất/độ sâu ngập nước, đặc tính đất
hoặc các đặc tính lập địa khác có thể giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ sống và tăng
trưởng.
2
Giới thiệu
Các hệ sinh thái rừng ngập mặn mang đến nhiều lợi ích hàng hóa và dịch vụ cho người dân
sống ở vùng ven biển ở cấp độ địa phương, khu vực và toàn cầu. Bên cạnh những sản phẩm
trực tiếp như gỗ, thực phẩm và dược liệu cịn có các dịch vụ mơi trường ít được nhận ra như
hỗ trợ nguồn lợi thủy sản ven bờ, cải thiện chất lượng nước ven bờ, phịng hộ vùng bờ và
cơng suất cô lập và tồn trữ carbon vượt trội (Donato và đồng sự, 2011; McLeod và đồng sự,
2011). Nhờ đó, dù chỉ chiếm một phần diện tích nhỏ nhoi so với các hệ sinh thái rừng khác
trên toàn cầu nhưng hệ sinh thái rừng ngập mặn là một yếu tố then chốt trong việc giảm thiểu
các hiệu ứng của biến đổi khí hậu.
Rừng ngập mặn hiện diện dọc theo vùng bờ của tất cả các tỉnh ven biển ở đồng bằng sông
Cửu Long, Việt Nam, nhưng ở tất cả các tỉnh này (ngoại trừ Cà Mau), dải rừng đều bị thu hẹp
thành một vệt mỏng có chiều ngang từ vài mét đến khoảng 1 km dọc theo bờ biển hoặc ven
kênh rạch. Tổng diện tích rừng ngập mặn của từng tỉnh ở đồng bằng sơng Cửu Long có sự
chênh lệch tùy theo người kiểm kê, quy ước khác nhau về yếu tố cấu thành của hệ sinh thái
hoặc quần thể rừng ngập mặn, phép tính tốn trong kiểm kê bằng ảnh vệ tinh khi phân biệt
giữa các quần thể rừng với diện tích cây mọc lưa thưa.
Cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, các hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông
Cửu Long, Việt Nam đang bị đe dọa bởi xói lở bờ biển, tác động của con người, mực nước
biển dâng và các hệ quả khác cuả biến đổi khí hậu. Xói lở bờ biển và tác động của con người
chính là những mối đe dọa trước mắt, cịn biến đổi khí hậu tồn cầu là hiện thân của mối đe
dọa dai dẳng tính trên hàng thập kỷ đến hàng thế kỷ.
Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP) là một chương trình phát triển dưới sự
tài trợ của các chính phủ: Việt Nam, Đức và Úc, do Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) thực
hiện. Mục tiêu của chương trình là nhằm hỗ trợ các cơ quan thẩm quyền của Việt Nam ứng
phó trước mơi trường biến đổi ở đồng bằng sơng Cửu Long và đặt nền móng cho sự phát
triển bền vững.
Từ năm 2008, dưới sự hợp tác của chính quyền cấp tỉnh và nguồn kinh phí của các nhà tài
trợ ở trên, GIZ đã thực hiện một số dự án riêng lẻ nhằm khôi phục rừng ngập mặn ở các tỉnh
Sóc Trăng, Kiên Giang và Bạc Liêu thuộc đồng bằng sơng Cửu Long. Mục đích của bản báo
cáo này là nhằm đánh giá kết quả của các dự án đó, từ đó rút ra các mơ hình có hiệu quả và
những bài học kinh nghiệm có thể ứng dụng vào quá trình quản lý tổng hợp tài nguyên ven
biển sau này.
Phương pháp luận
Lưu ý về thuật ngữ được dùng trong báo cáo
Thuật ngữ ‘khôi phục’ đặt tên cho bài báo cáo này chưa được chính xác lắm. Khơi phục một
sự vật có nghĩa là đưa nó trở về với trạng thái trước đó. Tuy nhiên, có thể rừng ngập mặn
chưa từng xuất hiện ở một vài điểm ‘khôi phục’ được đề cập trong báo cáo này. Vì vậy, ở
những chỗ khác trong bài báo cáo này, các thuật ngữ ‘trồng’, ‘trồng rừng’ và ‘rừng trồng’ được
sử dụng để diễn đạt hoạt động trồng rừng ngập mặn ở tất cả các địa điểm.
Cách tiếp cận chung
Tất cả các thông tin về hoạt động trồng rừng ngập mặn do GIZ thực hiện ở các tỉnh Bạc Liêu,
Sóc Trăng và Kiên Giang được thu thập qua hai đợt công tác. Mục tiêu của ba ngày làm việc
3
trong đợt công tác thứ nhất vào cuối tháng Tám, đầu tháng Chín là nhằm tham vấn với cán bộ
GIZ và đối tác, thu thập tất cả dữ liệu có liên quan và mục trắc các điểm rừng trồng.
Qua đợt công tác thứ nhất, các thông tin sau đây đã được thu thập:
Lý do chọn địa điểm và cách đánh giá địa điểm được chọn cho trồng rừng.
Vị trí và quy mơ của mỗi diện tích trồng rừng.
Loài cây trồng và cơ sở chọn loài cây trồng.
Sử dụng vườn ươm: loại hình, vị trí và cách thực hiện.
Chuẩn bị mặt bằng trồng rừng.
Có hay khơng có cơng trình chắn sóng để bảo vệ hiện trường trồng rừng (kiểu thiết kế,
vật liệu xây lắp, vị trí gắn liền với rừng trồng, chi phí, yêu cầu bảo dưỡng, v.v...)
Chi phí cho trồng rừng kể cả khâu chuẩn bị mặt bằng và gieo ươm.
Mức độ thành rừng (hoặc không thành rừng) dựa trên số liệu quan trắc về tỷ lệ sống,
sinh trưởng và trực quan.
Cách quan trắc rừng trồng: quan trắc yếu tố nào, bằng cách nào, tần suất quan trắc,
lưu trữ thông tin quan trắc như thế nào.
Kế hoạch quan trắc tiếp theo của đối tác sau khi dự án kết thúc.
Lập hồ sơ và lưu trữ hình ảnh của các điểm rừng trồng.
Do thời gian có hạn nên đồn cơng tác chỉ đến được một số điểm rừng trồng tiêu biểu ở từng
tỉnh để đánh giá hiện trạng.
Mục tiêu của đợt công tác thứ hai đến các tỉnh vào giữa tháng 10, đầu tháng 11 là để cán bộ
phía đối tác phản hồi cho bản dự thảo tổng hợp hoạt động trồng rừng, thành quả và bài học
kinh nghiệm, đồng thời làm rõ những thơng tin cịn thiếu.
Cuộc họp mặt tham vấn sau cùng với cán bộ GIZ và đối tác được tổ chức tại Cần Thơ vào
ngày 24 tháng 11 để trình bày báo cáo thuyết minh dự thảo và ghi nhận ý kiến đóng góp. Bản
thuyết minh báo cáo cuối cùng này phản ánh đầy đủ ý kiến phản hồi của những người tham
gia tại cuộc họp mặt tham vấn.
Phân tích và đồng bộ dữ liệu
Mục tiêu chung cho trồng rừng ở cả ba tỉnh là nhằm tăng cường chức năng phòng hộ ven
biển, nhưng mỗi tỉnh áp dụng các chiến lược khác nhau do yêu cầu cụ thể của tỉnh mình.
Ngồi ra, giữa các tỉnh có sự khác biệt rất lớn trong phương pháp quan trắc, đặc biệt là chỉ
tiêu đo đếm, tần suất đo đếm và cách ghi chép, lưu trữ dữ liệu quan trắc.
Tất cả dữ liệu về rừng trồng và quan trắc ở Bạc Liêu được lưu trữ theo định dạng bảng tính,
mỗi điểm rừng trồng có một bảng tính nhiều trang. Hầu hết thông tin chi tiết về rừng trồng và
dữ liệu quan trắc đều được ghi chép theo một định dạng đồng bộ và mạch lạc, có thể truy
xuất để xử lý và tổng hợp hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu hay ứng dụng khác rất dễ dàng.
Ở Sóc Trăng, dữ liệu về rừng trồng được lưu trữ trong các tập tin văn bản còn dữ liệu quan
4
trắc thì nằm trong các tập tin bảng tính. Dù các tập tin văn bản mang tính đồng bộ nhưng
khơng được sắp xếp theo cách giúp cho trích xuất dữ liệu số được dễ dàng. Khó khăn cụ thể
này nằm ở phần diện tích rừng trồng mở rộng năm 2011, thông tin chi tiết rừng trồng ở từng
lô được ghi chép trong một tập tin văn bản duy nhất gồm 121 trang, để trích xuất và tổng hợp
dữ liệu số về rừng trồng từ tập tin này phải mất rất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, khơng có dự án ở tỉnh nào có được hệ thống quản lý thơng tin có hiệu quả.
Những khác biệt này làm cho việc phân tích định lượng so sánh về tỷ lệ sống và mức sinh
trưởng rất khó khăn. Vì lý do đó, ảnh vệ tinh và hình ảnh chụp tại hiện trường trước và sau
khi trồng rừng cũng được sử dụng để đánh giá tác động được trung thực hơn nếu như chỉ
dựa vào có mỗi yếu tố là tỷ lệ sống được đo đếm.
5
Kết quả và thành quả
Bạc Liêu
Hoạt động trồng rừng ngập mặn được thực hiện ở xã Vĩnh Trạch Đông, cuối vùng bờ phía
bắc của Bạc Liêu. Vĩnh Trạch Đơng được chọn để thực hiện các hoạt động của dự án dựa
trên kết quả khảo sát rừng ngập mặn dọc theo bờ biển Bạc Liêu (CTU, 2010) và báo cáo
đánh giá các diện tích cần ưu tiên trồng rừng (Clough, 2011).
Có chín địa điểm với tổng diện tích là 27,8 ha rừng đã được trồng, chia thành hai kiểu hình
trồng rừng:
Sáu điểm (Điểm 1 – 5 và 7) với tổng diện tích là 16,5 ha trên các vùng đất gị cao,
khơng cịn rừng ngập mặn hoặc chỉ có cây mọc lưa thưa (Bảng 1). Hầu hết các diện
tích này là các vuông tôm bỏ hoang, bị phù sa lấp đầy qua nhiều năm. Một số điểm đã
được trồng rừng nhưng không thành trong quá trình thực hiện dự án Ngân hàng Thế
Giới CWPDP giữa những năm 2002 và 2006.
Ba điểm (Điểm 6, Điểm 8 và điểm AM-Bags + AM-Wild) với tổng diện tích là 11,3 ha
trên các bãi bồi gian triều thấp dọc theo đoạn vùng bờ biển lở (Bảng 1).
Bảng 1. Tổng hợp tất cả các điểm trồng rừng ở tỉnh Bạc Liêu.
Điểm
Xã
Kiểu lập
địa
Ngày
trồng
Diện
tích
(ha)
Lồi cây
‡
Mật độ
(No / ha)
Vĩ độ
(deg)
Kinh độ
(deg)
Điểm 1
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
15/9/2011
0,7
LR-IB-XM
14.201
9,244551
105,825984
Điểm 2
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
15/7/2012
1,7
LR-IB-XM
14.106
9,233362
105,79864
Điểm 3
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
20/9/2011
3,4
LR-IB-XM
18.477
9,226194
105,784543
Vĩnh Trạch Đông
Mương
15/6/2012
0,5
BC
11.332
9,226194
105,784543
Điểm 4
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
25/7/2012
2,2
LR-IB-XM
20.410
9,228915
105,789799
Điểm 5
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
18/6/2013
4,0
LR-XM-EA
15.319
9,230181
105,792191
Điểm 6
Vĩnh Trạch Đông
Đất thấp 05/6/2013
5,0
AM-SA
22.640
9,228826
105,793926
Điểm 7
Vĩnh Trạch Đông
Đất cao
11/8/2014
4,0
LR
25.100
9,230923
105,79435
Điểm 8
Vĩnh Trạch Đông
Bãi bồi
03/6/2014
2,0
AM
19.300
9,232046
105,801015
AM (Bag) Vĩnh Trạch Đông
Bãi bồi
25/6/2012
2,3
AM
20.250
9,224889
105,78433
AM (Wild) Vĩnh Trạch Đông
Bãi bồi
25/6/2012
2,0
AM
11.600
9,225370
105,785221
Điểm 3
*
Ghi chú
‡ Mấm biển (AM); Dà vôi (CT); Vẹt trụ (BC); Giá (EA); Gõ biển (IB); Cóc trắng (LR); Bần trắng
(SA); Su Mê kơng (XM).
* Cóc, Dà và Đước đã được trồng lần đầu dưới mương tại điểm 3 đều bị chết hết vào năm 2011. Vẹt
trụ được trồng dưới mương tại điểm 3 vào năm 2012.
Vị trí của tất cả các điểm rừng trồng, trừ điểm 1 được thể hiện tại Hình 1.
6
Hình 1. Ảnh vệ tinh (ngày 15/10/2014) thể hiện tất cả các điểm rừng trồng ở Vĩnh Trạch Đông, Bạc
Liêu, ngoại trừ Điểm 1. Các Điểm B2, B3, B4, B5 và B7 hiếm khi được ngập nước, dạng lập
địa gò cao; Điểm B6 là bãi bồi chặt có dạng đất tương đối dẻ cứng; AM Bag và AM Wild được
trồng ở Điểm 4, dạng lập địa bùn mềm, thấp hơn (xem thuyết minh).
Các địa điểm trồng rừng được chọn sau khi tiến hành đánh giá lập địa dựa trên ảnh vệ tinh
năm 2006, kiểm tra hiện trường và thông tin lịch sử hình thành lập địa do cán bộ kiểm lâm
cung cấp.
Trồng rừng trên đất gò cao
Chuẩn bị hiện trường trồng rừng
Tất cả các điểm trồng rừng trên đất gò cao (các điểm từ 1 đến 5 và điểm 7) đều hiếm khi
được ngập do cao trình cao và do có bờ hoặc vật cản khác bao quanh. Cơng việc chuẩn bị
hiện trường là nhằm phục hồi điều kiện ngập triều thường xuyên hơn bằng cách đào một
hoặc hai mương dẫn nước từ các kênh có sẵn ở gần đó. Có hai cách tiếp cận để phân bổ
nguồn nước đã được thử nghiệm ở các điểm trồng rừng như sau:
Cách thứ nhất, áp dụng ở Điểm 1, 2, 3 và 4 là đào các mương song song trên hiện trường,
khoảng 2 – 3 m chiều rộng và 0,5 m chiều sâu, hình thành một chuỗi mương và liếp liền kề
(Hình 2A và 2B).
Cách thứ hai, áp dụng ở Điểm 5 là đào các mương song song khoảng 0,3 m chiều rộng và
0,3 m chiều sâu (Hình 2C và 2D).
Trồng rừng
Trụ mầm của các lồi Mấm biển, Cóc trắng, Đước đơi và Giá được lấy tại Bạc Liêu; Dà vôi,
Vẹt trụ và Su Mê kông được lấy ở Cà Mau; Bần trắng được lấy ở tỉnh Bến Tre; Gõ biển lấy ở
7
Cần Giờ. Ngoại trừ lồi Đước, các lồi cây cịn lại được gieo trong vườn ươm khoảng 12
tháng trước khi mang ra trồng rừng. Có hai kiểu vườn ươm được áp dụng, vườn ươm nổi đặt
ở Vườn chim Bạc Liêu và vườn ươm chìm được đặt ở Vườn sưu tập thực vật rừng ngập
mặn. Cây giống nuôi trong vườn ươm ở Vườn chim được tập cho quen dần với điều kiện của
điểm trồng rừng bằng cách từng bước tưới nước có độ mặn tăng dần trong vài tháng trước
khi mang ra trồng rừng.
Cây giống được trồng trong hố đào đủ rộng để đặt cho vừa bầu đất sau khi đã tháo vỏ bầu
bằng nhựa. Mật độ trồng bình quân khác nhau giữa các điểm, từ 11.000 đến 25.000 cây/ha
(Bảng 1).
B
A
Ảnh: Đặng Công Bửu (29.09.2011)
Ảnh: Barry Clough (27.11.2012)
C
D
Ảnh: Barry Clough (02.07.2012)
Ảnh: Barry Clough (02.07.2012)
Hình 2. Mương và liếp liền kề ở Điểm 4 (A) và Điểm 3 (B). Mương sâu 0,5-0,6 m và rộng 2-3 m. Cả
hai ảnh đều cho thấy hiện trường sau khi trồng rừng. Ảnh A cũng cho thấy mức bồi tụ nhanh
ở các cửa mương sườn, hiện tượng này xuất hiện ở tất cả các điểm áp dụng cách chuẩn bị
mặt bằng theo hình thức này. Ảnh C và D thể hiện các mương sườn cạn dùng để cung cấp
nước ở Điểm 5. Các mương sườn không được ngập mặc dù mương chính có mực nước
cao.
8
Thành quả
Tỷ lệ sống và sinh trưởng
Trong ba loài cây trồng trên bờ liếp, Cóc trắng đạt tỷ lệ sống cao và ổn định nhất, từ 20% ở
Điểm 4 đến 60% ở Điểm 2 sau 40 tháng (Hình 3). Ngoại trừ Điểm 3, nơi Su Mê kơng có tỷ lệ
sống khoảng 60%, cả hai loài Gõ biển và Su Mê kơng đều có tỷ lệ sống thấp hơn nhiều so với
Cóc trắng (Hình 3).
Điểm 2
Điểm 3
Tỷ lệ sống (%)
Điểm 4
Điểm 5
Điểm 7
Chú dẫn
Gõ biển
Cóc trắng
Su sung
Giá
Số tháng sau khi trồng
Hình 3. Tỷ lệ sống của Giá (EA), Gõ biển (IB), Cóc trắng (LR) và Su Mê kơng (XM) trên bờ
líp tại các điểm rừng trồng trên đất gò cao ở tỉnh Bạc Liêu
Cóc trắng chết nhiều trong vài tháng đầu ở Điểm 2, 3 và 4 rất có thể là do bị mất nước trong
khi vận chuyển từ vườn ươm đến điểm trồng rừng mà khơng được che gió và cũng có thể là
do rễ bị hư trong khi tháo bỏ túi bầu trong khi trồng cây. Cây giống Cóc trắng dễ bị mất nước
9
hơn vì nó có nhiều lá hơn hai lồi cây kia (và vì vậy bị mất nhiều nước hơn khi vận chuyển
bằng xe mui trần). Tương tự như vậy, cây giống Cóc trắng có hệ rễ phát triển mạnh hơn
nhiều so với hai lồi cây kia nên có rủi ro bị đứt rễ cao hơn nếu lột vỏ bầu thiếu cẩn thận. Vận
chuyển trong xe có mui và cẩn thận hơn khi trồng cây có thể sẽ cải thiện được tỷ lệ sống ban
đầu của cả ba loài sau khi trồng rừng.
Chiều cao bình quân (cm)
Điểm 2
Điểm 3
Điểm 4
Điểm 5
Điểm 7
Chú dẫn
Gõ biển
Cóc trắng
Su sung
Giá
Số tháng sau khi trồng
Hình 4. Tăng trưởng chiều cao của Giá (EA), Gõ biển (IB), Cóc trắng (LR) và Su Mê
kơng (XM) trên bờ líp tại các các điểm 2, 3, 4, 5 và 7 ở tỉnh Bạc Liêu.
Ngoài thành quả đạt tỷ lệ sống cao nhất, Cóc trắng cịn có tốc độ sinh trưởng (Hình 4) và phát
triển tán (Hình 5) cao hơn nhiều so với hai loài cây kia được trồng trên bờ liếp ở Điểm 2, 3 và
4, nơi có mương sâu và rộng. Tuy nhiên, mức sinh trưởng của tất cả các lồi rất thấp ở Điểm
5 và 7, nơi có mương cạn và hẹp. Cả hai loài Gõ biển và Giá sinh trưởng rất kém ở tất cả các
điểm trồng rừng. Theo kết quả trên, Cóc trắng có vẻ là lồi cây thích hợp nhất đối với những
vùng đất gị cao ở đây, cịn Gõ biển thì có vẻ khơng thích hợp ở nơi gị cao trên dạng đất sét
nặng, dẽ chặt và có độ mặn từ trung bình đến cao.
10
So với Điểm 2, 3 và 4 thì mức sinh trưởng của tất cả các loài ở Điểm 5 là rất thấp, hầu như
không tăng thêm chiều cao sau 5 tháng đầu (Hình 5). Tình trạng này rất có thể là hệ quả của
hai yếu tố kết hợp. Thứ nhất, do mương cạn nên chỉ ngập được khi thủy triều lên cao, và nếu
ngập thì cũng chỉ được ngập trong thời gian ngắn (xem Hình 3). Tốc độ dịng chảy trong các
mương sườn rất thấp, nên vùng cuối nguồn có thể khơng bao giờ được ngập. Ngồi ra,
lượng phù sa tích tụ ở cửa mương sườn dù khơng nhiều nhưng cũng góp phần làm giảm tần
suất và thời gian được ngập nước. Mục đích đào kênh (hay mương) sâu hơn và rộng hơn ở
Điểm 1, 2, 3 và 4, trồng năm 2011 và 2012 là để nước vào đủ thường xuyên, đủ lâu và ngấm
được sang hai bên vào trong mạch đất của bờ liếp, từ đó hình thành nguồn nước mặt bán
thường xuyên. Đây có thể là lời giải đáp chủ yếu cho tốc độ sinh trưởng khá nhanh của cây
trồng ở Điểm 2, 3 và 4 so với ở Điểm 5 và Điểm 7.
A
Ảnh: Bary Clough (27.11.2012)
B
Ảnh: Bary Clough (02.07.2013)
C
Ảnh: Bary Clough (02.07.2013)
D
Ảnh: Phan Văn Hồng (05.11.2012)
Hình 5. Cóc trắng có tán lá phát triển tốt: (A) Điểm 3 sau khi trồng 14 tháng; (B) và (C) Điểm 3 sau
khi trồng 26 tháng; (D) Điểm 4 sau khi trồng 17 tháng.
Thứ hai, sự chênh lệch cao trình giữa mặt bằng trồng rừng [bờ liếp] và đáy mương có tác
11
động đến mức thoát nước bề mặt và rửa được muối trong mùa mưa. Ở Điểm 2, 3 và 4, đất
đào từ dưới mương sâu và rộng được đắp lên mặt liếp. Dù có làm cho bờ nâng lên 30 – 40
cm nhưng cũng tạo được lớp đất mặt tơi xốp, dễ thốt nước (giống như dạng đất trồng cây
nơng nghiệp), làm cho độ mặn trong đất ở Điểm 3 giảm từ 40‰ – 45‰ xuống còn 25‰ –
30‰ trong mùa mưa đầu tiên. Ngược lại, độ mặn trong đất ở độ sâu 5 – 10 cm ở Điểm 5 vẫn
giữ nguyên ở mức cao hơn 35‰ – 40‰. Tuy nhiên các yếu tố cục bộ khác ngoài độ mặn cao
như thành phần và độ chặt của đất hoặc một vài đặc tính lý-hóa khác cũng có thể có liên
quan đến tốc độ sinh trưởng thấp của cây trồng ở Điểm 5 (đặc tính của đất ở Điểm này khơng
được kiểm tra trước khi trồng rừng cũng như trong quá trình quan trắc rừng trồng).
Về bản chất, phương pháp chuẩn bị mặt bằng ở Điểm 5 khơng khác gì phương pháp mà dự
án CWPDP đã áp dụng và kết quả cũng rất giống nhau: sinh trưởng còi cọc và còn rất ít cây
sống sót về lâu về dài. Bằng chứng đó cho thấy rằng kiểu chuẩn bị mặt bằng này có vẻ khơng
có gì hứa hẹn, nhưng để kết luận được như vậy thì cần phải tiến hành quan trắc dài hạn hơn.
Tỷ lệ sống (%)
Chiều cao (cm)
Trồng các loài Đước, Dà vơi, Cóc trắng dưới mương ở Điểm 1 và 3 trong năm 2011 bị thất
bại, chủ yếu là do cây trồng bị phù sa bồi lắng quá nhanh vùi lắp, nhưng cả hai lồi Dà vơi và
Cóc trắng đều khơng thích hợp để trồng dưới mương bị ngập hầu như thường ngày ở độ sâu
30 – 40 cm. Các mương ở Điểm 3 được trồng lại bằng loài Vẹt trụ vào năm 2012 tỷ lệ sống
chỉ đạt 20% sau khi trồng 20 tháng và số cây sống sót có vẻ sinh trưởng kém (Hình 6).
Số tháng sau khi trồng
Số tháng sau khi trồng
Hình 6. Tỷ lệ sống và tăng trưởng (chiều cao) của Vẹt trụ trồng trồng dưới mương tại Điểm 3 năm
2012
Chi phí trồng rừng
Phục hồi điều kiện ngập triều và các điều kiện thủy văn khác để đáp ứng nhu cầu của cây
rừng ngập mặn đã làm tăng đáng kể tổng chi phí cho trồng rừng trên đất gò cao. Ở Điểm 1 và
3 trồng vào năm 2011, chi phí đào mương và cho thao tác chuẩn bị mặt bằng khác chiếm
38% mức tổng chi phí là 6.830 USD (Bảng 2). Dù khơng có được số liệu chi phí chuẩn bị mặt
bằng cho Điểm 2 và 4 trồng vào năm 2012 nhưng chắc là sẽ cao hơn do giá ngày công lao
động tăng lên. Tuy nhiên, chi phí cho vận chuyển cây giống từ vườn ươm đến địa điểm trồng
rừng và chi phí có liên quan đến lao động trồng rừng (tính chung vào khoảng 37% tổng chi
phí trồng rừng) cũng rất cao (Bảng 2). Chi phí vận chuyển và chăm sóc vườn ươm có thể
12
giảm xuống đáng kể nếu áp dụng vườn ươm ngập triều được thiết lập ở gần địa điểm trồng
rừng.
Bảng 2. Chi phí trồng rừng bình qn cho một ha ở Điểm 1 và 3 năm 2011. Tổng số cây giống mang ra
trồng rừng vào khoảng 31.500 cây.
Hạng mục chi phí
VND/ha
USD/ha *
Chuẩn bị mặt bằng (chủ yếu là đào kênh)
57.245.161
2.600
Cây giống (trái giống + gieo ươm)
36.834.677
1.670
Trồng rừng (vận chuyển + công lao động)
56.193.548
2.550
Tổng chi phí
15.273.387
6.830
* Theo tỷ giá 1 USD= 22.000 VND, làm tròn ở hàng chục USD
Trồng rừng trên bãi bồi về phía biển
Có bốn khu rừng trồng thử nghiệm được thực hiện trên bãi bồi về phía biển, được đặt tên là
Điểm 6, Điểm 8 và Bãi bồi 4 trong Bảng 1, vị trí được thể hiện ở Hình 1.
Bãi bồi 4
Hàng rào hình chữ T để ngăn cản sóng và bẫy phù sa được làm bằng cọc tre (Albers, 2012)
trước khi trồng Mấm biển ở điểm Bãi bồi 4 vào tháng 6/2012. Một phần diện tích được trồng
bằng cây con gieo trong vườn ươm 12 tháng, phần còn lại được trồng bằng cây giống tự
nhiên bứng ở gần điểm trồng rừng để thử xem nguồn giống nào có kết quả cao hơn.
Cây giống tự nhiên có tỷ lệ sống cao hơn (63%) cây giống gieo trong vườn ươm (47%) sau
khi trồng 11 tháng. Tuy nhiên, cây giống tự nhiên có tăng trưởng chiều cao kém hơn một ít
(72 cm) so với cây gieo trong vườn ươm (79 cm). Sự chênh lệch này có thể do mật độ trồng
rừng vì cây giống tự nhiên được trồng ở mật độ xấp xỉ bằng phân nửa (11.600 cây/ha) so với
cây gieo trong vườn ươm (20.205 cây/ha).
Dải cồn đất bùn chặt đang hình thành cách hàng rào chữ T khoảng 50 – 100 m về phía biển
và bản thân hàng rào chữ T bị chôn vùi gần hết do phù sa bồi đắp giữa hàng rào và dải cồn
đất (Hình 8). Hiện tượng này cho thấy dải cồn đất đóng vai trị chính trong việc xúc tiến bồi tụ
và bảo vệ rừng trồng. Thể hiện rất rõ ở Hình 1, dải cồn đất hiện nay đang vươn dài từ phía
đơng bắc của Điểm 6 xuống phía tây nam đến điểm Bãi bồi 4 và đã được Mấm tái sinh tự
nhiên che phủ (cũng ở Hình 8). Điểm đặc biệt là dải cồn đất đã dịch chuyển đoạn bờ biển này
vươn ra ngoài khoảng 100 m.
13
Cây giống tự nhiên
Tỷ lệ sống (%)
Tỷ lệ sống (%)
Cây gieo trong vườn
Số tháng sau khi
trồng
Chiều cao (cm)
Chiều cao (cm)
Số tháng sau khi
trồng
Số tháng sau khi
trồng
Số tháng sau khi
trồng
Hình 7. So sánh tỷ lệ sống và tăng trưởng giữa cây giống Mấm biển gieo trong vườn ươm và cây
bứng trong tự nhiên ở điểm Bãi bồi 4
14
Ảnh: Barry Clough (20/03/2012)
Ảnh: Barry Clough (20/03/2012)
Ảnh: Phan Văn Hoàng (08/2014)
Ảnh: Phan Văn Hoàng (31/05/2013)
Ảnh: Barry Clough (01/04/2014)
Ảnh: Barry Clough (01/04/2014)
Hình 8. Điểm bãi bồi 4. (A) và (B) trước khi xây dựng hàng rào chữ T; (C) vừa sau khi làm hàng rào và
trồng rừng; (D) khoảng 10 tháng sau khi trồng rừng; (E) Hàng rào bị chôn vùi gần hết và rừng
trồng (từ ngồi biển nhìn vào) khoảng 2 năm sau khi xây dựng và trồng rừng; (F) rừng Mấm
tái sinh tự nhiên trên dải cồn đất phía ngồi điểm trồng rừng.
Điểm 6
Điểm 6 (Hình 1) là một bãi bồi đã ổn định nằm ở điểm bắt đầu tiếp giáp với đất liền của dải
cồn đất lớn được mơ tả trên đây. Khu vực này có vẻ được ngập ít thường xuyên. Điểm này
được trồng vào năm 2013, chia làm hai khu: một khu trồng Mấm biển thuần lồi, khu cịn lại
15
trồng hỗn giao giữa Mấm biển và Bần trắng, cả hai đều sử dụng cây từ vườn ươm. Bần trắng
thành rừng kém, tỷ lệ sống chỉ đạt 7% sau khi trồng 16 tháng cịn Mấm biển trồng hỗn giao
với nó thì đạt tỷ lệ sống là 55% (Hình 9). Mấm biển trồng thuần lồi có tỷ lệ sống cao hơn
(74%) và tăng trưởng chiều cao mạnh hơn Mấm trồng hỗn giao với Bần (Hình 9). Do hai khu
vực này đều sử dụng chung một nguồn giống và áp dụng cùng một kỹ thuật trồng rừng nên
sự chênh lệch đó chính là do sự khác biệt về đặc tính lập địa ở hai nơi.
Mấm biển thuần loài
Tỷ lệ sống (%)
Tỷ lệ sống (%)
Mấm + Bần
Số tháng sau khi trồng
Chiều cao (cm)
Chiều cao (cm)
Số tháng sau khi trồng
Số tháng sau khi trồng
Số tháng sau khi trồng
Hình 9. Tỷ lệ sống và tăng trưởng chiều cao của Mấm biển và Bần trắng ở Điểm 6. Một khu vực trồng
Mấm thuần loài và khu vực còn lại trồng hỗn giao Mấm và Bần.
Điểm 8
Điểm 8 có diện tích 2 ha, nằm ở gần cuối đoạn tây nam của vạt hàng rào chữ T ban đầu có
chiều dài khoảng 1,4 km (Hình 10). Cây Mấm biển từ trong vườn ươm được mang ra trồng
trên dạng đất bùn mềm, tương đối dẽ, nằm phía trong hàng rào chữ T. Tuy nhiên, dù đã có
hàng rào chữ T nhưng điểm này đã bị xói lở bề mặt rất nghiêm trọng sau khi trồng rừng, tất
cả cây trồng đều bị cuốn trôi sau khi trồng 4 tháng (Bảng 3).
16
Hình 10. Hàng rào chữ T quanh Điểm 8. Đoạn màu đỏ là hàng rào bị chặt phá. Khu vực tô màu xanh lá
cây là Điểm 8.
Bảng 3. Tỷ lệ sống của Mấm biển ở Điểm 8.
Số tháng
Tỷ lệ sống (%)
1
2
3
6
49
36
17
0
Điểm này đang chịu tác động luân phiên giữa xói lở và bồi tụ. Xói lở chiếm ưu thế vào mùa
gió đơng-bắc từ tháng 11 đến tháng 4, khi sóng ven bờ mạnh hơn; bồi tụ diễn ra mạnh vào
mùa gió tây-nam từ tháng 5 đến tháng 10, vào thời điểm năng lượng sóng yếu hơn. Hàng rào
chữ T ở Điểm 8 được xây dựng vào tháng 01/2013 nhưng cho đến cuối tháng 5 bước qua
đầu tháng 6/2014 mới tiến hành trồng rừng do hàng rào bị sóng đánh hư, cần phải sửa chữa
nhiều lần trước khi trồng rừng (Hình 11A, 11B). Dù qua nhiều lần sửa chữa nhưng hàng rào
chữ T vẫn không được tốt lắm lúc trồng rừng vào đầu mùa gió tây nam, vào thời điểm bùn
lỗng bồi tụ diễn ra đáng kể (Hình 11C, 11D). Cụ thể là lớp bó chà phía trên của hàng rào đã
bị mất (Hình 11D), làm cho hàng rào giảm đi tác dụng.
17
Ảnh: Phan Văn Hoàng (31/03/2014)
Ảnh: Phan Văn Hoàng (15/04/2014)
Ảnh: Phú Phúc Nhân (27/05/2014)
Ảnh: Phú Phúc Nhân (27/05/2014)
Hình 11. Xói lở bề mặt nghiêm trọng ở Điểm 8 trong mùa gió đông bắc (A và B) và phù sa bồi tụ ở
Điểm 8 trong mùa gió tây nam (C và D). Tất cả các ảnh cho thấy các bó chà tre và lá dừa
nước nằm phía trên đã mất đi. Ảnh C thể hiện cảnh đang trồng rừng và ảnh D thể hiện rừng
vừa mới trồng ở Điểm 8.
Ảnh 11A và 11B thể hiện rõ mức độ xói mịn bề mặt trong mùa gió đơng bắc; lớp phù sa lỗng
(Hình 11C và 11D) lắng tụ trong mùa gió tây nam đã mất đi, mặt bãi đã bị quét xuống đến nền
đất sét dẽ chặt bên dưới (Hình 11A, 11B).
Độ cao và năng lượng sóng ven bờ phụ thuộc vào tốc độ gió, độ sâu mực nước và và hình
dạng của nền đáy nơng ngồi biển (cao trình đáy) và tác động của sóng ven bờ cịn phụ
thuộc vào hướng sóng và hình dạng đường bờ. Theo thiết kế của Albers (2012), chiều cao
của hàng rào phải xấp xỉ ngang bằng với mốc nước cao trung bình, có nghĩa là chiều cao của
hàng rào phía trên bãi phù sa phụ thuộc vào cao trình bề mặt của địa điểm. Tuy nhiên, chi tiết
này dựa trên mơ hình tốn và kinh nghiệm ở tỉnh Sóc Trăng láng giềng; dù chưa biết chiều
cao và năng lượng sóng tại Điểm 8 ở Bạc Liêu có bằng với ở Sóc Trăng hay khơng, cao trình
bề mặt của vị trí hàng rào chữ T tại Điểm 8 cũng khơng được đo đạc. Có thể vì vậy mà hàng
rào chữ T này có chiều cao chưa đủ sức để có tác dụng trong mùa gió đơng bắc.
Lớp bó chà tre và lá dừa nước buộc phía trên giữa hai hàng trụ đứng của cánh hàng rào song
song bờ biển bị mất đi (HÌnh 11A, 11B) cũng có thể làm cho hàng rào giảm tác dụng về mặt
chiều cao. Có vài đoạn của cánh hàng rào thẳng góc bờ biển bị mất hết các bó chà làm cho
hàng rào mất tác dụng giữ phù sa hoặc ngăn cản sóng biển. Tuy nhiên, chưa biết liệu làm bó
chà bằng vật liệu khác hoặc buộc chúng bằng cách nào đó tốt hơn thì có thể tránh được thất
thốt hoặc giảm u cầu sửa chữa hay không.
18
Gần đây, Viện sinh thái và bảo vệ cơng trình đang thử nghiệm kiểu hàng rào khác thiết kế
theo hình chữ ‘U’, thay vì chữ ‘T’, dùng cây giống Mấm to hơn (lớn tuổi hơn), có 3 cọc tre làm
giá đỡ ở Điểm 8 (Hình 12). Tuy nhiên, có vẻ như kiểu hàng rào mới này cũng chưa có tác
dụng ngăn ngừa được xói mịn bề mặt diễn ra trong mùa gió đơng bắc (Hình 12).
A
B
Ảnh: Phan Van Hồng (02.11.2015)
Ảnh: Phan Van Hồng (22.09.2015)
Hình 12. Phù sa bồi tụ và xói mịn bề mặt bên trong hàng rào giữ phù sa hình chữ ‘U’ ở Điểm 8: (A)
Phù sa bồi tụ trong mùa gió tây nam (phần cịn lại quanh cây Mấm bị phơi rễ ở tiền cảnh); (B)
Xói mịn bề mặt trong mùa gió đơng bắc.
Bài học kinh nghiệm ở Bạc Liêu
Các điểm ngập triều cao
Nhiều mặt bằng cao, bằng phẳng (chẳng hạn như vng tơm cũ) có thể khôi phục
rừng sau khi chuẩn bị mặt bằng nhằm phục hồi điều kiện thủy văn (cấp, thoát nước tốt
hơn). Ở một số nơi có thể cần phải san lấp bờ bao và chướng ngại vật khác để cho
thủy triều ra, vào; nơi khác có thể cần phải đào thêm mương và cơng trình khác ở hiện
trường để cải thiện điều kiện cấp, thốt nước.
Số lượng, kích thước và cách bố trí mương sườn tùy thuộc vào cao trình và địa hình
của điểm trồng rừng. Nhìn chung, mương cần phải sâu ít nhất là 0,5 m và rộng ít nhất
là 2 m. Mương nhỏ hơn và cạn hơn không có hiệu quả ở Bạc Liêu.
Khơng nên trồng rừng dưới mương trong năm đầu tiên do phù sa bồi lắng nhanh sẽ
vùi lấp cây con.
Cóc trắng trồng trên đất cao thích hợp hơn Gõ biển và Su sung, rất có khả năng là
nhờ hệ thống rễ của nó phát triển rộng hơn và sâu hơn.
Phương pháp chuẩn bị mặt bằng áp dụng ở Bạc Liêu làm cho mặt đất tơi xốp hơn (ít
bị dẽ chặt hơn) để trồng cây, tạo điều kiện cho hệ rễ phát triển, nước mưa thấm sâu
xuống và rửa được mặn.
19
Các bãi bồi ngập triều thấp ven bìa rừng ra phía biển
Khơng có bằng chứng nào ở Bạc Liêu cho thấy được hàng rào chữ T hay rào chắn
nhân tạo nào khác có hiệu quả cải thiện tính ổn định của đất bãi bồi giúp cho trồng
rừng hoặc bảo vệ cây trồng trước tác động của sóng biển trong mùa gió đơng bắc.
Trồng rừng trên bãi bồi về phía biển chỉ thành công khi rừng trồng được bảo vệ bởi dải
cồn đất cao và chặt.
Hàng rào chữ T có độ bền khơng cao. Kiểu thiết kế, vật liệu và kỹ thuật xây lắp hiện
nay chưa phù hợp.
20
Kiên Giang
Rừng ngập mặn được trồng ở ba điểm: Vàm Rầy thuộc huyện Hòn Đất, Thứ Năm thuộc
huyện An Biên và Xẻo Bần thuộc huyện An Minh (Bảng 3)
Bảng 4. Chi tiết rừng trồng ở Kiên Giang.
Huyện
Vĩ độ
(UTM m N)
Xã
Kinh độ
Lồi cây
‡ Diện tích
Ngày trồng
(UTM m E)
trồng (ha)
trồng
*
Mật độ
(Cây/ha)
Hịn Đất
Vàm Rầy
1127378
478293
01-10-2010
3.0
AA, RA
An Biên
Thứ Năm
1091227
497093
01-05-2013
0.5
AA
10,000
An Minh
Xẻo Bần
1086953
487778
01-01-2014
4.0
AA
2,500
N/A
Ghi chú:
‡ Ngày trồng rừng được hiểu chính xác là tháng, ngày 01 chỉ ghi tượng trưng cho máy tính
nhận diện.
* AA (Mấm trắng) và RA (Đước đơi) được trồng ở khu vực bị xói lở. Các lồi khác (Cóc trắng,
Dà vơi, Su Mê kơng) được trồng gần bờ đê, nhưng các lồi này khơng được quan trắc.
Theo nhật ký thủy triều do các cơ quan ở Kiên Giang cung cấp, tất cả các điểm được chọn ở
Kiên Giang đều thuộc chế độ vi nhật triều, với biên độ triều bình quân thấp hơn 1 m. Do đó,
tất cả các điểm rừng trồng đều nằm trên bãi bồi có cao độ ngang bằng hoặc thấp hơn mực
nước biển trung bình. Các yếu tố cao trình thấp, biên độ triều nhỏ cộng hưởng với tầm vươn
ra biển vừa xa vừa dốc thoải làm hạn chế số loài cây được chọn để trồng rừng, hạn chế chiều
ngang của diện tích có thể trồng rừng và nhất thiết phải có chiến lược trồng rừng cẩn thận thì
cơng cuộc khơi phục rừng mới có kết quả.
Vàm Rầy
Cao trình so với mực nước biển trung bình (m)
Điểm trồng rừng ở Vàm Rầy thấp hơn mực nước biển trung bình (MSR), cao trình biến động
từ ngang bằng với MSL tới thấp hơn MSL -0,2m ở vị trí cách bờ đê 45m về phía biển, ra xa
hơn nữa là thấp hơn MSL -0,6m ở vị trí cách bờ đê 60m (Hình 10). Tuy nhiên, phù sa lắng tụ
sau khi đặt hàng rào chắn sóng và hàng rào giữ bùn đã nâng mặt bằng lên cao hơn, đặc biệt
là ở gần bờ đê. Điểm này chịu tác động của sóng có chiều cao 2 - 2,5m trong mùa mưa với
gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11 (Cường và đồng sự, 2015)
Khoảng cách ven bờ
Thử
nghiệm
Đối
chứng
Rừng
Đê
Hình 13. Địa hình của bãi bồi ở Vàm Rầy (theo Cường và đồng sự, 2015)
21
Chuẩn bị mặt bằng và trồng rừng
Trước khi có dự án can thiệp vào năm 2009, đai rừng ngập mặn ở Vàm Rầy bị phá vỡ rất
nặng, nhiều đoạn đê trực tiếp hứng chịu sóng biển (Hình 14A). Hàng rào chắn sóng dài 500
m được làm bằng cừ tràm và chà nhánh, cách bờ đê khoảng 60 m về phía biển, một số mê
bồ giữ phù sa đơn giản hơn, nhỏ hơn, với nhiều thiết kế khác nhau được đặt gần bờ (Hình
14B). Thiết kế của các hàng rào này được Cường và đồng sự (2015) mô tả chi tiết, hình minh
họa được thể hiện ở các Hình 15A và 15B bên cạnh ảnh chụp hàng rào vào tháng 5/2013
(Hình 15 C) và tháng 9/2015 (Hình 15D). Hầu hết cọc đứng của hàng rào vẫn còn nguyên cho
đến tháng 9/2015 nhưng nhiều chà nhánh nhỏ hơn thì khơng cịn nữa (Hình 15D).
A. 24.01.2007
B. 31.12.2014
Hình 14. Ảnh vệ tinh chụp điểm Vàm Rầy: (A) ngày 24/01/2007, trước khi có dự án, cho thấy
bìa rừng bị phá vỡ và sóng ven bờ đã chạm tới đê. (B) ngày 31/12/2014, cho thấy vị
trí của hàng rào chắn sóng và rừng loang lổ đã được khép kín.
22