Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Nhà Nguyễn với vấn đề độc lập dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.48 KB, 77 trang )

MỤC LỤC

PHẦN 1: NHÀ NGUYỄN VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ CỦNG CỐ NỀN ĐỘC LẬP
DÂN TỘC TỪ 1802 ĐẾN 1858
1.1.

Quan điểm về vấn đề độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc luôn là một trong những vấn đề cốt lõi và quan tr ọng nh ất

đối với một quốc gia, một dân tộc. Để hiểu rõ hơn về vấn đề độc lập dân tộc,
trước hết, chúng ta cần hiểu đúng về khái niệm độc lập. Độc lập khi g ắn v ới
một quốc gia dân tộc, thường được hiểu là “trạng thái của một nước hoặc một
dân tộc có chủ quyền về chính trị, khơng phụ thu ộc vào n ước khác ho ặc dân t ộc
khác”1, tức là quyền tự chủ về mặt chính trị, khơng bị can thi ệp b ởi một ch ủ th ể
bên ngoài khác. Hay ta có thể hiểu theo một cách khác, m ở r ộng h ơn, đ ộc l ập
chính là quyền bất khả xâm phạm của một quốc gia, một dân tộc trên các m ặt
lãnh thổ, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Từ cách hiểu đó về độc lập dân tộc, chúng ta có th ể th ấy được m ột s ố n ội
dung cụ thể của khái niệm này. Trước hết độc lập dân tộc được bi ểu hiện ở việc
một quốc gia có chủ quyền về lãnh thổ của mình, tức là sự tồn v ẹn lãnh th ổ,
thứ hai là sự tự chủ trong thực hiện các chức năng đ ối n ội và đ ối ngo ại, và cu ối
cùng là một quốc gia, dân tộc độc lập khi khơng có sự chi ếm đóng c ủa n ước
ngồi trên lãnh thổ nước mình. Như vậy với những nội dung đó, chúng ra sẽ làm
cơ sở để tiếp cận với vấn đề Nhà Nguyễn với độc lập của dân tộc trong kho ảng
thời gian từ năm 1802 đến năm 1884, tức là trong khoảng th ời gian Nhà Nguy ễn
đóng vai trị là lãnh đạo đất nước.
Như vậy với ba biểu hiện của khái niệm “độc lập dân t ộc”: Toàn v ẹn lãnh
thổ, tự chủ trong việc thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại, khơng có s ự
chiếm đóng của nước ngồi trên lãnh thổ, chúng tơi sẽ xem xét thái đ ộ và quan
điểm của một số vị vua đầu triều Nguyễn về các nội dung này dựa trên m ột s ố
tư liệu có được. Từ đó chúng tôi sẽ làm nền tảng đ ể đi sâu h ơn vào nh ững chính


1 Hồng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng

1


sách, biện pháp mà nhà Nguyễn đã thực hiện nhằm bảo vệ n ền độc l ập của dân
tộc trong khoảng thời gian đã được đề cập ở trên.
1.1.1. Toàn vẹn lãnh thổ
Lãnh thổ là một trong những dấu hiệu quan tr ọng về mặt hình th ức c ủa
một quốc gia. Nói như thế, khơng phải là chúng ta không xem tr ọng v ấn đ ề này
đối với một quốc gia, dân tộc. Phạm vi của lãnh thổ chính là một trong nh ững
yếu tố tạo nên ảnh hưởng và quyền lực của một quốc gia. Lãnh thổ càng rộng
thì khả năng tạo ra sức mạnh bên trong của một quốc gia càng l ớn. Chính vì lẽ
đó, trong lịch sử của nước ta, mỗi khi một triều đại nào được thi ết lập thì v ấn
đề bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ ln được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Đối v ới
triều đình nhà Nguyễn cũng thế, sau khi thống nhất toàn vẹn lãnh th ổ “hoàn
chỉnh từ Nam Quan đến Cà Mau” 2, trên những cơ sở được Nguyễn Huệ chuẩn bị
từ trước đó, triều đình Nguyễn Ánh đã có nhiều chỉ dụ, quy định về việc bảo vệ
lãnh thổ, cụ thể là việc bảo vệ biên giới phía Bắc, Tây Nam và chủ quy ền đ ối v ới
biển đảo. Theo như nhận xét của cố giáo sư Trần Văn Giàu: “Về phương diện
lãnh thổ quốc gia, so sánh với tất cả các triều đại trước thì dưới tri ều Nguy ễn,
nước Việt Nam rộng lớn hơn hết”3. Chính vì lẽ đó ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ đã được các vua triều đại này nhận thức rõ và có nhi ều chính sách đ ể th ực
thi.
Phần biên giới phía Bắc luôn được các vua nhà Nguy ễn đặc bi ệt coi tr ọng,
vì đây là phần lãnh thổ tiếp giáp với Trung Quốc, đồng thời đây cũng là vùng đ ất
mở để bọn chống đối chính quyền hoặc trộm cướp của nhà Thanh tràn sang trú
ẩn. Ngay từ đầu, Nguyễn Ánh đã cho xây dựng ở khu vực này nhi ều b ảo tr ấn đ ể
bảo vệ lãnh thổ. Một mặt các vua nhà Nguyễn tỏ ra thần phục “thiên tri ều” đ ể
tạo ra khơng khí ơn hịa với triều đình Mãn Thanh, m ột m ặt nh ững v ị vua này

cũng có một thái độ độc lập, tự chủ riêng, và tự coi mình ngang hàng v ới nh ững
vị vua Trung Hoa. Sang thời Minh Mạng tình hình bang giao giữa hai n ước v ẫn
tốt đẹp, khu vực biên giới vẫn ổn định. Mãi đến năm 1830, một đội quân hơn
2 Trần Văn Giàu, “Vài nhận xét về thời nhà Nguyễn”, Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, Kỷ yếu hội
nghị, Nxb.Khoa học xã hội, Tp.HCM, Tr.281
3 Trần Văn Giàu, sđd, Tr.281

2


600 người của Trung Hoa sang đòi vùng Phong Thu (Hưng Hóa) cho h ọ. B ằng
con đường ngoại giao mềm dẻo, đồng thời cho lực l ượng quân s ự tới H ưng Hóa
để trấn giữ, vua Minh Mạng đã giải quyết biến cố này một cách ổn th ỏa. Tri ều
Thanh đã chủ động đề nghị với Minh Mạng th ỏa thuận thơng qua ph ương pháp
hịa bình. Vào những năm sau đó, những cuộc phá nhiễu và s ự xâm phạm trái
phép ở vùng biên giới đất liền hoặc hải phận Việt Nam, vua Minh M ạng đ ều
theo cách của vua Gia Long: dẫn bọn phạm pháp ấy về nước Trung Hoa để họ tự
giải quyết. Quan hệ Việt Nam với Trung Hoa nửa đầu thế kỷ XIX khá tốt đẹp.
Đối với phần biên giới phía Nam, do những biến đ ộng trong khu v ực nh ững
năm nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cương quyết nhằm
bảo vệ biên giới ở những khu vực này, triều đình đã cho xây dựng h ệ th ống
thành và bảo trấn giữ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Lực lượng quân đ ội
được củng cố và tăng cường từ trung ương đến địa phương. B ởi lẽ, s ự can thi ệp
của Xiêm trong việc tranh giành ảnh hưởng ở các nước Ai Lao và Cao Miên là
một điều làm cho triều đình nhà Nguyễn phải e ngại. Khơng nh ững th ế quân
Xiêm còn nhiều lần đem quân sang nước ta cướp bóc, gây rối loạn.
Có thể thấy việc bảo vệ biên giới là một trong những vấn đề quan tr ọng
góp phần bảo đảm tồn vẹn lãnh thổ của đất nước. Các chính sách trong vi ệc
tuyển mộ binh lính địa phương, tuần tra biên giới và xây dựng các đồn bảo đã
góp phần giữ vững ổn định ở những khu vực này.

Việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên bi ển cũng được các vua nhà
Nguyễn chú trọng. Từ thế kỉ XVII, các chúa Nguyễn đã phái đội Hồng Sa ra thăm
dị, hoạt động tại hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa, sau đó ti ếp tục là s ự ra
đời của nhiều đội dân binh khác. Đến thời nhà Nguy ễn, công vi ệc này v ẫn đ ược
duy trì. Theo Tiến sĩ Nguyễn Nhã: “Tháng Giêng, năm Ất Hợi (1815), Phạm Quang
Anh, thuộc đội Hoàng Sa được lệnh ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đ ạc th ủy trình
(…) Đến năm Gia Long thứ 15, năm Bính Tí (1816), vua Gia Long l ại cho c ả th ủy
quân phối hợp với đội Hoàng Sa đi ra Hoàng Sa đ ể xem xét và đo đ ạc th ủy

3


trình…”4. Sang đến thời Minh Mạng việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho th ủy
qn có trách nhiệm và th thuyền của dân hướng dẫn hải trình, cơng vi ệc này
liên tục được thực hiện qua các năm: 1833, 1835, 1836. Bên cạnh đó, Minh Mạng
cũng chăm lo, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền Việt Nam và các nước qua l ại
vùng biển xung quanh hai quần đảo. Năm 1833 vua Minh Mạng đã ch ỉ th ị cho B ộ
Công rằng: “Trong hải phận Quảng Nghĩa, có một dải Hồng Sa, xa trơng tr ời
nước một mầu; không phân biệt được nông hay sâu. G ần đây thuy ền buôn
thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm phái ng ười t ới đó
trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối xanh tốt, ng ười d ễ nh ận bi ết, có th ể tránh
được nạn mắc cạn”5. Như vậy có thể thấy việc thực thi chủ quyền trên bi ển
cũng được các vua triều Nguyễn quan tâm và ti ến hành th ường xuyên. Bên c ạnh
đó nhà Nguyễn cũng có những chính sách bảo vệ vùng bi ển đảo ở phía Bắc, có
hàng trăm đảo lớn nhỏ với địa hình phức tạp.
1.1.2. Khơng có sự chiếm đóng của nước ngồi trên lãnh thổ
Đồng thời với việc củng cố vương quyền và xây dựng đất n ước, từ vua Gia
Long đến Minh Mạng việc đề phòng và chống lại nguy cơ can thi ệp, chi ếm đóng
của nước ngồi ln được nhận thức và có các biện pháp cụ th ể nhằm bảo đ ảm
sự độc lập, tự chủ của đất nước. Nó được thể hiện qua một số chính sách của

nhà Nguyễn trong việc giao lưu buôn bán với phương Tây, thái độ đối v ới tri ều
đình Mãn Thanh, những chính sách cấm đạo Thiên Chúa,...
Trước hết có thể thấy, những chính sách về thương mại của nhà Nguy ễn
cũng một phần nhỏ nào thể hiện được ý thức về sự can thi ệp c ủa các n ước
phương Tây. Việc giao lưu buôn bán với các nước phương Tây hầu như b ị h ạn
chế đến mức thấp nhất. Có lẽ, chính sự giao thi ệp từ sớm của Nguy ễn Ánh v ới
Pháp nói riêng và với các nước phương Tây khác nói chung, đã làm cho ơng có
một cái nhìn thiếu thiện cảm và ơng lo sợ về sự bành trướng của tư bản p hương
Tây trong đất nước mình. Ngoại giao giữa triều đình Huế với Pháp được bắt đầu
4 TS.Nguyễn Nhã, “Các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỉ XVII đến khi thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam”, Chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, Tr.153.
5 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb.Giáo dục

4


từ sớm do mối quan hệ thân thiết giữa Nguyễn Ánh và một s ố cá nhân ng ười
Pháp. Sự giúp đỡ của những người này trong việc giúp Nguyễn Ánh đánh b ại
quân Tây Sơn là một phần không nhỏ, chính vì thế sau khi lên ngơi năm 1802,
Nguyễn Ánh đã cho những người này giữ những chức vụ trong triều và có thái
độ hiều hịa, tơn trọng. Nhưng đối với các nước phương Tây, trong đó có cả Pháp
thì thái độ của Nguyễn Ánh vẫn khơng hề thay đổi. Điều này được th ể hi ện rõ
qua việc Nguyễn Ánh cự tuyệt khi một tàu chiến của Pháp đến Đà Nẵng năm
1817 nhằm yêu cầu vị vua này thực hiện hiệp ước năm 1787. Còn đối v ới người
Anh, Nguyễn Ánh cho rằng: “họ không thuộc chủng tộc của chúng ta, do vậy họ
không được phép cư trú tại Việt Nam”.6
Đến thời Minh Mạng việc hạn chế thương nghiệp với phương Tây lại ti ếp
tục được duy trì, nhưng năm 1839, sự can thiệp của thực dân Anh vào Trung Hoa

được khai mào bằng những tiếng đại bác. Với sự ki ện này “Minh Mạng đã đ ược
đánh thức”, nhà vua ý thức được nguy cơ trước mắt đang đe dọa độc l ập tự ch ủ
của đất nước, đây lý do sâu xa khiến ông quyết định điều chỉnh đường ngoại
giao cổ truyền tự thủ, thụ động sang đường lối ngoại giao cởi m ở “h ợp tác” v ới
phương Tây trong những năm tháng cuối đời mình. Vì lý do an ninh nên dù
khơng ngăn cấm hoạt động buôn bán với phương Tây nhưng tri ều đình Hu ế ch ỉ
cho mở cửa Đà Nẵng để thuyền bn phương Tây đến bn bán. Ta có th ể th ấy
giai đoạn 1839 – 1840 được coi là thời kì hợp tác của vua Minh Mạng. Đ ến th ời
Thiệu Trị, chính sách về thương nghiệp với các nước phương Tây v ẫn khơng có
gì thay đổi so với thời Minh Mạng, nhưng vào năm 1844, sự thi ếu thi ện chí của
người Pháp trong một cuộc thương thuyết tại Đà Nẵng, thông qua việc tấn công
thuyền buồm của người Việt, đã làm cho vua Thiệu Trị quay lưng v ới chính sách
hịa hợp từ trước, Thiệu Trị đã nghĩ đến vấn đề chiến tranh với người Pháp,
không cho thuyền của Pháp bỏ neo ở các cửa bi ển. Và r ồi chính sách “khơng
phương Tây” được vua Tự Đức tiếp tục duy trì vào những năm sau đó.

6 Chu Tuyết Lan (2007), “Quan hệ bang giao giữa triều Nguyễn và phương Tây”, Những vấn đề lịch sử triều
Nguyễn, Nxb.Văn hóa Sài Gịn, Tp.HCM.

5


Cũng với vấn đề chống lại sự chiếm đóng của nước ngoài, vào năm 1830,
như đã đề cập ở phần trên, 600 quân của nhà Thanh đã kéo vào phía B ắc n ước
ta để đòi vùng Phong Thu (Hưng Hóa), nhưng chính vua Minh Mạng đã sai qn
lên trấn áp và sử dụng các biện pháp hịa bình nhằm đẩy quân Thanh v ề n ước.
Có thể thấy cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược vào năm 1858, các
vị vua triều Nguyễn ln có ý thức cao đối với âm mưu can thi ệp, chi ếm đóng từ
các thế lực bên ngoài.
1.1.3. Tự chủ trong việc thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại


Có thể nói, trong những nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã xây dựng một
thiết chế quản lý đất nước thống nhất từ Bắc đến Nam. Các chính sách trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, văn hóa – xã hội, qn s ự,…đã ph ần nào c ủng c ố và
gia tăng năng lực cùng vị thế của Việt Nam thời bấy gi ờ. Chính đi ều này làm cho
nước ta được chủ động, độc lập trong chính sách đối nội và đối ngoại của mình.
Sự tự chủ trong đối nội và đối ngoại đó chính là việc tri ều đình nhà Nguy ễn
có thể chủ động đề ra và triển khai những chính sách, bi ện pháp nh ằm th ực
hiện chức năng lãnh đạo của mình. Những chính sách cụ th ể sẽ được chúng tôi
đề cập rõ hơn ở phần sau. Nhưng nói tóm lại, từ năm 1802-1858, Việt Nam vẫn
là một nước độc lập, tự chủ với toàn vẹn lãnh thổ và sự quan tâm của nhà n ước
để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ ấy. Là một đất nước khơng có ngoại bang xâm lược
và chiếm đóng và có sự làm chủ của nhà nước trên tất cả các linh v ực từ b ộ máy
nhà nước đến pháp luật, kinh tế, ngoại giao…
1.2.

Hoàn cảnh lịch sử
Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh th ổ Đàng

Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua tự đặt niên hi ệu là Gia Long,
lập ra nhà Nguyễn.
Tác giả của cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), bình luận khá xác
đáng rằng: “Trong lịch sử nước ta, các vương triều tiến bộ trước đây đều được
thiết lập trên thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng dân t ộc, ho ặc sau
khi thiết lập đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ch ống ngo ại xâm, b ảo v ệ đ ộc l ập
6


dân tộc, củng cố thống nhất quốc gia. Đó là cơ sở chủ yếu tạo nên s ức m ạnh c ủa
vương triều. Còn triều Nguyễn là vương triều phong ki ến cu ối cùng d ựng lên

bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm l ược c ủa n ước
ngoài. Gia Long lên làm vua, lập ra triều Nguyễn sau khi đã đàn áp cu ộc chi ến
tranh cách mạng của nông dân mà nội dung cơ bản là đ ấu tranh cho quy ền l ợi
của nhân dân, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia” . Một vương triều được
dựng lên như thế đã gây nhiều bất mãn trong nhân dân, không được s ự ủng h ộ
của nhân dân. Chính vì thế khi lên ngôi, Gia Long đã ban hành nhi ều chính sách
nhằm ổn định xã hội và phát triển kinh tế, củng cố lại niềm tin trong nhân dân.
Tuy nhiên, những chính sách của nhà Nguyễn – trước hết là trong lĩnh v ực
kinh tế chưa mang lại hiệu quả rõ nét hơn đối với đời sống nhân dân. N ạn tham
nhũng của quan lại, cường hào thêm vào đó là chế độ tơ thuế và lao d ịch tr ở
thành gánh nặng khắc nghiệt đối với thần dân. Thừa sai người Pháp Gúerard đã
từng nhận xét: “Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách; s ự b ất công
và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả th ời Tây S ơn, thu ế má và lao d ịch
thì tăng lên gấp ba”. Cùng với đó mất mùa, đói kém càng làm cho đ ời s ống nhân
dân trở nên khốn khổ, mâu thuẫn giữa nhân dân và triều đình dâng cao, nhi ều
cuộc khởi nghĩa của nơng dân nổ ra. Theo tính tốn của các nhà nghiên c ứu, dưới
triều Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra, tiêu bi ểu có kh ởi nghĩa
của Phan Bá Vành ở Sơn Nam, Ba Nhàn Tiền Bột ở Sơn Tây…
Tình hình trong nước trở nên rối ren chưa giải quyết được thì nhà Nguy ễn
lại phải đối mặt với nguy cơ xâm hại đến nền độc lập dân tộc từ các nước lớn.
Từ biên giới phía Bắc, nước ta khơng ít lần phải đối mặt với sự xâm lược
của các vương triều Trung Hoa. Một đất nước Trung Hoa rộng lớn ở thời đại nào
cũng thể hiện tham vọng bành trướng và đồng hóa với nước ta. Gần v ới nhà
Nguyễn, quân Tây Sơn cũng phải đối mặt với 29 vạn quân Thanh. Nguy c ơ xâm
lược nước ta từ phía Trung Hoa là một nguy cơ thường trực và không ít lần bi ến
thành hiện thực, ở thời nhà Nguyễn vẫn thế.
Khơng chỉ có nguy cơ xâm hại nền độc lập dân tộc từ phương Bắc, ở phía
Tây Nam của tổ quốc, ta còn phải đối mặt với nước Xiêm. Kể từ đầu th ế k ỷ XIX,
7



quan hệ ngoại giao giữa hai triều đình Nguyễn – Xiêm rất phức tạp, nhưng nói
chung cả hai đều muốn phát triển và củng cố thế lực của mình trên đ ịa bàn hai
nước Miên – Ai Lao. Nhiều vụ xung đột vũ trang đã di ễn ra gi ữa quân Xiêm và
quân Nguyễn hoặc trên lãnh thổ Miên, Ai Lao, hoặc trên vùng biên gi ới các t ỉnh
phía Tây.
Bên cạnh đó, nước ta cịn phải đối mặt với nguy cơ tới từ các n ước phương
Tây. Từ thế kỷ XVI, người Tây Dương – Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh,
Pháp và Đức đã lần theo bước chân của những nhà thám hi ểm trong các cu ộc
phát kiến địa lý bắt đầu giao thiệp với Việt Nam. Tới đầu thế kỷ XIX, nguy c ơ v ề
sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây được thể hiện rõ ràng hơn bao
giờ hết. Cho đến đầu những năm 30, nhiều hải thuyền của các nước phương Tây
đặc biệt là Pháp đã đến Việt Nam đặt quan hệ ngoại giao và th ương m ại. Trên
thực tế, các thương nhân phương Tây vẫn được mua bán hàng hóa tại các h ải
cảng quy định như Phố Hiến, Hội An…
Nói về nước Pháp, trong cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh,
Nguyễn Ánh đã nhận được sự giúp đỡ của một số người Pháp mà tiêu bi ểu nhất
là Giám mục Bá Đa Lộc. Sau khi Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, Bá Đa L ộc được xem
là người có cơng lao to lớn và được giữ lại trong bộ máy cai tr ị. Bên cạnh đó, vua
Gia Long cịn trả ơn cho một số người Pháp bằng cách đưa h ọ vào b ộ máy hành
chính. Những người Pháp ln hướng về q hương của họ, luôn mu ốn đem l ại
quyền lợi từ Việt Nam cho nước Pháp, chính điều này càng làm cho Pháp d ễ
dàng thực hiện những âm mưu của mình đối với nước ta. Nhận xét về Bá Đa Lộc,
tác giả Rieunier cho rằng: “Giám mục này đã dốc toàn tâm vào ý định phục hồi
ngai vàng cho Nguyễn Ánh. Phải nói rằng khơng ai thay th ế đ ược vai trị này c ủa
ơng, vì ơng hiểu biết sâu sắc đặc điểm của dân An Nam, và v ới năng l ực c ảm
nhận nhạy bén, Bá Đa Lộc dự kiện rằng n ước Pháp có th ể đón đ ợi m ột t ương lai
rực rỡ một khi biết khai thác mọi tài nguyên của xứ này cùng với s ự phát tri ển
nhanh chóng của nền văn minh châu Âu đối với một dân tộc v ừa hi ền lành v ừa
thông minh như dân tộc này”. Và càng ngày những âm mưu của Bá Đa Lộc cùng

với nước Pháp ngày càng được thể hiện và củng cố vững chắc.
8


Ta có thể thấy, nhà Nguyễn ra đời và tồn tại trong một bối cảnh đặc bi ệt
của đất nước mà cịn trong tình hình thế giới có nhiều chuyển bi ến l ớn. Th ắng
lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát tri ển c ủa ch ủ nghĩa th ực
dân và của sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt nước châu Á l ần l ượt r ơi vào
ách đô hộ thực dân và Việt Nam cũng không tránh khỏi mối đe dọa đó.
1.3. Chính sách đối nội của nhà Nguyễn từ 1802-1858
1.3.1. Chính trị
Sau khi đánh bại Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi và đã xây dựng
nhà nước phong kiến quân chủ trung ương tập quyền.
Vua là người đứng đầu đất nước nắm hoàn toàn quyền hành quyết định
trong tay, nhà vua trực tiếp nắm tất cả các bộ, các vi ện. Vua là ng ười quy ết đ ịnh
mọi vấn đề quan trọng của đất nước, tuy mỗi tháng đều có đại tri ều, có đình
nghị để xem xét các việc hệ trọng của đất nước nhưng quyền quyết định cuối
cùng cũng do nhà vua, và nhà vua cũng tùy theo ý mình mà quy ết đ ịnh. Vua đ ược
coi là con trời, chỉ có trách nhiệm với trời chớ khơng có trách nhiệm v ới dân, vua
có quyền hành tuyệt đối với tất cả mọi người tất cả m ọi thứ trên đ ất n ước c ủa
mình, vua là chủ mn dân là chủ của tất cả ruộng đất, núi rừng, sông bi ển “vua
thực tế là tên điền chủ đầu sỏ lớn nhất trong nước có tồn quy ền đ ịnh đo ạt trong
sự chi dụng tơ thuế”7.
Dưới vua có 6 bộ : Hộ, Lại, Binh, Hình, Cơng, Lễ. Đứng đầu m ỗi b ộ là
Thượng thư, giúp việc cho thượng thư có các quan tả hữu tham tri, tả h ữu th ị
lang. Mỗi bộ lại tùy vào công việc mà phân chia các ty chuyên trách. C ơ m ật vi ện
gồm có một số đại thần bàn những quốc sự quan trọng, nhưng ý ki ến quyết
định vẫn là ý kiến của nhà vua.
Ngoài ra bộ luật Gia Long ban hành năm 1815 là một công cụ hỗ trợ đắc lực
cho chính quyền phong kiến. Bộ luật này được phỏng theo luật của tri ều Mãn

Thanh, mặc dù vậy, xét cho cùng ở thời gian đó, Trung Qu ốc là m ột trong nh ững
đất nước đạt được nhiều thành tựu trong việc xây dựng luật pháp, nên vi ệc nhà
Nguyễn tiếp thu những điều luật đó để xây dựng bộ luật cho đất nước là một
điểm khá tiến bộ, nên được đánh giá tích cực hơn là tiêu cực.
7 Trần Văn Giàu (2001), Chống xâm lăng, Nxb.Thành Phố Hồ Chí Minh, trang 35.

9


Ở các tỉnh huyện, các quan đứng đầu đều do triều đình b ổ nhi ệm đi ều này
cho thấy nước Việt Nam lúc bấy giờ là m ột nhà nước phong ki ến t ập quy ền r ất
mạnh. Các quan đều do thi cử để chọn ra, đây là một hình th ức rất dân chủ và
cơng bằng, nhưng trên thực tế những kẻ ra làm quan đều là b ọn con ông cháu
cha. Học cốt là để ra làm quan, để bóc lột nhân dân. Ở các làng, xã quy ền cai tr ị
thực tế đã rơi vào tay của một nhóm địa chủ, cường hào. Nhà n ước nắm làng xã
không phải bằng cách nắm mọi thành viên trong làng xã mà là n ắm làng xã nh ư
một cộng đồng tập thể, hay nói cho đúng là nhà nước phong ki ến trung ương đã
dựa vào bọn địa chủ cường hào ở địa phương để cai trị nhân dân. Chính quyền
trung ương cho rằng để nắm làng xã một cách hiệu quả nhất thì tất ph ải dựa
vào bọn cường hào, địa chủ trong địa phương. Hội đồng hương, lý trưởng đều do
cường hào, đại chủ lựa chọn, nhà nước cho chúng m ột phạm vi ho ạt đ ộng nh ất
định, mắt nhắm mắt mở với những hành động của bọn cường hào địa chủ đ ể
chúng kiếm lợi riêng, và vì lợi ích riêng đó mà phục vụ lại cho chính quy ền trung
ương. Làng xã Việt Nam có truyền thống ổn định, ít bi ến đ ộng và t ồn t ại lâu dài
hơn hẳn các vương triều phong kiến. Bởi vậy mà mỗi tri ều đại phong ki ến khi
thành lập đều gặp những làng hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức. Mỗi làng xã đều có
những luật lệ, phong tục riêng biệt, do đó giữa các làng xã ít khi x ảy ra nh ững
mâu thuẫn. Hơn nữa bọn cường hào, địa chủ với quyền hạn của mình đã nắm cả
những quyền hạn về kinh tế, giáo dục, lo liệu mọi cơng vi ệc b ố phịng và chính
quyền trung ương hầu như khơng can thiệp tới. Chính vì thế mà người Vi ệt Nam

chúng ta từ xưa đã có câu “phép vua thua lệ làng”.
Dưới chế độ cai trị của triều Nguyễn nhân dân cũng ph ải ch ịu nhi ều th ứ
thuế nặng nề, ngồi ra họ cịn phải chịu chế độ lao dịch hà khắc, b ởi các vua nhà
Nguyễn thường xuyên cho xây dựng những cung điện, lăng tẩm. Đồng th ời nhà
Nguyễn cũng đặt ra nhiều thứ luật lệ vô lý, quái gỡ bắt nhân dân ph ải th ực hi ện.
“Ví như đã là thường dân thì chỉ được mặc áo vải, vải trắng, vải đen, vải nâu, và đi
chân không, nhất thiết không được đi giày, m ặc gấm vóc. Ph ải là quý t ộc là quan
mới được làm nhà lầu, làm theo kiểu chữ công, môn, đi giày, m ặc áo g ấm vóc” 8.
8 Trần Văn Giàu, sđd, trang 37

10


Chính những điều luật quái gỡ này đã cản trở sự phát tri ển của nền kinh t ế, xã
hội, chỉ có bước vào quan trường thì con người mới tìm được sự vinh hi ển, giàu
sang.
Có thể thấy bộ máy chính quyền đã được khơng ngừng củng cố đ ể có th ể
phục vụ đắc lực cho việc quản lí đất nước. Tuy nhiên, việc tập trung quy ền l ực
càng cao thì tất nhiên sẽ để lại nhiều mặt tiêu cực trong việc đ ề ra chính sách
cai trị.
1.3.2. Kinh tế
Nông nghiệp
Đầu thế kỉ XIX, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Cơ cấu ruộng
đất gồm hai bộ phận: ruộng đất công và ruộng đất tư. Ruộng đất tư là đất riêng do tư
nhân trồng trọt và nộp thuế cho triều đình. Đất này có thể mua bán, thừa kế, nếu triều
đình muốn trưng dụng phải trả tiền bồi thường. Ruộng đất công là đất của triều đình
giao cho xã, thơn sử dụng và khơng được đem ra mua bán. Ruộng này cứ 3 năm phân
chia lại một lần cho dân để mỗi người đều có một số ruộng tương tự nhau một cách
cơng bằng, cách này gọi là phép quân điền.
Ngay khi lên ngôi, Gia Long đã ra lệnh cấm mua bán ruộng đất công và quy định

chặt chẽ việc cầm cố các loại công điền, công thổ để đảm bảo đất cày cho nông dân.
Năm 1804, Gia Long ra lệnh chỉ tịch thu những ruộng đất của quan lại triều Tây Sơn
và ruộng trang trại riêng của Tây Sơn làm quan điền. Tất cả mọi người đều được chia
ruộng công ở xã, từ quan lại cấp cao tới những người dân nghèo đều được chia phần.
Tới thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần không kể phẩm trật cao
thấp đều được hưởng một phần khẩu. Triều đình thực hiện chế độ ruộng lương rất hậu
với mong muốn khuyến khích nhân dân vào quân đội và cũng là để triều đình và binh
lính có sự gắn bó mật thiết với nhau hơn.
Chính sách qn điền tuy có được điều chỉnh nhiều lần, nhưng vẫn khơng tác
dụng đáng kể. Chính sách qn điền thực tế chỉ là giải pháp mang ý nghĩa tượng
trưng, dân nghèo vẫn khơng có ruộng cày, tình hình này vẫn kéo dài tới thời Tự Đức,
triều đình tỏ ra bất lực.
Ngay khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã quan tâm tới việc khuyến khích khẩn
hoang. Trong những năm chiến tranh, ruộng đất bị bỏ hoang rất nhiều. Nhà Nguyễn
11


rất chú trọng đến vùng đất Nam Bộ và khuyến khích người dân đến khẩn hoang, kế
tiếp phong trào khẩn hoang thời nội chiến, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư
cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều đình.
Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ
thưởng phạt phân minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏ đất
nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng ruộng hoang.Việc khai khẩn đất hoang
mở ra liên tục dưới bốn vị vua đầu triều. Năm 1841, vua Thiệu Trị ra lệnh khen
thưởng cho phú hào mộ dân lập ấp. Người nào chiêu mộ 5 suất đinh khai khẩn được
10 mẫu trở lên thì được thưởng 20 quan …
Nhà Nguyễn cũng rất chú trọng cơng tác đê điều, đặt Nha đê chính và chức quan
Tổng lý chuyên trách coi sóc việc đê điều, đồng thời triều đình cũng thường xuyên
kiểm tra tu bổ đê điều ở các địa phương để đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp của
nông dân được thuận lợi. Đặc biệt ở phía Nam nhà Nguyễn cịn cho đào những con

kênh như: Thoại Hà, Vĩnh Tế. Những con kênh này có ý nghĩa quan trọng đối với việc
tiêu phèn, rửa mặn cho vùng đất phía nam, giúp nhân dân thuận lợi trong q trình sản
xuất nơng nghiệp mà đặc biệt là trồng lúa nước. Bên cạnh đó hai con kênh này cũng là
đường biên giới tự nhiên giữa nước ta và Chân Lạp, bảo vệ nước ta khỏi những sự
xâm nhập đe dọa của các thế lực bên ngồi.
Cơng nghiệp (Thủ công nghiệp)
Nước ta là một nước nông nghiệp truyền thống vì vậy cơng nghiệp chỉ chiếm
một bộ phận rất nhỏ trong nền kinh tế. Hình thức chủ yếu của cơng nghiệp nước ta là
thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Một bộ phận của thủ cơng nghiệp cịn chưa
tách ra khỏi nông (công nghiệp tại gia), công nghiệp tại gia là sự chế biến nguyên liệu
ngay tại gia đình nơng dân, đó là thuộc tính của nền kinh tế tự nhiên.
Tuy nhiên vào thế kỉ XIX, ở nước ta đã hình thành những khu vực chun mơn
sản xuất thủ cơng nghiệp. Sự chun mơn hóa được đưa lên cao và hình thành nên
những làng thủ cơng chun làm những nghề rất tinh xảo, như làng Kim Bôi đúc đồ
đồng, làng Bưởi làm các loại giấy, Bát Tràng làm gốm… Thậm chí ở những thành thị
sầm uất như Hà Nội đã hình thành nên những làng nghề thủ cơng nghiệp tập trung ở
những đường phố hay khu phố theo từng ngành nghề. Những người có chung một
ngành nghề với nhau thường tập hợp lại thành một tổ chức gọi là phường hội. Mỗi
12


phường hội đều có quy chế riêng, và được tổ chức chặt chẽ. Ở mỗi phường hội nghề
thủ công và nghề bn bán được kết hợp lại với nhau.
Triều đình cũng khuyến khích thủ cơng nghiệp, khen thưởng cho những thợ giỏi,
nhà vua thường sai người đi trưng dụng những thợ giỏi về làm việc cho vua hoặc triều
đình. Những thợ thủ công giỏi được nhà nước trưng dụng được sử dụng vào việc xây
dựng những cung điện, thành trì hoặc làm những cơng việc như đúc súng, đóng tàu,
đúc tiền. Ngồi ra cịn có những xưởng chun sản xuất những đồ dùng phục vụ cho
nhu cầu của vua và hồng tộc như đồ trang sức, gấm vóc, đồ gốm…
Nhà nước giữ độc quyền công nghệ khai mỏ mà đặc biệt là đối với những khoán

vật quý như kẽm, bạc, vàng. Nhà nước cũng cho thầu khoán Trung Quốc làm rồi đóng
thuế bằng bao nhiêu ngun liệu khống sản. Nhà nước cịn cho lập những “hộ” khi
cần những món hàng nào đó, cần sắt thì lập “hộ sắt”, cần vàng thì lập “hộ vàng”, cần
gỗ lim thì lập “hộ thiết mộc”… tập hợp những người làm nghề đó rồi đánh thuế sản
vật.
Những người thợ giỏi nhất thường bị nhà nước trưng dụng, có khi trưng dụng cả
đời. Trong khi đó đối với các làng nghề, các phường hội quy chế phức tạp, hình thức
“giấu nghề” rất ngặt nghèo làm cho những làng nghề đó hầu như chỉ được độc quyền
bởi một gia đình hay một phường nhất định. Chính vì những ngun nhân này mà thủ
cơng nghiệp khơng có điều kiện để phát huy hết những thế mạnh và sáng tạo của
mình. Khiến cơng thương nghiệp chỉ bó hẹp ở một khu vực nhất định.
Thương nghiệp
Từ thời Lê đến thời Tây Sơn những bến cảng như Hà Nội, Hội An các thương
thuyền cập bến vô cùng đông đúc. Các giáo sĩ phương Tây từng ghi nhận rằng Gia
Định thành vào thời các chúa Nguyễn có đến hơn 10 vạn dân cư. Sang thế kỉ XIX, đất
nước thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán trong và ngồi
nước.
Thuyền bn các nước như Xiêm, Malaysia, nhất là Trung Quốc, thường xuyên
sang nước ta buôn bán. Tàu buôn của các nước phương Tây cũng đến buôn bán ở các
hải cảng. Từ thời Gia Long, tàu buôn phương Tây có thể vào bn bán tại nhiều cảng
của Việt Nam. Nhưng năm 1820, vua Minh Mạng tuyên bố “bế quan tỏa cảng”, tàu
buôn phương Tây chỉ được cập bến Đà Nẵng. Đến thời vua Tự Đức, nhà vua quyết
13


định không tiếp chủ thuyền buôn phương Tây, khước từ mọi yêu cầu lập thương điếm
hoặc ký hiệp ước thương mại với các nước phương Tây.
Triều đình chỉ nới lỏng trong việc giao thương buôn bán với với Trung Quốc.
Thương nhân Việt Nam bn bán nhỏ lẻ hàng hóa với những thương nhân người
Trung Quốc để kiếm lời chứ không làm ăn quy mơ lớn, vì vậy thương nghiệp khơng

phát triển. Trong khi ở trong nước tình hình sản xuất thủ công nghiệp không mấy phát
triển. Giao lưu buôn bán giữa các địa phương trong cả nước có khi cịn gặp khó khăn
do tình trạng nổi loạn, các cuộc khởi nghĩa nơng dân, đồng thời nạn hải phỉ hồnh
hành. Tất cả nhưng yếu tố đó đã làm cho nền thương nghiệp của Việt Nam từ từ xuống
dốc.
Có thể thấy những vị vua đầu triều Nguyễn đã cố gắng củng cố, phát triển nền
thương nghiệp của nước ta nhưng mắc phải một sai lầm lớn là “trọng nông ức
thương”, nên không thể tạo điều kiện cho nước ta có sự thay đổi phù hợp theo xu thế
phát triển của thời đại. Nên kinh tế đi vào quá trình trì trệ suy thối, cộng với những
chính sách khơng phù hợp của triều đình nhà Nguyễn là nguyên nhân đưa nước ta nằm
trong tằm ngắm xâm lược của tư bản phương Tây mà thiết nghĩ nếu khơng có Pháp thì
nước ta cũng khó thoát cảnh trở thành thuộc địa.
Các vua đầu triều Nguyễn đã đưa ra nhiều chính sách, biện phát nhằm xây dựng
và phát triển nền kinh tế, củng cố sức mạnh của đất nước, qua đó củng cổ và bảo vệ
nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Chúng ta không thể phủ nhận rằng tình hình kinh tế xã hội của đất nước đã được cải thiện rất nhiều so với thời gian trước, nhưng bên cạnh
đó có nhiều chính sách đã gây ra những tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh
tế, mà tiêu biểu là chính sách “bế quan tỏa cảng” và “trọng nông ức thương”. Những
dấu hiệu của khủng hoảng đã bắt đầu xuất hiện và cho đến khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược, đất nước ta lại rơi vào một tình thế vơ cùng khó khăn, triều đình nhà
Nguyễn tỏ ra lúng túng trước thời cuộc, đời sống của nhân dân trong nước lại càng trở
nên cơ cực.

1.3.3. Tổ chức quân đội và hệ thống phòng thủ dưới thời nhà Nguyễn
14


Tổ chức quân đội
Từ thời nhà Lý nước ta đã thực hiện chính sách “ngụ binh ư nơng”, cho qn
lính luân phiên luyện tập tái ngũ và về nhà cày ru ộng. Chính sách này càng đ ược
vận dụng linh hoạt sáng tạo ở các triều đại phong ki ến ti ếp theo như Tr ần, Lê.

Yếu tố then chốt làm nên thành công của các triều đại phong ki ến Vi ệt Nam là
sự gắn bó mật thiết giữa nhà nước và nhân dân. Ngụ binh ư nông được ban hành
và thực hiện thành công đã cho thấy các triều đại phong ki ến Lý, Tr ần đã bi ết
kết hợp giữa quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp, đề cao tư tưởng gần dân,
dựa vào nhân dân để phòng giữ đất nước và đánh bại những đội quân xâm l ược
hùng mạnh.
Triều Nguyễn được xác lập đầu thế kỉ XIX không phải là sản phẩm của
cuộc đấu tranh nhân dân mà là kết quả của việc lật đổ phong trào nơng dân Tây
Sơn. Chính vì thế mà ngay từ buổi ban đầu mâu thuẫn giữa nhà Nguyễn với nông
dân trong cả nước đã gay gắt, mặc dầu mức độ có giảm so với thời kì Trịnh –
Nguyễn. Bởi ngun do đó mà nhà Nguyễn khơng thực hiện ch ế độ ngụ binh ư
nông như các triều đại trước mà chủ trương cho xây dựng l ực lượng quân đội
vững mạnh. Dưới thời nhà Nguyễn quân đội cung được chia ra thành hai b ộ
phận chính là thủy binh và bộ binh.
Bộ binh dưới thời nhà nguyễn ln được duy trì rất đơng tới hàng chục vạn
người, được tuyển chọn theo chế độ quân dịch. Theo quy định của tri ều đ ỉnh cứ
ba đến bốn suất đinh thì lấy một suất lính, tuy nhiên trên th ực t ế con s ố này
luôn cao hơn. “Chẳng hạn, theo thống kê, số đinh năm 1820 là 620.240, mà s ố lính
tuyển lại đến 204.220 người (bằng 1/3 số đinh)” 9. Thành phần chủ yếu tham gia
trong quân đội nhà Nguyễn chủ yếu là những người nông dân, cịn con cháu c ủa
các nhà giàu có, quan lại thì được miễn khơng phải đi lính hoặc dùng ti ền đ ể tìm
người đi thay. Do nhà Nguyễn khơng áp dụng chế độ ngụ binh ư nông nên tri ều
đình thực hiện chế độ ruộng lương rất hậu với mong muốn khuy ến khích nhân
dân vào quân đội và cũng là để triều đình và binh lính có sự gắn bó mật thi ết v ới
nhau hơn.
9 Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học sư phạm, trang 381.

15



Bộ binh thời Nguyễn được phân làm ba hạng là thân binh có nhiệm vụ h ộ
vệ vua, cấm binh có nhiệm vụ bảo vệ hồng thành và tinh binh có nhi ệm v ụ
phịng thủ kinh đơ và đi trấn giữ ở các tỉnh. Về tổ ch ức, quân đ ội đ ược biên ch ế
theo hệ thống như sau: đơn vị nhỏ nhất là ngũ (có 5 người), tiếp đến là thập (10
người), rồi đến đội (50 người), vệ (mỗi vệ bằng 10 đội), doanh (mỗi doanh có
2500 người). Binh lính nhà Nguyễn được trang bị cịn khá lạc hậu có th ể nói là
lỗi thời so với tư bản phương Tây, một vệ được trang bị 2 khẩu thần công, 200
khẩu điểu thương, đến thời Tự Đức bộ binh còn sử dụng giáo mác và súng đi ểu
thương, tuy vậy thì 10 người mới có 1 khẩu súng. Nhầm hiện đại hóa quân đ ội
nâng cao sức chiến đấu, Tự Đức cũng đã cho người mua súng c ủa n ước ngoài và
đúc thêm súng ở trong nước. Tuy nhiên phần nhiều những loại súng mua v ề từ
nước ngoài là những loại súng kiểu cũ, những thứ “phế thải” của tư bản ph ương
Tây, trong khi đó súng được sản xuất trong nước cũng chỉ theo khn m ẫu cũ
khơng có sự cải tiến.
Về thủy binh, có sáu vệ thủy binh đóng ở kinh đơ, ngồi ra cịn có thủy qn
đóng ở các đồn lũy ở các tỉnh ven biển, đặc biệt là ở các h ải cảng quan tr ọng.
Dưới thời Gia Long thủy quân đạt con số 17.600 người, được trang vũ khí và tàu
chiến khá hoàn chỉnh. Với 3 tàu chiến theo ki ểu phương Tây 100 chi ến thuy ền
lớn được trang bị từ 50 đến 70 máy chèo, có nhiều súng bắn đá, đại bác, 200
chiến hạm nhỏ được bọc đồng mỗi chiếc chở từ 16 đến 20 đại bác, 500 chiến
thuyền nhỏ mỗi chiếc có 40 đến 44 mái chèo được trang bị 1 đại bác và nhi ều
súng bắn đá.
Hệ thống phòng thủ dưới thời nhà Nguyễn
Kinh thành Huế
Sau khi Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây Sơn lập nên nhà Nguy ễn năm
1802 ông đã rất chú trọng đến việc xây dựng những hệ th ống ti ền tiêu, nh ững
cơng trình qn sự mang tính chất phịng thủ nhằm chống lại sự dịm ngó, xâm
phạm của các thế lực nước ngoài. Đặc biệt khi chọn Huế làm kinh đô của vương
triều, Gia Long đã cho xây dựng hệ thống phòng thủ cảng bi ển và đảo, h ệ th ống
sơn phòng ở các tỉnh miền trung để che chắn cho kinh thành Huế.

16


Hệ thống phịng thủ qn sự thời nhà Nguyễn có thể phân làm ba loại là h ệ
thống phòng thủ ở kinh thành Huế, hệ thống phòng thủ ở các cảng, các đảo và
hệ thống phòng thủ ở các tỉnh miền núi. Với mục đích phịng thủ là chính, từ
năm 1805 Gia Long đã cho xây dựng kinh thành Huế với di ện tích lên đ ến 520 ha
nằm ở bờ bắc của con sơng Hương. Đây là cơng trình xây dựng đồ sộ, quy mô v ới
hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, v ới m ột kh ối
lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đ ắp thành... kéo dài
từ năm 1805 dưới triều vua Gia Long mãi cho đến năm 1832 dưới tri ều vua
Minh Mạng mới hồn thành. Có thể nói Kinh thành Huế là m ột trong nh ững cơng
trình khơng chỉ mang ý nghĩa phòng thủ quân sự đơn thu ần mà nó cịn là m ột
cơng trình kiến trúc vĩ đại của nhà Nguyễn, nó có giá tr ị vượt th ời gian. Năm
1993 quần thể di tích cố đơ Huế (bao gồm cả kinh thành Huế) đã được UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Hệ thống phịng thủ ở các cửa biển
Đà Nẵng là một trong những hải cảng quan tr ọng và giữ v ị th ế chi ến l ược
của đất nước. Vào thời Nguyễn Đà Nẵng càng có một vị thế vơ cùng quan tr ọng
vì nó nằm rất gần Kinh thành Huế, chính bởi vì thế mà tri ều đình Nguy ễn đã r ất
chú trọng xây dựng hệ thống phịng thủ liên hồn, quy mô, kiên cố ở những
điểm then chốt của thành phố này. Để phòng ngừa sự thâm nhập trái phép c ủa
các tàu phương Tây và cấm các giáo sĩ truyền đạo hoạt động, nên việc phòng thủ
và cấp báo ở cửa biển Đà Nẵng dưới thời Minh Mạng được xếp vào tình trạng
tối khẩn. Lực lượng quân đội của triều đình được bố phịng ở cửa bi ển Đà Nẵng
cũng tăng cường theo thời gian. “Năm 1838, quân số giữ cửa Đà Nẵng là 39
người, đặt dưới sự chỉ huy của quan Lãnh binh t ỉnh Qu ảng Nam, Năm 1847, d ưới
triều Thiệu Trị còn đặt thêm chức Lãnh binh thủy sư tỉnh Qu ảng Nam” 10.
Để bảo vệ cửa Đà Nẵng, Năm 1813 Gia Long đã cho xây dựng hai thành
Điện Hải và An Hải, thiết kế theo kiểu thành Vauban, đứng đầu m ỗi thành là

quan thành úy. Triều Nguyễn còn cho xây dựng một hệ thống đồn lũy dày đặc để
kiên cố để bảo vệ cảng Đà Nẵng ở cự ly gần. ở bên trái cửa Đà N ẵng là đ ồn H ải
10 PGS.TS Sử học Đỗ Bang (2011), Hệ thống phòng thủ miền trung dưới triều Nguyễn, Nxb.Văn hóa – Thơng
tin, trang 57

17


Châu, Phước Ninh, Thạc Gián, ở bên phải có các đ ồn Hóa Khê, Mỹ Th ị. Th ậm chí
ngay mũi đất nhơ ra giữa sơng Hàn cịn có đồn Nại Hiên nhằm ch ặn đánh nh ững
chiến thuyền địch muốn dùng đường sông để tiến vào nội địa. V ới h ệ th ống
những cơng trình phịng thủ đó đã cho thấy rằng Đà Nẵng trong m ắt tri ều đình
Huế có một vị trí cực kì quan trọng đối với việc bảo vệ kinh thành Huế.
Thuận An được biết tới từ thời nhà Hồ, lúc đó cửa biển này mang tên cửa
Eo, sau này đổi thành cửa Noãn rồi cửa Nhuyễn, mãi đến năm 1813 Gia Long
mới đổi tên cửa Nhuyễn thành cửa Thuận An. Thuận An là cửa bi ển quan tr ọng
bậc nhất của kinh đô Huế, triều đình cho đặt thủ sở, đặt một ch ức th ủ ng ữ và
một chức tấn thủ, có 3 đội lính lệ có nhiệm vụ đi tuần phịng ngoài bi ển. Để b ảo
vệ cửa biển quan trọng này triều đình đặt ra chức quan thành th ủ úy qu ản lính
vệ Phịng hải đứng đầu, đặt qn đội thường trực có 7 đội Vệ tấn binh phịng
hải. Để canh phòng cho cửa ngõ quan trọng này tri ều đình khơng nh ững ch ỉ s ử
dụng những đội lịnh ứng trực mà còn chú ý đến lực l ượng ngư dân đ ịa ph ương,
để đi tuần thám, phát hiện những hiện tượng bất thường báo cáo cho tri ều
đình. Lực lượng phịng giữ cửa biển Thuận An cũng ngày m ột được tăng c ường,
phiên chế quân ngũ, phân công ứng trực cũng vô cùng chặt chẽ. “Văn bản pháp
quy năm 1832 cả triều đình ghi rõ: số lính thu ộc lệ tấn th ủ c ửa bi ển Thu ận An là
124 người, nay phiên chế làm ba đội Thuận An Nhất, Nh ị và Tam; m ỗi đ ội do m ột
viên chánh đội trưởng và hai viên đội trưởng chỉ huy” 11. Cũng giống như cửa Đà
Nẵng triều đình Huế cũng xây dựng nên một hệ thống phịng thủ liên hồn v ới
những pháo đài đồn lũy dày đặc cả trên đất liền cũng như trên biển.

Ngồi hệ thống phịng thủ qn sự quan trọng ở hai cửa bi ển có v ị trí chi ến
lược then chốt để bảo vệ kinh thành Huế là Đà Nẵng và Thuận An tri ều Nguy ễn
còn cho bố phòng ở các cửa biển khác như Tả Trực (Quảng Nam, Qu ảng Ngãi),
Hữu Trực (Quảng Trị, Quảng Bình), Tả Kỳ (Bình Định, Phú Yên), Hữu Kỳ (Hà
Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa.
Hệ thống cơng trình phịng thủ vùng núi

11 PGS.TS Sử học Đỗ Bang (2011), Hệ thống phịng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn, Nxb.Văn hóa – Thông
tin, trang 71

18


Triều Nguyễn cho xây dựng các đồn, bảo để trực tiếp bảo vệ các nguồn
(đơn vị hành chính ở miền núi, tương đương với các tổng). Số lượng đồn và binh
lính tùy thuộc vào tình hình an ninh ở các địa phương. Quân lính trong các đ ồn
chủ yếu được tuyển ngay ở địa phương lúc có biến thì thường được tăng thêm
qn lính ở tỉnh và triều đình. Qn số ở các đồn thường khơng đồng đều, trung
bình từ 40 đến 50 binh lính canh gác. Triều đình thực hi ện ch ế đ ộ luân phiên
trấn giữ, cứ 6 tháng đến một năm thì cho đổi lính, đặc biệt ở những nơi có nhi ều
lam chướng thì cứ 3 tháng là luân phiên. “Theo liệt kê trong sách Đại nam nhất
thống chí (bản triều Tự Đức), đến giữa thế kỉ XIX, miền Trung có đến 180 đồn,
bảo; trong đó lũy dài Tĩnh Man ở Quảng Ngãi chiếm 114 b ảo; sau đó là t ỉnh Bình
Định 23 bảo”12. Trong hệ thống đồn lũy miền núi xây dựng dưới thời nhà Nguyễn
thì Tĩnh man trường lũy ở Quảng Ngãi là nổi tiếng nhất.
Có thể nói nhà Nguyễn đã khơng hề có thái độ chủ quan mà cịn r ất nghiêm
túc trong việc xây dựng hiện đại hóa quân đội ngày càng vững m ạnh h ơn. Ngay
từ khi lật đổ vương triều Tây Sơn nhà Nguyễn đã cho xây dựng m ột đội quân đ ủ
mạnh với lực lượng thường trực lên tới hàng chục vạn binh lính. Đồng th ời nhà
Nguyễn cũng rất chú trọng việc tổ chức, phiên chế quân đội m ột cách ch ặt chẽ,

tiến hành sản xuất, mua vũ khí của nước ngồi để trang bị cho các binh ch ủng.
Tuy vũ khí dưới thời Nguyễn được trang bị còn khá lạc hậu so với tư bản
phương Tây nhưng so với các nước trong khu vực thì khơng thua kém b ất kì
quốc gia nào. Nhưng qn số đơng hay trang bị vũ khí hi ện đại không ph ải là
yếu tố quyết định đến thành bại của cuộc chiến. Trên thực tế nước ta đã từng
khuất phục rất nhiều đạo quân xâm lượt đơng hơn gấp nhiều lần, trang bị vũ
khí hiện đại hơn rất nhiều. Từ đó mới thấy được rằng trong chi ến đấu chống
kẻ thù xâm lược thì yếu tố lòng dân mới là nhân tố quy ết định th ắng l ợi c ủa
cuộc chiến, tồn dân một lịng thì dù kẻ thù có mạnh đ ến đâu cũng có th ể đánh
bại, nhược bằng dân đã khơng theo thì cầm chắc thất bại trong tay. Như T ả
tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã có câu nói nổi tiếng: Thần không s ợ đánh, ch ỉ
12 PGS.TS Sử học Đỗ Bang (2011), Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn, Nxb.Văn hóa – Thơng
tin, trang 143-144.

19


sợ lịng dân khơng theo. Chính vì vậy mà cho dù đã tổ chức quân đ ội r ất ch ặt
chẽ, bố trí phịng thủ dày đặc nhưng nhà Nguyễn chỉ có th ể đứng vững trong
một thời gian ngắn khi Pháp sang xâm lược nước ta.
1.4.

Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn từ 1802-1858

1.4.1. Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước lân bang
Dựa vào những tài liệu lịch sử cho phép chúng ta khẳng định trong các t ất
cả các quan hệ ngoại giao với các nước lân bang, tri ều Nguy ễn đ ặt quan h ệ
ngoại giao với nhà Mãn Thanh (Trung Quốc) lên hàng ưu tiên s ố một.
Ngay từ năm 1802, vua Gia Long đã cử hai sứ đoàn sang nhà Thanh, đem
giao lại cho nhà Thanh những sách ấn mà họ đã ban cho tri ều đình Tây S ơn và

xin đặt quốc hiệu “Việt Nam”. Các vua triều Nguyễn xem vi ệc tuyên phong của
nhà Thanh là điều rất quan trọng. Nếu chưa có lễ tuyên phong đ ối v ới v ị vua k ế
vị triều Nguyễn thì coi như chưa được thừa nhận chính thống; cịn được cơng
nhận và phong vinh thì mới thật là chính thống, trong nước sẽ khơng có m ột l ực
lượng nào dám tranh giành cơ nghiệp đế vương của mình.
Triều Nguyễn có thơng lệ là đều đặn cử sứ đồn mang cống phẩm sang
dâng nộp cho nhà Thanh. Ngoài ra cứ mỗi lần nhà Thanh có l ễ mừng hay cáo
tang, triều Nguyễn đều cử sứ bộ mang lễ vật sang dâng nộp. chẳng hạn năm Gia
Long thứ 18, nhân dịp mừng thọ 60 tuổi của vua Gia Khánh, tri ều Nguy ễn c ử s ứ
đoàn cho cần chánh điện học sĩ Nguyễn Xuân Tình dẫn đầu sang chúc mừng.
Theo Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, do Nội các triều Nguyễn biên
soạn, có thể thấy rằng trong năm quyển ghi chép vấn đề bang giao thì b ốn
quyển thực chất là ghi chép về quan hệ giữa triều Nguyễn và nhà Mãn Thanh.
Bốn cuốn này ghi chép tỉ mỉ những quy định chặt chẽ mà triều Nguyễn phải thực
hiện trong quá trình quan hệ với nhà Thanh, từ thể thức vi ệc sai s ứ, l ễ ph ẩm, đ ệ
văn thư đến thể thức tiếp sứ nhà Thanh. Đại lễ tuyên phong, đại l ễ dụ t ế, l ễ
tiếp kiến. Tất cả những điều này thể hiện nhà nước Việt Nam dưới tri ều các
vua Nguyễn vẫn có nhu cầu duy trì quan hệ chủ nhà v ới th ượng qu ốc b ằng
phương cách gửi cống phẩm. Thực tế đó cũng chỉ ra rằng, sự mong muốn có
quan hệ hịa hiếu để góp phần đảm bảo an ninh quốc gia Vi ệt Nam. Đây cũng là
20


cách đảm bảo giá trị phong vương mà hoàng đế tiên tri ều đã ban cho Vi ệt Nam
và những người kế vị; và cũng là dịp trao đổi tặng v ật, mặc dù t ặng v ật ngày
càng giảm. Triều đình Huế có cơ hội nhận được nhiều tặng vật quý giá k ể c ả
thương phẩm lẫn các sản phẩm “tinh thần” từ phía triều đình nhà Thanh.
Trước âm mưu đẩy mạnh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp vào những
năm 70 của thế kỉ XIX, Tự Đức đã lấy quan hệ tôn chủ đ ể cầu cứu nhà Thanh
đánh Pháp. Việc làm này một mặt là sự phản kháng thực dân Pháp Xâm l ược,

nhưng mặt khác lại biểu hiện một tinh thần ỷ lại, dựa dẫm khơng cịn gi ữ v ững
quyền tự chủ, tự cường dân tộc. Tuy nhiên nhà Thanh lúc này không đ ủ s ức đ ể
giữ vũng chủ quyền của đất nước họ trước ý đồ xâm lược của các nước phương
Tây. Nhà Thanh cũng đã giúp đỡ nhưng vì mục đích của mình mà đã nhanh chóng
bắt tay với Pháp và bỏ mặc Việt Nam. Mỗi khi đạt được th ỏa thu ận v ới tri ều
Nguyễn thực dân Pháp đều sử dụng nhà Mãn Thanh đ ể bảo tr ợ v ề Pháp lý qu ốc
tế cho nhưng kết quả của chính sách xâm lược của chúng.
Trong quan hệ với nhà Thanh khơng phải cái gì tri ều Nguy ễn cũng nhất
mực phục tùng, phụ thuộc. thông thường từ Gia Long đến Minh M ạng, Thiêu Tr ị
sứ nhà Thanh chỉ đến Thăng Long làm lễ tuyên phong cho các vua tri ều Nguy ễn
nhưng sau này thì các sứ nhà Thanh phải đến tận kinh đô Hu ế để làm l ễ cho các
vua Nguyễn. Đối với những hành động nhà Thanh xâm phạm ch ủ quy ền lãnh
thổ của Việt Nam triều Nguyễn đã kiên quyết đối phó để thu hồi hay bảo v ệ đ ất
đai của tổ quốc.
Triều Nguyễn cũng rất quan tâm đến mối quan hệ v ới các n ước Đông Nam
Á. Đặc biệt thời trị vì của vua Minh Mạng được xem là đỉnh cao c ủa các quan h ệ
này. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước lân này có tính ch ất đa d ạng, ph ức t ạp
hơn đó là quan hệ giữa nước “bảo hộ” và nước “được bảo hộ” ( chủ yếu là gi ữa
Việt Nam và hai vương quốc Ai Lao và Cao Miên). Cịn quan h ệ v ới các n ước
Đơng Nam Á khác đôi lúc đã diễn ra đụng độ quân s ự căng th ẳng, nh ưng nhìn
chung nét nổi bạt là quan hệ “hòa hiếu thân thiện”.
Các sự kiện trong quan hệ giữa triều Nguyễn với Ai Lao và Cao Miên chủ
yếu là việc các sứ thần hay đích thân các quốc vương của hai n ước này đến Vi ệt
21


Nam yêu cầu được giúp đỡ, tạ ơn,…còn triều Nguyễn đóng vai trị người b ảo h ộ
đúng mực, có tinh thần trách nhiệm và không cố bám gi ữ địa v ị “b ảo h ộ” c ủa
mình.
Quan hệ triều Nguyễn với vương quốc Xiêm La vừa tế nhị, vừa phức tạp, ít

ổn định chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt và dụng độ chủ y ếu là quan h ệ
giữa hai nước lớn trong khu vực đối với vấn đề Chân Lạp và V ạn Tượng. Tri ều
Nguyễn với cách xử trí mềm dẻo, song kiên quyết đã gi ữ được độc l ập tự chủ
của đất nước. Và cuối cùng vẫn giữ được mối quan hệ hòa hảo, thân thi ện v ới
Xiêm La, quan hệ này được thể hiện qua thăm hỏi tặng lễ vật chúc mừng.
Theo sử của nhà Nguyễn thì ba lần quốc vương Miến Điện cử sứ thần sang
Việt Nam dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng và Thiêu Trị. V ề phía tri ều Nguy ễn
thì cũng có đơi lần cử sứ thần hoặc thủ hạ đến Mi ến Đi ện. có th ể nói rằng tri ều
Nguyễn và Miến Điện vừa muốn liên kết để đối phó với ảnh hưởng của Xiêm La
vừa khơng thể liên kết vì triều Nguyễn muốn giữ gìn quan h ệ ổn đ ịnh v ới Xiêm
La. Nhưng nhà Nguyễn cũng không bao giờ tỏ ý nghiêng về bên nào.
So với vương quốc Xiêm La và Miến Điện thì đối với các n ước trong khu
vực Đông Nam Á như Malaysia, Inđônêsia, Philiphin tri ều Nguy ễn ch ỉ có quan h ệ
về bn bán chủ yếu là quan hệ từ một phía – là nhà Nguy ễn. Ngồi ra tri ều
đình cịn cử quan lại đi công cán ở các nước này.
Các vua triều Nguyễn đều ý thức được tầm quan tr ọng của chính sách
ngoại giao và việc bang giao với các nước. Ngay trong những ngày đầu tiên lên
ngôi, vua Tự Đức đã ban bố “Bang giao chi ếu”. Từ đó chúng ta có th ể th ấy đ ược
các vua triều Nguyễn cũng đã nhận thức rất đúng về t ầm quan tr ọng c ủa chính
sách ngoại giao với các nước lân cận.
Nhìn chung, triều Nguyễn có một chính sách ngoại giao rõ ràng, m ềm d ẻo
và có thể nói là phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách đó l ấy quan h ệ ngo ại
giao với Mãn Thanh làm trung tâm, chú ý đến các nước có quan h ệ đ ồng văn,
đồng chủng với Việt Nam. Cố gắng phát huy vai trò trung tâm trong các kh ối
nước trên bán đảo Đông Dương. Tuy phục tùng nhà Thanh nhưng tri ều Nguy ễn

22


cũng không mù quáng phục tùng và chịu lép vế đối v ới nhà Thanh v ề v ấn đ ề ch ủ

quyền và tồn vẹn lãnh thổ.
Chính sách ngoại giao rộng rãi của triều Nguyễn chủ yếu diễn ra trong th ời
hai vua đầu đó là Gia Long và Minh Mệnh, đến vua Thi ệu Tr ị và T ự Đ ức thì quan
hệ thưa dần. Nhưng nhìn chung thì chúng ta có thể kết lu ận các m ối quan h ệ đó
có lúc căng thẳng – đụng độ có lúc thân thi ện – hịa hi ếu ch ứa đ ựng chính sách
gây ảnh hưởng bành trướng thế lực của nhà Nguyễn với chính sách tương tự
của vương quốc Xiêm La và Miến Điện đối với Ai Lao và Cao Miên. Mặt khác nó
cũng chứa đựng những mâu thuẫn giữa các nước Đông Nam Á v ới các n ước
phương Tây. Từ đó có thể thấy được tình hình chính trị rất phức tạp lúc bấy gi ờ.
Có thể nói nhà Nguyễn có một chính sách ngoại giao bảo thủ, thi ển cận v ới
phương Tây nhưng với các nước trong khu vực thì vua quan nhà Nguy ễn cũng đã
có cái nhìn thực tế và cư xử khá hợp lí cho phù hợp v ới b ối c ảnh l ịch s ử lúc b ấy
giờ.
1.4.2. Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước phương Tây
Ở thời Gia Long trị vì (1802-1820), chính sách ngoại giao của Triều đình
nhà Nguyễn đối với Pháp là khá hòa nhã cởi mở ở th ời kỳ đ ầu, nguyên nhân
phần nhiều vì Gia Long muốn trả ơn những người Pháp, đặc biệt là Giám mục
Bá Đa Lộc đã giúp đỡ ông trong công cuộc đánh đuổi Tây Sơn th ống nhất đ ất
nước. Việc buôn bán trao đổi với người Pháp vẫn còn r ất c ởi m ở, Gia Long cũng
tạo rất nhiều điều kiện để các nhà bn Pháp dễ dàng hịa nh ập v ới Vi ệt Nam
như phái người trong triều đình đến giúp đỡ, miễn thuế cho các tàu buôn, ch ỉ
dẫn nên đem mặt hàng gì đến để bán,…
Tuy nhiên, Gia Long vẫn rất hết sức cẩn trọng trong việc đi lại với người
Pháp, đặc biệt là một sự kiện làm triều đình nhà Nguy ễn khơng th ể khơng đ ề
phịng ý đồ của Pháp. Đó là vào năm 1817, m ột thuy ền trưởng của tàu buôn
Pháp là Kergariou xin được gặp gỡ dâng quà cho Gia Long và nhắc đ ến Hi ệp ước
1787. Gia Long phái quan đến tiếp đãi tử tế nhưng không cho Kergariou tri ều
kiến với lý do Kergariou khơng có quốc thư. Đối lại với thái đ ộ này c ủa Gia Long,
người Pháp lúc đó khi thì trách sự độc đốn chun chế của ơng, khi thì trách
23



Kergariou nhắc lại Hiệp ước 1787 làm nhà vua bất mãn, tức giận. Dù là nguyên
nhân gì người Pháp bày ra để biện giải cho s ự th ất b ại này đi chăng n ữa thì đây
cũng là sự kiện để triều đình nhà Nguyễn phải càng đề phịng s ự nhịm ngó c ủa
Pháp hơn.13
Nhà vua khơng ký kết bất kỳ một hiệp ước nào với Chính phủ Pháp cũng
như những thương nhân và các nhà truyền giáo người Pháp. Nói một cách khác,
bởi vẫn cịn vướng mắc việc nhờ người Pháp giúp đỡ nên vua Gia Long không
thể thẳng thắn khước từ những yêu cầu của người Pháp, nhà vua một mặt ph ải
giữ thái độ dung hịa, một mặt phải tìm mọi cách để từ chối ký kết hi ệp ước v ới
người Pháp. Thế nhưng chủ trương chống Pháp của vua Gia Long v ẫn đ ược th ể
hiện ra ít nhiều trong những quyết định của mình. Đặc bi ệt là ở cu ối th ời kỳ tr ị
vì của mình, Gia Long đã bắt đầu siết chặt hơn những chính sách đ ối v ới các tàu
bn Pháp. Việc chọn hồng tử Đảm (Minh Mạng sau này) làm người k ế v ị mình
cũng được xem là một hành động điển hình nhất trong việc thể hiện chủ tr ương
này của Gia Long.
Đối với nước Anh, tuy Gia Long giữ thái độ hữu hảo với người Pháp nh ưng
lại không mấy mặn mà với người Anh. Trước khi lên ngôi, giữa Nguy ễn Ánh và
người Anh đã có xích mích, sau khi lên ngôi, lại chịu ảnh hưởng bởi của nh ững v ị
quan người Pháp trong triều mà Gia Long lại càng khơng mu ốn giao th ương v ới
người Anh.
Cịn đối với Hoa kỳ thì cũng khơng được mấy thuận lợi, chủ yếu vì các th ương
nhân và tàu Mỹ đến Việt Nam vào cuối th ời Gia Long – đ ầu th ời Minh M ạng, khi
nhà Nguyễn đã bắt đầu có những sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của
mình đối với các nước phương Tây, khơng cịn thả lỏng như trước mà cứng r ắn
hơn.14
Nói chung, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn vào giai đo ạn này v ẫn
chưa rõ nét, chủ yếu là chính sách hai mặt, một ph ần thân thi ện giao h ảo, ph ần
13 Dẫn theo Đinh Xuân Lâm, “Triều Nguyễn trước âm mưu bành trướng của tư bản Phương Tây (1802-1858)”,

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 11-12/1993, tr. 5.
14 Dẫn theo Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước Phương Tây dưới triều Nguyễn
(1802-1858), Nxb. Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh, tr. 73.

24


vẫn đề phòng dè chừng. Chủ trương đề phòng dè chừng này càng ngày càng tr ở
nên cứng rắn hơn, bảo thủ hơn vào cuối thời Gia Long. Nguyên nhân là Gia Long
đã nhận ra ngày một rõ ràng dã tâm của chủ nghĩa tư bản phương Tây, mà đại
diện ở đây là Pháp, muốn tìm lợi cho mình ở Việt Nam, nhưng Gia Long vẫn chưa
thể có một đường lối đối sách cụ thể để đối phó với ý định này của người Pháp.
Dù sao thì những đường lối này của ông chưa giúp giải quyết được những mối
đe dọa từ Pháp, nhưng cũng chưa gây hại gì cho đất nước, thế nên để đánh giá
được trách nhiệm của Gia Long trong cái “tội” không giữ được nền đ ộc l ập dân
tộc thì cần phải có cái nhìn khách quan hơn, phù h ợp v ới hoàn c ảnh l ịch s ử lúc
bấy giờ.
Đối với thời Minh Mạng (1820-1840) thì những chính sách của tri ều đình
trong ngoại giao với Pháp ở thời kỳ đầu là tương đối gi ống v ới th ời c ủa vua cha
Gia Long, đó là vẫn giữ giao hảo với Pháp. “Thời gian này cịn được xem là giai
đoạn hịa hỗn (1820-1824) trong quan hệ giữa Việt Nam và các n ước ph ương
Tây dưới triều Minh Mạng”15. Tuy nhiên, từ những chính sách mềm dẻo, hịa
hỗn ban đầu, triều đình nhà Nguyễn đã dần dần si ết chặt thành chính sách
cứng rắn. Điển hình cho việc chuyển đổi chính sách đó là khi các phái đồn
thương nhân, chính khách Pháp từ năm 1821 đến năm 1824 đến và xin được
gặp gỡ nhà vua thì Minh Mạng chỉ sai quan lại ti ếp đón chu đáo nh ưng l ại t ừ
chối gặp gỡ cùng từ chối nhận tặng phẩm của họ. Chỉ khi sứ đoàn do
J.B.Chaigneau đến Việt Nam với tư cách là đặc sứ của Hồng đế Pháp thì Minh
Mạng mới đích thân đón tiếp, tuy nhiên, những nỗ lực của Chaigneau trong vi ệc
thiết lập mối quan hệ với Việt Nam lúc này vẫn khơng thành cơng.

Tình trạng này vẫn còn kéo dài từ năm 1825 đến 1831 mà chuy ển bi ến l ại
xấu đi. Năm 1829, Chaigneau được cử sang làm lãnh sự nhưng vua Minh Mạng
khơng chấp thuận. Trong thời gian này Tịa Lãnh sự Pháp tại Huế bị vô hi ệu và
đến năm 1830 thì bị đóng cửa vĩnh viễn16. Từ năm 1831 thì Pháp khơng cịn làm
15 Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước Phương Tây dưới triều Nguyễn (1802-1858),
Nxb. Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh, tr. 91.
16 Nguyễn Đức Chí, Việc Bang giao giữa Đại Nam và các nước Tây dương dưới triều vua Thánh Tổ (18201840), Tiểu luận Cao học sử, Sài Gòn, 1973, tr. 167.

25


×