Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Bài giảng
2005 – 2006 Quản lý nền kinh tế mở
Châu Văn Thành
1
Ghi chú bài giảng
QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ MỞ
(Mô hình Corden/Australian)
Mô hình Corden
1
/Australian hay còn gọi là mô hình EB-IB
2
, là một mô hình kinh tế vó mô được sử
dụng rất phổ biến nhằm giải thích và giúp đưa ra các chính sách kinh tế giải quyết các trục trặc
thường xảy ra ở các nước đang phát triển - các nước được xem là có đặc điểm của một nền kinh tế
nhỏ và mở cửa. Nguồn gốc của mô hình này trước đây xuất hiện cùng với căn bệnh có tên gọi là
căn bệnh Hà lan (Dutch Disease). Trong chương học này, chúng ta sẽ nghiên cứu về việc xây dựng
mô hình; tiếp theo là việc vận dụng các chính sách điều chỉnh hay ổn đònh hoá nền kinh tế và sau
cùng là ứng dụng mô hình nhằm giải thích về trục trặc của căn bênh Hà lan. Trước tiên, chúng ta
hãy nghiên cứu về mặt kỹ thuật hay việc xây dựng mô hình này như thế nào.
I. Xây dựng Mô hình:
1. Hai loại hàng hoá:
Giả sử tất cả các loại hàng hoá và dòch vụ của nền kinh tế được chia thành hai loại: Hàng có thể
ngoại thương hay hàng ngoại thương (Tradeable goods, ký hiệu là T) và hàng không thể ngoại
thương hay hàng phi ngoại thương (Non-tradeable goods, ký hiệu là N). Hàng ngoại thương là hàng
hoá và dòch vụ mà chúng có thể được mua bán trao đổi giữa các quốc gia và giá cả của chúng được
xác đònh bởi cung và cầu của thò trường thế giới. Hàng phi ngoại thương là những hàng hoá và dòch
vụ chỉ có thể tiêu thụ được trong nội bộ nền kinh tế, chúng không thể xuất khẩu hoặc nhập khẩu
được và giá của loại hàng này được xác đònh bởi giá cả trong nước.
Trong thực tế rất khó phân biệt một cách chính xác hàng hoá và dòch vụ nào thuộc hàng ngoại
thương hay hàng phi ngoại thương. Do vậy, cách phân loại này nên được hiểu về tính chính xác một
cách tương đối. Theo cách phân loại phổ biến nhất và được sử dụng ở hầu hết các nước là cách
phân loại theo tiêu chuẩn công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (SIC – The Standard Industrial
Classification). Theo SIC, hàng hoá và dòch vụ được chia thành chín nhóm ngành chủ yếu sau:
1. Nông nghiệp, săn bắn, lâm nghiệp và đánh cá
2. Khai thác mỏ và khai thác đá
3. Sản xuất chế biến
4. Điện, nước và khí đốt
5. Xây dựng
6. Mua bán sỉ và lẻ, nhà hàng và khách sạn
7. Giao thông, kho bãi và thông tin
8. Tài chính, bảo hiểm, nhà đất và các dòch vụ kinh doanh
9. Các dòch vụ cá nhân, cộng đồng và xã hội
1
Corden là tên của tác giả người c viết ra mô hình này.
2
EB là chữ viết tắt của External Balance hay cân bằng bên ngoài và IB là chữ viết tắt của Internal balance
hay cân bằng bên trong.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Bài giảng
2005 – 2006 Quản lý nền kinh tế mở
Châu Văn Thành
2
Một cách tổng quát, ba nhóm đầu có thể được xem là hàng ngoại thương, sáu nhóm còn lại có thể
xem là hàng phi ngoại thương. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Theo nguyên tắc, có
hai nhân tố quyết đònh tính ngoại thương hay phi ngoại thương của hàng hoá. Thứ nhất là chi phí
vận chuyển. Loại hàng nào có chi phí vận chuyển càng thấp trong toàn bộ chi phí sản xuất thì càng
dễ dàng trao đổi ngoại thương. Thứ hai là hàng rào bảo hộ mậu dòch như là thuế nhập khẩu hay hạn
ngạch. Hàng rào bảo hộ mậu dòch càng cao thì tính ngoại thương của hàng hoá càng thấp. Ngày
nay, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng được áp dụng rộng khắp và nhanh chóng hơn cũng
như tiến trình hoà nhập và toàn cầu hoá mạnh mẽ hơn thì giao dòch ngoại thương trên phạm vi toàn
thế giới càng được thúc đẩy nhiều hơn.
2. Cân bằng bên trong và Cân bằng bên ngoài:
Hình 1:
N
PPF
N
1 (1)
CIC
P
T
/P
N
T
1
Y
1
=A
1
T
Hình 1 cho thấy giao điểm của hai đường giới hạn khả năng sản xuất PPF (Production Possibility
Frontier) và đường đẳng ích của cộng đồng CIC (Community Indifference Curve) là điểm cân bằng
của mô hình. Tại đây nền kinh tế sản xuất và tiêu thụ T
1
hàng có thể ngoại thương được và N
1
hàng
không thể ngoại thương được. Nói một cách khác, đây là điểm mà mức tiêu dùng (phiá cầu) và sản
xuất (phiá cung) bằng nhau đối với cả hai loại hàng. Điểm này còn được gọi là điểm cân bằng bên
trong và cân bằng bên ngoài
3
. Cân bằng bên trong được hiểu là cân bằng của cầu hàng phi ngoại
thương và cung hàng phi ngoại thương (D
N
= S
N
) và cân bằng bên ngoài là trạng thái cung hàng
ngoại thương bằng cầu hàng ngoại thương (S
T
= D
T
). Hay ta có cán cân thương mại còn gọi là cán
cân ngoại thương (Trade balance, TB) bằng không (TB = 0 ).
Cán cân ngoại thương (TB) được đònh nghóa là chênh lệch của xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M). Ta
có :
3
Cân bằng bên trong còn được đònh nghiã theo Kinh tế học vó mô là tình trạng nền kinh tế đạt mức sản lượng
tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp ở mức thất nghiệp tự nhiên (xem thêm khái niệm về NAIRU của lạm phát).
Căn bằng bên ngoài là cân bằng của cả cán cân vãng lai và cán cân vốn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Bài giảng
2005 – 2006 Quản lý nền kinh tế mở
Châu Văn Thành
3
TB = X – M
Trong đó, xuất khẩu X được đònh nghóa là thặng dư cung so với cầu hàng ngoại thương và nhập
khẩu M là số dư của cầu so với cung của hàng ngoại thương. Như vậy:
TB = (Giá trò cung X – Giá trò cầu X) – (Giá trò cầu M – Giá trò cung M)
TB = (Giá trò cung X + Giá trò cung M) – (Giá trò cầu X + Giá trò cầu M)
TB = (Giá trò cung hàng có thể ngoại thương) – (Giá trò cầu hàng có thể ngoại thương)
Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng, mức sản xuất bằng với mức tiệu thụ hàng ngoại thương hay
TB = 0. Lúc này, ta cũng có tổng sản phẩm của nền kinh tế (Y) (trong trường hợp này có thể sử
dụng chỉ tiêu GDP) bằng với tổng chi tiêu hay tổng hấp thu của nền kinh tế (A).
Y = C + I + G + X – M
Với A = C + I + G
C và I là tiêu dùng và đầu tư của khu vực tư nhân, G là tiêu dùng và đầu tư của khu vực chính phủ.
Suy ra:
A = Y + (M – X)
Nền kinh tế cân bằng khi:
Y = A
Giá tương đối của hai loại hàng hoá P
T
/P
N
thực chất là số đo của tỷ giá hối đoái thực
4
(RER = NER
* P
*
/P) bởi vì giá của hàng ngoại thương P
T
tính theo nội tệ dựa trên giá hàng hoá này trên thế giới
P* nhân với tỷ giá danh nghiã NER, giá trong nước P cũng chính là giá của hàng hoá phi ngoại
thương P
N
. Nếu P
T
/P
N
tăng, tức đường biểu diễn của P
T
/P
N
trở nên dốc hơn, hàng ngoại thương trở
nên mắc hơn một cách tương đối so với hàng phi ngoại thương. Khi đó sản xuất sẽ có xu hướng di
chuyển dọc theo đường PPF về phía hàng ngoại thương. Và tiêu dùng thì ngược lại, về phía hàng
phi ngoại thương.
Tóm lại khi nghiên cứu mô hình này, chúng ta cần làm rõ các vấn đề căn bản và quan trọng sau:
• Thứ nhất, cân bằng kinh tế vó mô của mô hình được hiểu là cân bằng giữa cung và cầu đồng
thời của cả hai thò trường, cân bằng thò trường hàng ngoại thương hay còn gọi là cân bằng bên
ngoài và cân bằng thò trường hàng phi ngoại thương hay cân bằng bên trong.
• Thứ hai, để đạt được trạng thái cân bằng thứ nhất thì Y phải bằng với A và cả hai thò trường đều
đạt trạng thái cân bằng ở mức tỷ giá hối đoái thực hay mức P
T
/P
N
.
4
Tỷ giá hối đoái thực cân bằng là giá trò tương ứng với cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài trong trung
hạn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Bài giảng
2005 – 2006 Quản lý nền kinh tế mở
Châu Văn Thành
4
• Cuối cùng là các chính sách có thể được sử dụng để giải thích và điều chỉnh nhằm đưa mô hình
về trạng thái cân bằng đó là chính sách tỷ giá hối đoái (điều chỉnh tỷ giá hoái đoái danh nghóa
nhằm thay đổi P
T
/P
N
) và chính sách làm thay đổi hấp thu như chính sách thu chi ngân sách và
chính sách tiền tệ.
3. Phân tích cân bằng:
Điểm cân bằng trong hình vẽ 1 có thể được phát triển thành cân bằng trong từng thò trường hàng
ngoại thương và hàng phi ngoại thương. Đối với thò trường hàng ngoại thương ta đặt trục hoành là
hàng ngoại thương (T) và trục tung là tỷ giá hối đoái thực hay giá tương đối của hai loại hàng hoá
(P
T
/P
N
). Tương tự cho thò trường hàng phi ngoại thương, trục hoành là hàng phi ngoại thương và trục
tung là P
T
/P
N
(xem hình 2)
Ở thò trường hàng ngoại thương, đường cung S
T
có độ dốc đi lên và đường cầu D
T
có độ dốc đi
xuống trong toạ độ (T, P
T
/P
N
) là hoàn toàn phù hợp với mối quan hệ cung cầu. Khi giá tương đối
của hai loại hàng hoá P
T
/P
N
tăng lên, lượng cung hàng ngoại thương có xu hướng tăng và lượng cầu
hàng ngoại thương giảm đi và ngược lại. Đối với thò trường hàng phi ngoại thương, một cách bình
thường ta nên đặt trục tung là P
N
/P
T
thì đường cung và cầu sẽ có hình dáng của độ dốc đúng theo
các hình vẽ cung cầu bình thường. Tuy nhiên, do mục đích kết hợp cả hai thò trường lại với nhau,
nên ở thò trường này trục tung bò đảo lại thành P
T
/P
N
, do vậy đường cung và cầu có hình dạng
nghòch lại.
Hình 2:
P
T
/P
N
S
T
P
T
/P
N
D
N
(1) (1)
P
T
/P
N
D
T
S
N
T
1
T N
1
N
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Bài giảng
2005 – 2006 Quản lý nền kinh tế mở
Châu Văn Thành
5
Chính sách phá giá và cân bằng của mô hình:
Hình 3a:
N
PPF
N
1 (1)
CIC
P
T
/P
N
T
1
Y
1
=A
1
T
Hình 3b:
P
T
/P
N
S
T
P
T
/P
N
D
N
Phá giá
Nâng giá
D
T
S
N
T
1
T N
1
N
Một chính sách phá giá sẽ làm NER tăng lên về số đo, nếu hai mức giá P* và P là cho trước thì tỷ
giá hối đoái thực RER sẽ tăng, hay P
T
/P
N
tăng lên. Trên đồ thò của đường giới hạn khả năng sản
xuất, đường P
T
/P
N
trở nên dốc đứng hơn. Điểm sản xuất tiến dần về phiá hàng T và điểm tiêu dùng
thì lại trượt về phiá hàng N. Thể hiện trên hình vẽ là sự gia tăng lên của P
T
/P
N
. Kết quả là, ở thò
trường hàng ngoại thương giá tương đối của hàng ngoại thương tăng lên khuyến khích lượng cung
tăng và lượng cầu giảm (S
T
>D
T
), nền kinh tế có nhiều hàng trao đổi ngoại thương hơn, TB sẽ được
cải thiện hay thặng dư. Ở thò trường hàng phi ngoại thương, khi mức giá tương đối tăng lên có nghiã
Phá giá sẽ làm
đường giá trở nên
dốc hơn