Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đánh giá tác dụng giảm nồng độ các hợp chất lưu huỳnh bay hơi của thuốc súc miện Listerine và thuốc súc miệng Proginvex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.85 KB, 21 trang )

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG GIẢM NỒNG ĐỘ CÁC HỢP CHẤT LƯU
HUỲNH BAY HƠI CỦA THUỐC SÚC MIỆNG LISTERINE
®

THUỐC SÚC MIỆNG PROGINVEX
®



TÓM TẮT
Mở đầu: Đinh hương và Bạch chỉ là những vị thuốc cổ truyền Đông y dùng
cho nhiều chỉ định, trong đó có điều trị chứng hôi miệng. Hiện nay, hai dược
liệu này được bào chế thành dung dịch Proginvex. Đề tài này được thực hiện
nhằm đánh giá tác dụng giảm nồng độ các hợp chất lưu huỳnh bay hơi - VSCs
của thuốc súc miệng Listerine và thuốc súc miệng Proginvex.
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của Listerine và Proginvex đối với nồng độ VSCs
sau khi súc miệng một giờ (T
1
), hai giờ (T
2
), ba giờ (T
3
) và sau một tuần súc
miệng đều đặn (T
t
); so sánh tác dụng giảm nồng độ VSCs của Listerine và
Proginvex; đánh giá các tác dụng không mong muốn và ghi nhận cảm quan về
mùi vị của hai loại thuốc súc miệng trên.
Phương pháp: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng bắt chéo, tiến hành trên 30
sinh viên khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược thành phố Hồ chí Minh, chia
ngẫu nhiên vào hai nhóm thử nghiệm: súc miệng Listerine (liều súc miệng 20


ml pha loãng ½), súc miệng Proginvex (liều súc miệng 40 giọt pha trong 40 ml
nước). Mỗi đối tượng trong hai nhóm thử nghiệm đều lần lượt sử dụng hai loại
thuốc súc miệng, xen kẽ là thời kỳ rửa. Sau thử nghiệm hai tuần không dùng
thuốc súc miệng, số liệu được dùng như nhóm chứng. Nồng độ VSCs được đo
bằng máy Halimeter vào các thời điểm một giờ, hai giờ, ba giờ sau khi súc
miệng và sau một tuần súc miệng đều đặn.
Kết quả: trong ngày đánh giá đầu tiên, nồng độ VSCs giữa các thời điểm đo
của hai nhóm Listerine và Proginvex khác biệt không có ý nghĩa. Ở nhóm
chứng, nồng độ VSCs giữa thời điểm T
0
và T
2
khác biệt có ý nghĩa (p<0,001).
Nồng độ VSCs của nhóm Listerine thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa ở thời
điểm T
2
(p<0,001), T
3
(p<0,05). Nồng độ VSCs của nhóm Proginvex thấp hơn
nhóm chứng có ý nghĩa ở thời điểm T
2
(p<0,05). Sau một tuần súc miệng đều
đặn, nồng độ VSCs của nhóm Listerine và Proginvex khác biệt không có ý
nghĩa (p>0,005) so với T
0
. Cảm nhận về vị của nhóm Proginvex tốt hơn nhóm
Listerine. 33,3% đối tượng cảm thấy vị Listerine khó chịu và 20% cảm thấy vị
rất khó chịu; 56,7% cho biết có cảm giác cay và 43,3% có cảm giác bỏng rát
khi súc miệng Listerine.
Kết luận: nồng độ VSCs giảm sau khi súc miệng Listerine và Proginvex một

giờ, hai giờ, ba giờ so với không súc miệng; sự khác biệt có ý nghĩa ở thời điểm
hai giờ và ba giờ đối với Listerine và ở thời điểm hai giờ đối với Proginvex.
Không nhận thấy hiệu quả giảm nồng độ VSCs sau một tuần súc miệng đều
đặn với cả hai loại thuốc trên. Tác dụng giảm nồng độ VSCs của Listerine và
Proginvex khác biệt không có ý nghĩa.
Từ khóa: hợp chất lưu huỳnh bay hơi – VSCs, chứng hôi miệng, Listerine,
Proginvex, súc miệng, máy Halimeter.
ABSTRACT
ASSESS THE EFFECT OF LISTERINE AND PROGINVEX ON THE
CONCENTRATION OF VSCS
Vo Thi Hoang Yen, Hoang Tu Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol.14 - Supplement of No 1-2010: 322 - 327
Background: the Angelique and Giroflier are herbs used in many medicinal
indications, including the treatement of halitosis. Thesedays, they are prepared
in the product named Proginvex. We conducted this topic to assess the effect of
Listerine and Proginvex on the concentration of VSCs.
Objectives: assess the effect of Listerine and Proginvex on the concentration of
VSCs an hour, two hours, three hours after rinsing and after a week of daily
rinsing; compare that effect of Listerine and Proginvex; assess undesirable
effects and opinions on the smell and the taste of Listerine and Proginvex.
Method: the crossover clinical trial was carried out on 30 students of the
Faculty of Odonto Stomatology, University of Science Mediacales Ho Chi
Minh City. They were randomly selected in two test groups Listerine (dose of
20ml rinse diluted ½) and Proginvex (dose of 1.5ml diluted 1/26). Each subject
of the two groups will use in turn these two mouthwash. After each period, a
rest period will take one week before starting the next one. After two week
without rinsing, these events are used as controlers. The concentration of VSCs
is measured by Halimeter before washing, at time points an hour, two hours,
three hours after rinsing and after a week of daily rinsing. Results: there was no
significant difference between time points of mesurement in VSCc of groups

Listerine and Proginvex. In controller, the values of VSCc measured at T
0
and
T
2
are significantly different (p<0.001). The value of Listerine VSCc is
significantly lower than that of controller at T
2
(p<0.001), T
3
(p<0.05). So is
Proginvex at T
2
(p<0.05). At T
t
, VSCc of two groups are not significantly
different (p>0.05) comparing with that at T
0
. The taste of Proginvex is
commentid to be more agreeable than that of Listerine. 33.3% of subject feel
uncomfortable with taste of Listerine, 20% feel terrible; 56.7% of subject
remark to be hot and 43.3% remark to be burned once rinsing with Listerine.
Conclusion: the VSCs decreased one hour, two hours, three hours after rinsing
with Listerine and Proginvex comparing with the condition of no rinsing, but
the difference was only significant three hours after rinsing with Listerine, two
hours after rinsing with Proginvex. There were no decrease in concentration of
VSCs after a week of daily rinsing. The effect of Listerine and Proginvex is not
significantly different.
Keywords: VSCs, halitosis, Listerine, Proginvex, rinsing, Halimeter.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Hôi miệng ảnh hưởng đến hàng triệu người trên thế giới và là một trong
những than phiền chính của bệnh nhân khi tìm đến nha sĩ. Nhiều nghiên cứu
đã chứng minh rằng nguyên nhân chính gây ra hôi miệng là những phân tử
có mùi bay hơi (bao gồm các hợp chất lưu huỳnh và các axít hữu cơ) được
sinh ra từ các vi khuẩn trong môi trường miệng, chủ yếu là những vi khuẩn
trên bề mặt lưng lưỡi
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Vì
vậy, việc đưa tác nhân kháng khuẩn vào thuốc súc miệng cũng là một biện
pháp hữu hiệu chống hôi miệng, bên cạnh các biện pháp vệ sinh răng miệng
cơ học như chải răng, chải lưỡi.
Hiện nay, phần lớn các thuốc súc miệng điều trị là những sản phẩm công
nghiệp. Trong đó, Listerine được xem là loại thuốc súc miệng có hiệu quả
kháng khuẩn hàng đầu, được chứng nhận bởi ADA (Hiệp hội Nha Khoa Hoa
Kỳ) vào năm 1987
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.)
. Nghiên cứu của Fine DH và cộng sự (2005) đã cho thấy
tác dụng điều trị hôi miệng lâu dài của Listerine. Bên cạnh đó, trong xu
hướng phát triển các ứng dụng y học cổ truyền

và các liệu pháp điều trị bằng
thảo dược, tinh dầu đã được chứng minh hiệu quả kháng khuẩn phổ rộng qua
nhiều nghiên cứu trên thế giới
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.)
. Những hỗn hợp tinh dầu chanh, trà xanh và bạc hà… đã được đề nghị
sử dụng để điều trị hơi thở hôi. Đinh hương, Bạch chỉ cũng là những thảo
dược có chứa tinh dầu, từ lâu đã được dùng trong các bài thuốc dân gian
chữa chứng hôi miệng

(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.)
. Hai loại thảo dược này được chiết xuất toàn phần, kết
hợp bào chế thành dạng dung dịch súc miệng Proginvex.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: 30 sinh viên khoa Răng Hàm Mặt ĐHYD Tp.HCM,
trong độ tuổi từ 18 – 24, thỏa các tiêu chí: không có bệnh toàn thân (bệnh
đường hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu, tiểu đường...); không sử dụng thuốc điều
trị toàn thân, tại chỗ; không có bệnh lý vùng miệng (bệnh nha chu, lở loét,
áp xe…); không có những biến dạng thông thường (lưỡi bản đồ, lưỡi
lông…) và những tổn thương cơ bản (dát sắc tố, mụn mủ, mụn nước, vết
loét…) ở lưỡi, nướu, niêm mạc khẩu cái và niêm mạc miệng; không sử dụng
thuốc súc miệng trong khoảng thời gian một tuần trước khi tham gia nghiên
cứu; không mang khí cụ chỉnh hình; không mang hàm giả.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng bắt chéo.
Phương pháp tiến hành
Cách pha thuốc: với Listerine, pha 20 ml thuốc trong 20 ml nước, súc miệng
trong 30 giây hai lần mỗi ngày sau khi chải răng. Với Proginvex, pha 40 giọt
thuốc trong 40 ml nước, súc miệng trong 30 giây hai lần mỗi ngày sau khi
chải răng.
Các thời kỳ thử nghiệm: 30 đối tượng nghiên cứu được chia thành hai nhóm
(mỗi nhóm gồm 15 đối tượng), đều trải qua ba đợt đánh giá nồng độ VSCs,
giữa đợt một và đợt hai là thời kỳ rửa một tuần. Sau đợt sử dụng thuốc súc
miệng thứ nhất, hai nhóm bắt chéo (nhóm súc miệng Proginvex chuyển sang
súc miệng Listerine và nhóm súc miệng Listerine chuyển sang súc miệng
Proginvex). Sau hai đợt sử dụng thuốc súc miệng là thời kỳ rửa hai tuần. Đợt
đánh giá thứ ba của cả hai nhóm được sử dụng như nhóm chứng. Sau ba đợt
đánh giá, số liệu được tổng hợp thành ba nhóm (Listerine, Proginvex và

chứng).
Sau một tuần súc miệng với thuốc Listerine và Proginvex, mỗi đối tượng
nghiên cứu được khám và ghi nhận biểu hiện của dị ứng nếu có (lưỡi bản đồ,
mụn nước, bóng nước, hồng ban…); vết chợt, vết loét; vết dính trên răng,
miếng trám và niêm mạc. Ngoài ra, mỗi đối tượng nghiên cứu sẽ đưa ra cảm
nhận về mùi và vị ở năm mức độ (rất khó chịu, khó chịu, chấp nhận được, dễ
chịu, rất dễ chịu), và đưa ra nhận xét chung.

×