ĐẶC ĐIỂM NGỘ ĐỘC PARAQUAT Ở TRẺ EM
TÓM TẮT
Nghiên cứu hồi cứu mô tả 41 trẻ ngộ độc paraquat nhập Khoa Cấp cứu Bệnh
viện Nhi Đồng 1 từ 01/01/1998 đến 31/12/2007.
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm về dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả
điều trị ngộ độc paraquat ở trẻ nhập Khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ
năm 1998 đến năm 2007
Phương pháp: hồi cứu mô tả
Kết quả: Trong lô nghiên cứu này có đến 78% trẻ từ 12 đến 15 tuổi, phân bố
như nhau ở 2 giới nam nữ, nguyên nhân 86,1% tự tử do bị cha mẹ la. Triệu
chứng lâm sàng ngộ độc paraquat thường gặp nhất là triệu chứng tiêu hóa,
tuy nhiên tiên lượng nặng khi bệnh nhân có tổn thương thận, tổn thương gan,
tổn thương hô hấp và số lượng cơ quan bị tổn thương nhiều. Các xét nghiệm
giúp đánh giá tiên lượng bệnh bao gồm: số lượng bạch cầu, Hct, ion đồ
máu, ure máu, creatinine máu, SGOT, SGPT, khí máu động mạch, paraquat
niệu (paraquat test kit) và X quang phổi. Các biện pháp điều trị tại Bệnh viện
Nhi Đồng 1 bao gồm: rửa dạ dày, dùng Fuller’s Earth, hỗ trợ hô hấp, lọc
máu hay thay máu, dùng kháng sinh, corticoides và truyền dịch. Tỉ lệ tử
vong là 61%, chủ yếu do suy hô hấp.
Kết luận: Đa số trẻ ngộ độc paraquat là do tự tử. Tiên lượng nặng khi có tổn
thương đa cơ quan. Tỉ lệ tử vong là 61%, chủ yếu do suy hô hấp.
ABSTRACT
Backgroud: This was a retrospective study for 41 children admitted at
Emergency Department of Children Hospital N
0
1 from 1
st
January 1998 to
31
st
December 2007.
Objectives: To describe the epidemiologic, clinical and laboratory
characteristics and outcomes of paraquat poisoning therapy in Emergency
Department of Children Hospital N
0
1.
Method: A retrospective – observational study.
Result: There were 78% of children aged from 12 to 15 years old and similar
ratio between boys and girls, 86.1% were the suicide because of parents’
scold. The most common symptoms of paraquat poisoning was in the
gastrointestinal system. However, poor prognostics related to renal, hepatic,
repiratory system and multiple organ dysfunctions. The prognosticable tests
included white blood cell count, Hct, blood electrolytes, blood urea, blood
creatinine, SGOT, SGPT, arterial blood gases, qualitative of paraquat in
urine (paraquat test kit) and chest X-ray. The therapeutic methods of
paraquat poisoning comprised gastric lavage, Fuller’s Earth, respiratory
support, plasma exchange therapy or exchange transfusion, antibiotics,
corticoides and intravenous fluids. The mortality was 61%, mainly due to
respiratory failure.
Conclusion: Suicide was the most common reason in paraquat poisoning.
Poor prognostics related to renal, hepatic, repiratory system and multiple
organ dysfunctions. The mortality was 61%, mainly due to respiratory
failure.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Paraquat là loại thuốc diệt cỏ được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, khi bị
ngộ độc sẽ có tỉ lệ tử vong cao (60 – 80%), việc điều trị hầu như đều thất
bại
.(Error! Reference source not found.)
Trên thế giới, tình hình ngộ độc paraquat do tự tử
và tử vong do ngộ độc paraquat đang gia tăng ở các nước đang phát triển, vì
các lý do: độc tính cao, không có chất đối kháng, dễ mua và rẻ tiền. Tại miền
Đông Nam Bộ nước ta, paraquat đang được sử dụng rộng rãi, tình hình ngộ độc
paraquat cũng đang gia tăng, tỷ lệ tử vong hay di chứng còn rất cao và khó dự
đoán
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Đó là lý do chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu này. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá các
đặc điểm về dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ngộ độc
paraquat ở trẻ nhập Khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ năm 1998 đến
năm 2007.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả trẻ ngộ độc paraquat nhập Khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong
10 năm 1998-2007, có các tiêu chuẩn sau:
- Người nhà có mang đến phòng cấp cứu BV Nhi Đồng 1 chai thuốc diệt cỏ
(tên thương mại Gramoxone 20%), hoặc:
- Paraquat test kit nước tiểu (+) và bệnh sử, triệu chứng lâm sàng nghi ngờ ngộ
độc Paraquat. Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu mô tả hàng loạt ca, xử lý số
liệu bằng phần mềm Windows Microsoft Office Excel 2003.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tễ học
Tuổi, giới tính, địa chỉ: trẻ ngộ độc paraquat từ 12 đến 15 tuổi chiếm 78%, tuổi
trung bình 12,4 3,3 tuổi, hai giới nam và nữ tương đương nhau. Tỉ lệ ngộ độc
paraquat ở miền Đông Nam Bộ là 53,6%, miền Tây Nam Bộ 21,9%, Tây
Nguyên 17%, miền Nam Trung Bộ 7,3%.
Nguyên nhân ngộ độc paraquat
87,8% tự tử, 9,7% bị mẹ ruột đầu độc, 2,5% uống nhầm. Các nguyên nhân tự
tử bao gồm trẻ bị gia đình la; nguyên nhân xã hội bao gồm: bán vé số bị mất,
làm bể thùng nước nhà hàng xóm, bị hiếp dâm, sợ bị đánh; nguyên nhân nhà
trường do trẻ làm kiểm tra bị điểm thấp và bị cô giáo la.
Triệu chứng lâm sàng
Tất cả các trẻ ngộ độc paraquat trong nghiên cứu của chúng tôi đều ngộ độc
qua đường tiêu hóa.
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng
Cơ
quan
Số ca
%
Triệu
chứng
Thời gian
xuất hiện
triệu chứng
(giờ)-N
(ngày)
Số
ca
Loét miệng 73,5 (N3-
N4)
31
Nôn ói 30,5 (N1-
N2)
22
Xuất huyết
tiêu hóa
78 (N3-N4) 4
Rộp lưỡi 24 (N1) 1
Tiêu
hóa
35/41
(85,3)
Đau bụng 62,4 (N2-
N3)
5
Thiểu
niệu/vô niệu
92,8 (N3-
N4)
15
Tiểu máu 57 (N2-N3) 8
Thận
24/41
(58,5)
Phù 96 (N4) 1
Hô hấp Suy hô hấp 60 (N2-N3) 24