Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Đề tài sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.42 KB, 57 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU...............................................................................................................................1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN cơ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ
Tự DO DÂN CHỦ VÀ Tự DO CÁ NHÂN 3
1.1.

Khái

niệm

Công

dân.....................................................................................................3
1.2.

Quyền

bản

Cff

của

công

dân........................................................................................6
1.2.1.


Khái niệm quyền cơ bản của công

dân.............................................................6
1.2.2.

Đặc

điểm

các

quyền



bản

của

công

quyền



bản

của

công


dân.......................................................8
1.2.3.

Phân loại

các

dân.......................................................10
1.3.

Quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân

11

1.3.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá
nhân...............................................................................................................................
...11
1.3.2. Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong
Hiến

pháp

Nam..........................................................................................................13

Việt


2


CHƯƠNG II: Sự KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUYỀN cơ BẢN CỦA
CÔNG DÂN VÈ Tự DO DÂN CHỦ VÀ Tự DO CÁ NHÂN QUA CÁC
BẢN

HIẾN

PHÁP

NƯỚC

TA..................................................................................................15
2.1. Quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong
Hiến

Pháp

1946.............................................................................................................................15
2.2. Quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong
Hiến

Pháp

1959.............................................................................................................................20
2.3. Quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong
Hiến

Pháp

1980.............................................................................................................................26
2.4. Quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong

Hiến

pháp

1992.............................................................................................................................32
CHƯƠNG III: VIỆC BẢO ĐẢM THựC HIỆN CÁC QUYỀN cơ BẢN
CỦA CÔNG DÂN VỀ Tự DO DÂN CHỦ VÀ Tự DO CÁ NHÂN TRONG
GIAI

ĐOẠN

HIỆN

NAY.............................................................................................................43
3.1. Thực tiễn thực hiện các quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và
tự

do



nhân............................................................................................................................43
3.1.1. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 1992 trong các văn bản quy
phạm
khác

pháp

luật


43


3

3.1.2. Việc thực hiện trên thực tế các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân
của

công

dân...........................................................................................................................45
3.2.

Một sổ giải pháp nhằm bảo đảm các quyền Cff bản của công dân về tự do

dân chủ và tự do cá nhân trong giai đoạn hiện nay

47

3.2.1. Việc hoàn thiệncácquy phạm pháp luật điều chỉnh các quyền về tự do
dân chủ và tự do cá nhâncủa cơng dân............................................................48
3.2.2. Hồn thiện cơ chế tồ chức thực hiện các quyền cơ bản của công dân về
tự do dân chủ và tự do cá nhân.............................................................................51
KẾT LUẬN................................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Tính đến nay lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua hơn nửa thế kỷ. Tuy đây là
một khoảng thời gian không dài so với lịch sử lập hiến hơn hai trăm năm của các nuớc

Pháp, Mỹ và nhiều nuớc khác trên thế giới nhung nuớc ta đã có bốn bản Hiến pháp đánh
dấu các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, từ Nhà nuớc dân chủ nhân dân
đến Nhà nuớc xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của các chế định khác nhu Quốc
hội, Chủ tịch nuớc, Chính phủ,...chế định về Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
đuợc quy định trong Hiến pháp cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện để đáp ứng nhu
cầu chính đáng của nguời dân và phù hợp với điều kiện thực tế của đất nuớc. Ngay từ
bản Hiến pháp đầu tiên 1946, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đuợc quy
định ngay tại chng II, sau chng quy định về Chính thể. Với bản Hiến pháp đầu tiên
này, nguời dân Việt Nam từ cảnh lầm than, nô lệ đã thực sự trở thành nguời làm chủ đất
nuớc, làm chủ vận mệnh của mình bằng việc Hiến pháp cơng nhận cơng dân Việt Nam
có quyền bầu cử, ứng cử, có quyền tự do ngơn luận, tự do tín nguỡng, tự do đi lại...Từ
đây địa vị pháp lý của nguời dân nuớc ta chính thức đuợc xác lập và ghi nhận trong đạo
luật cơ bản của Nhà nuớc. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nuớc ta, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tiếp tục đuợc ghi
nhận, mở rộng, bổ sung thêm nhiều quyền mới tại các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.
Đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi nhận một cách tuơng đối đầy đủ và hoàn thiện về chế
định này.
Trong số các quyền cơ bản của công dân đuợc các bản Hiến pháp của nuớc ta ghi
nhận thì các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân ln chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng. Bởi lẽ các quyền này thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nuớc, thể hiện
bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nuớc ta, mức độ giải phóng cá nhân con nguời, đảm
bảo cho con nguời đuợc sống trong độc lập, tự do. Vì vậy, việc đảm bảo thực hiện trên
thực tế các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công
dân luôn đuợc Đảng và Nhà nuớc ta rất quan tâm. Công dân đã nhận thức đuợc tầm quan
trọng của các quyền đó đối với mình cũng nhu gắn liền quyền lợi của mình đối với các
quy định đó. Tuy nhiên, từ việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật đến việc bảo đảm
thực hiện trên thực tế, công tác tổ chức thực hiện những quy định của Hiến pháp về
quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của cơng dân vẫn cịn nhiều vấn đề bất cập. Đó là
thủ tục hành chính cịn rườm rà, gây nhiều rắc rối cho nhân dân, một số quyền đã đuợc
quy định trong Hiến pháp nhung vẫn chua có luật cụ thể hóa và chua đuợc đảm bảo thực



hiện trên thực tế...
Truớc thực tế đó, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu nhóm quyền này của cơng dân qua
các bản Hiến pháp Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp góp phần hồn thiện nó trong
sự nghiệp đổi mới của nuớc ta hiện nay có một ý nghĩa vô cùng quan trọng về lý luận và
thực tiễn. Xuất phát từ lý do đó em đã chọn đề tài: “Sự kế thừa và phát triển các
quyền Cff bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến
Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích của khóa luận là: Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, so sánh các quyền cơ
bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong các bản Hiến pháp 1946,
1959, 1980 và 1992 để thấy đuợc tính kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với bản
Hiến pháp truớc đó khi quy định về vấn đề này. Từ đó sẽ đề ra phuơng huớng, giải pháp
góp phần hồn thiện, bổ sung các quyền này của công dân cho phù hợp với giai đoạn
hiện nay của đất nuớc.
về phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Khóa luận đi sâu vào nghiên cứu sự kế thừa
và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân qua các
bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 hiện hành.
Trong q trình nghiên cứu, khố luận đã sử dụng các phuơng pháp biện chứng
duy vật, phuơng pháp lịch sử, phuơng pháp phân tích, phuơng pháp so sánh, phuơng
pháp thống kê, phuơng pháp tổng hợp, phuơng pháp hệ thống và kết hợp với khảo sát
thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
về bố cục của khóa luận: ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận đuợc chia làm ba chuơng:
Chương I: Khái quát chung về quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự
do cá nhân
Chương II: Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân
chủ và tự do cá nhân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Chương III: Việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của công dân về tự do dân
chủ và tự do cá nhân trong giai đoạn hiện nay

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VÈ QUYỀN cơ BẢN
CỦA CÔNG DÂN VÈ Tự DO DÂN CHỦ VÀ Tự DO CÁ NHÂN
Ở nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế định quan trọng
của Hiến pháp và là đối tượng chủ yếu của nền Hiến pháp dân chủ - Hiến pháp xã hội


chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết quyền con người, quyền công dân trong việc soạn
thảo, xây dựng, sửa đổi và ban hành Hiến pháp phù hợp với tình hình thực tế trong từng
giai đoạn lịch sử. Xuyên suốt trong quá trình lịch sử lập hiến của Việt Nam, đó là tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng chính quyền Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân”, coi sự phát triển của cá nhân con người về mọi mặt là mục tiêu cao cả
nhất. Vì vậy, quyền con người, quyền công dân không ngừng được mở rộng, được tôn
trọng, được bảo vệ và có tính hiện thực.
Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân được ghi nhận
trong Hiến pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với công dân cũng như đối với Nhà
nước và xã hội. Nó là cơ sở nền tảng cho việc xác định các quyền cụ thể khác của công
dân và được quy định trong Hiến pháp - văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Trước khi tìm hiểu về các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cần nghiên cứu một số vấn đề lý luận và khái niệm liên
quan đến nhóm quyền này.

1.1. Khái niệm Cơng dân
Trong xã hội, con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với người khác và chịu tác
động, ảnh hưởng của môi trường xã hội. Mỗi chế độ xã hội đều có các cá nhân là những
con người chịu sự chi phối của điều kiện chính trị, kinh tế, đời sống xã hội, hồn cảnh xã
hội và trình độ văn minh của chế độ xã hội ấy. Cá nhân thường được quan niệm là một
con người xã hội cụ thể, hay nói cách khác cá nhân là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Trong xã hội có giai cấp mỗi cá nhân đều thuộc về một giai cấp, tầng lớp nhất định. Bất
kỳ Nhà nước nào và vào bất kỳ thời đại nào, giai cấp thống trị nắm Nhà nước ln tìm

mọi cách tác động vào cá nhân nhằm tạo ra một mẫu người phù họp với mong muốn, lợi
ích của giai cấp mình, của thời đại mình đang thống trị.
Con người sinh ra trong thời đại có Nhà nước ln có mối liên hệ, quan hệ với
Nhà nước. Quan hệ đó được thiết lập trên cơ sở pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia trong quan hệ. Con người đó trở thành công dân của Nhà nước.
Như vậy, trong mối quan hệ giữa một cá nhân và một Nhà nước nhất định khoa học
pháp lý hình thành nên khái niệm cơng dân. Vậy, cơng dân là
gì?


Công dân là cá nhân trong quan hệ với Nhà nước và pháp luật, là sự xác định
về mặt pháp lỷ một thể nhân thuộc về một Nhà nước nhất định. Nhờ sự xác định này
mà con người có các quyền do Nhà nước ghi nhận, được Nhà nước bảo đầm, bảo hộ
các quyền, lợi ích ở trong nước cũng như khi ở nước ngoài và phải làm các nghĩa vụ
công dân đối với Nhà nước. Ngược lại Nhà nước có những quyền u cầu cơng dân
của mình thực hiện các nghĩa vụ cơng dân và Nhà nước có những nghĩa vụ đối với
cơng dân của mình.
Khái niệm cơng dân ra đời từ lâu trong lịch sử nhưng nó chỉ trở thành thuật ngữ
pháp lý khi Nhà nước tư sản ra đời và được sử dụng rộng rãi trong xã hội tư sản và xã
hội Xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện mối quan hệ pháp lý đặc thù giữa Nhà nước với một
số người nhất định, xác định địa vị pháp lý của cá nhân trong Nhà nước và xã hội. Nhờ
khái niệm cơng dân mà chúng ta có thể xác định được những quyền mà công dân được
hưởng, những nghĩa vụ mà công dân phải thực hiện đối với Nhà nước của mình và
ngược lại, Nhà nước cũng có trách nhiệm đảm bảo cho các quyền của cơng dân được
thực hiện, đồng thời yêu cầu công dân thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
So với khái niệm cá nhân thì khái niệm cơng dân hẹp hơn, bởi cá nhân bao gồm
những người là công dân và những người khơng phải là cơng dân. Và trong một quốc
gia thì khơng chỉ có cơng dân của quốc gia đó mà cịn có thể có cơng dân nước ngồi
hoặc người khơng quốc tịch (khơng phải là cơng dân của bất kì quốc gia nào), thậm chí
có người mang nhiều quốc tịch. Hay nói cách khác khơng phải mọi cá nhân sinh sống

trên lãnh thổ của một quốc gia đều được coi là cơng dân của quốc gia đó. Một cá nhân
muốn trở thành cơng dân thì cần những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó có thể
giống hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia quy định. Điều 49 Hiến
pháp 1992 của nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân nuớc
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nguời có quốc tịch Việt Nam”. Nhu vậy, theo
quy định này thì điều kiện để một nguời trở thành công dân Việt Nam là nguời đó phải
có quốc tịch Việt Nam. Hay nói cách khác ai có quốc tịch Việt Nam thì nguời đó là cơng
dân Việt Nam. Quốc tịch là trạng thái pháp lý xác định một cá nhân thuộc về một Nhà
nuớc nhất định và là tiền đề pháp lý cần thiết để một cá nhân có thể huởng các quyền và
thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật của Nhà nuớc đó quy định. Qua đó có thể thấy khái


niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch; muốn xác định nguời nào đó có phải là
cơng dân Việt Nam hay khơng thì phải xem họ có quốc tịch Việt Nam hay không. Quốc
tịch Việt Nam là căn cứ duy nhất để xác định một nguời nào đó là cơng dân Việt Nam.
Có thể nói việc đặt ra khái niệm cơng dân có một ý nghĩa rất quan trọng. Điều này
thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nuớc thì nguời đó sẽ đuợc huởng đầy đủ các
quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nuớc đó quy định. Cịn những
nguời khơng phải là cơng dân của Nhà nuớc sở tại thì quyền và nghĩa vụ của họ bị hạn
chế trong một số lĩnh vực nhu: họ khơng có quyền tham gia quản lý Nhà nuớc và xã hội;
khơng có quyền quyền bầu cử, ứng cử; họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ qn sự
và tham gia xây dựng quốc phịng tồn dân,...Mặt khác, khái niệm công dân thể hiện
mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại cả trong truờng hợp cơng dân Việt
Nam đã ra nuớc ngồi sinh sống nhung vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là cơng dân Việt Nam vẫn có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy
định của pháp luật hiện hành dù họ ở trong nuớc hay nuớc ngoài. Việc sinh sống ở trong
hay ngoài nuớc sẽ không ảnh huởng đến tu cách công dân khi mà họ vẫn mang quốc tịch
Việt Nam. [18].
Tóm lại, việc xác định một nguời có quốc tịch Việt Nam liên quan trực tiếp đến
việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với Nhà nuớc Việt

Nam. Tất cả những người có quốc tịch Việt Nam đều là công dân Việt Nam và dù họ
sinh sống ở trong nước hay nước ngồi thì họ đều có những quyền và nghĩa vụ cơ bản
của một công dân Việt Nam. Giữa Nhà nước và cơng dân có mối liên hệ qua lại và cùng
có trách nhiệm, Nhà nước phải đảm bảo các quyền công dân và công dân phải thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.

1.2. Quyền cơ bản của công dân
1.2.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân Mối quan hệ giữa Nhà
nước và công dân chủ yếu được thể hiện thông qua quy định về quyền và nghĩa vụ của
công dân. Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân
tạo nên quy chế pháp lý của công dân. Quy chế pháp lý của công dân bao gồm nhiều chế
định khác nhau như: vấn đề quốc tịch; năng lực pháp luật và năng lực hành vi của công
dân; các nguyên tắc Hiến pháp của quy chế pháp lý của công dân; các quyền, tự do và


nghĩa vụ pháp lý của công dân; các biện pháp đảm bảo để quyền, nghĩa vụ công dân
được thực hiện trong thực tế... Mỗi chế định điều chỉnh một mặt trong địa vị pháp lý của
công dân và được hợp lại tạo thành quy chế pháp lý của công dân. Địa vị pháp lý của
công dân mỗi nước là khác nhau vì chúng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội của
Nhà nước đó. Điều này liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa
vụ của cơng dân giữa các nước có điều kiện kinh tế phát triển với các nước có nền kinh
tế chậm phát triển.
Tư cách công dân đã tạo cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc biệt, một quan hệ
đặc biệt với một Nhà nước nhất định, khác với những người không phải là công dân.
Mối quan hệ đặc biệt đó được thể hiện thành quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Đối với nước ta vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được ghi nhận
thành một chương của Hiến pháp. Ngay từ Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã dành chương II để quy định về “Nghĩa vụ và quyền
lợi công dân”. Những quyền được quy định trong Hiến pháp được gọi là quyền cơ bản
và những người có tư cách công dân được Nhà nước quy định cho hưởng những quyền

nhất định đó gọi là quyền cơ bản của cơng dân.
Như vậy, có thể hiểu quyền cơ bản của cơng dân là khả năng của mỗi công dân được tự
do lựa chọn những hành vi được quy định trong Hiến pháp và được Nhà nước bảo đảm
thực hiện.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: Các quyền cơ bản của công dân là hệ thống các
quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, xuất phát từ quyền công dân và
không tách rời nghĩa vụ của công dân, biểu hiện mối quan hệ đặc biệt quan trọng
giữa công dân và Nhà nước, được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế nhằm
thỏa mãn những nhu cầu của đời sống cơng dân và tồn xã hội [18, Tr.30].
Các quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp được gọi là các quyền cơ
bản trước hết vì nó xác định những mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công
dân. Mặt khác, những quyền này lại được quy định trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Do vậy, các quyền cơ bản của công dân là cơ sở chủ yếu, có ý nghĩa quyết định để xác
định địa vị pháp lý của công dân, xác định các quyền cụ thể khác của công dân ở mọi
cấp độ và trong mọi ngành luật. Các quyền này xuất phát từ quyền con người (nhân


quyền), nên việc ghi nhận chúng trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất của Nhà
nước là nhằm bảo vệ và khơng xâm phạm chúng trong q trình thực hiện quyền lực
Nhà nước.
Trên thực tế, mỗi công dân chỉ có thể tham gia vào một lĩnh vực sinh hoạt xã hội
nhất định, đảm nhiệm một chức năng xã hội nhất định tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều
kiện, khả năng riêng của mỗi người. Do đó, các quyền cơ bản của công dân được quy
định trong Hiến pháp phải được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong các luật khác. Trong từng
thời kỳ nhất định, tùy theo mức độ hồn thiện của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong xã hội, Nhà nước quy định về quyền cơ bản của công dân
và các biện pháp bảo đảm thực hiện trên thực tế. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho mỗi
cơng dân được làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, sử dụng đúng đắn các quyền cơng dân
của mình, tích cực tham gia các sinh hoạt xã hội, đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


1.2.2.

Đặc điểm các quyền cơ bản của công dân
Các quyền cơ bản của công dân được bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị,

chế độ kinh tế, xã hội của Nhà nước. Do đó, chúng đều được xác lập, thực hiện và phát
triển phù hợp với điều kiện, hồn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
đất nước. Các quyền cơ bản của công dân luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình độ phát triển của xã hội. Đồng thời mỗi nhóm quyền lại phản ánh đặc
điểm chung ấy bằng những biểu hiện riêng của mình xuất phát từ tính chất, nội dung của
quan hệ xã hội được Hiến pháp điều chỉnh. Khi tìm hiểu về các quyền cơ bản của công
dân trong Hiến pháp, ta thấy chúng có các đặc điểm sau:
- Các quyền cơ bản của công dân thường được xuất phát từ các quyền tự nhiên
thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc ... và là các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận
trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền (1948) và hai Công ước về Quyền con người
(Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966, Cơng ước quốc tế về
các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966 của Liên Hợp Quốc).
- Các quyền cơ bản của công dân là những quyền thuộc các lĩnh vực quan trọng
và cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Chúng là cơ sở chủ yếu
để xác định địa vị pháp lý của công dân. Các quyền cơ bản của công dân được quy định


trong Hiến pháp là cơ sở đầu tiên cho việc ghi nhận các quyền khác của công dân trong
các ngành luật. Ví dụ: các quyền về lao động của cơng dân do Luật lao động quy định
như quyền được hưởng lương, quyền được nghỉ phép, quyền được nghỉ hưu đều dựa
trên cơ sở quyền lao động của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
- Các quyền cơ bản của công dân gắn liền với các quyền dân tộc cơ bản là độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, tự do, dân chủ, bình đẳng, hạnh phúc.
Đặc điểm này phản ánh tư tưởng cách mạng triệt để của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của

Đảng ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, tư tưởng đó là: Cơng dân
chỉ thực sự được hưởng các quyền cơ bản của mình khi họ được sống trong một nước
độc lập, tự do, có chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Việc các bản Hiến pháp của
nước ta quy định các quyền cơ bản của công dân gắn liền với các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam vừa phản ánh thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta,
vừa phù hợp với các văn bản chính trị - pháp lý quốc tế mà nước ta tham gia ký kết hoặc
phê chuẩn.
- Các quyền cơ bản của công dân có nguồn gốc phát sinh khác với các quyền cụ
thể khác của công dân. Cơ sở duy nhất làm phát sinh các quyền cơ bản của cơng dân
chính là quyền cơng dân - nghĩa là người đó phải có quốc tịch Việt Nam, còn cơ sở phát
sinh các quyền cụ thể khác của công dân là sự tham gia của họ vào các quan hệ pháp
luật, là các sự kiện pháp lí,...
- Các quyền cơ bản của cơng dân gắn liền với quyền làm chủ Nhà nước của công
dân mà thực chất của nó là: khi cơng dân làm chủ Nhà nước thì Nhà nước trở thành cơng
cụ chủ yếu để cơng dân thực hiện quyền lực của mình; các cơ quan nhà nước, viên chức
nhà nước đều xuất phát từ nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân; cơng dân phải được
hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp gắn liền với tư cách cơng dân của mình, đồng thời
cũng phải làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
- Các quyền cơ bản của công dân mang tính chất nhân đạo sâu sắc, thấm đượm
đạo đức và văn hóa truyền thống của dân tộc, được thể hiện qua một số quyền như:
quyền của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người và gia đình có cơng với cách
mạng được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước...
- Các quyền cơ bản của công dân mang tính giai cấp rõ rệt. Qua những quy định của


Hiến pháp về các quyền cơ bản của công dân và đảm bảo của Nhà nước, có thể thấy tính
giai cấp được thể hiện rõ ràng và được bảo đảm một cách nhất quán. Nội dung các
quyền cơ bản của công dân phản ánh bản chất, mục tiêu của chế độ chính trị - xã hội xã
hội chủ nghĩa - một chế độ vì con người, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem
lại cho con người quyền được sống tự do, dân chủ, bình đẳng, hạnh phúc.

- Các quyền cơ bản của công dân được sửa đổi, bổ sung và mở rộng qua bốn bản
Hiến pháp. Mỗi bản Hiến pháp của nước ta luôn dành hẳn một chương quy định về
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân với số lượng quyền ngày càng tăng. Việc mở
rộng các quyền cơ bản của công dân thể hiện sự quan tâm thường xuyên của Đảng và
Nhà nước ta tới con người, luôn coi con người là mục tiêu cao nhất của mọi chủ trương,
chính sách, pháp luật đồng thời cũng thể hiện sự biến đổi và phát triển của đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử.

1.2.3. Phân loại các quyền cơ bản của cơng dân
Có nhiều cách để phân loại các quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp tùy
theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu. Đe hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn
về các quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp và dựa vào các lĩnh vực mà cơng dân
có quyền, có thể phân chia các quyền cơ bản của cơng dân thành các quyền về chính trị;
các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội và các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân.
+ Các quyền cơ bản của cơng dân về chính trị thể hiện quyền làm chủ Nhà nước
của công dân, phản ánh sinh động tính chất dân chủ về chính trị của chế độ ta, nhằm đáp
ứng nhu cầu, lợi ích hợp pháp của cơng dân về tư tưởng chính trị và hoạt động chính trị
để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ví dụ: quyền tham gia quản lý Nhà nước và
xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền bầu cử và ứng
cử vào các cơ quan Nhà nước; quyền khiếu nại, tố cáo. [16, Tr 57].
+ Các quyền cơ bản của công dân về kinh tế, văn hóa, xã hội có một ý nghĩa rất
lớn. Các quyền về kinh tế thể hiện quyền làm chủ về kinh tế của công dân, vừa phục vụ
nhu cầu, lợi ích vật chất của con người, vừa sáng tạo ra những giá trị văn minh vật chất
cho bản thân và cho xã hội (ví dụ: quyền lao động, quyền sở hữu, quyền tự do kinh
doanh, quyền xây dựng nhà ở). Còn các quyền cơ bản của cơng dân về văn hóa nhằm
thỏa mãn nhu cầu nâng cao dân trí nói chung để hiểu biết, khám phá, sáng tạo ra những


giá trị văn minh tinh thần cho bản thân và cho xã hội (ví dụ: quyền học tập, quyền

nghiên cứu khoa học, kĩ thuật,..). Các quyền cơ bản của công dân về xã hội nhằm đáp
ứng nhu cầu và lợi ích thiết yếu cho cuộc sống khỏe mạnh, an toàn và hạnh phúc của
con người, góp phần to lớn vào việc tạo ra môi trường xã hội lành mạnh để cho mọi
người được sống bình yên, hạnh phúc (quyền bình đẳng nam nữ, quyền được hưởng
chính sách ưu đãi của các đối tượng thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, quyền được
bảo hộ hơn nhân gia đình, quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe...)
+ Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân đáp ứng nhu
cầu, lợi ích hợp pháp của công dân về mặt dân sự, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân công
dân được sống và hoạt động một cách tự do, dân chủ, bình đẳng với người khác theo quy
định của pháp luật; được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc, cấm đoán để tự làm chủ
cuộc sống của mình, cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho sự nghiệp phát triển xã
hội. Ví dụ: quyền tự do đi lại và cư trú; quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền
được thơng tin; quyền hội họp, lập hội, biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín...
Các quyền cơ bản của cơng dân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau. Hiệu quả của việc thực hiện nhóm quyền này là tiền đề, là điều kiện để bảo
đảm hiệu quả thực hiện các nhóm quyền khác, ví dụ: việc thực hiện các quyền về chính
trị sẽ tạo điều kiện để cơng dân làm chủ Nhà nước của mình, được tự do, bình đẳng, qua
đó họ sẽ làm chủ được các mặt khác về kinh tế, văn hóa, xã hội và làm chủ được chính
bản thân mình. Đồng thời khi cơng dân đã được hưởng các quyền trong lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội, tự do dân chủ và tự do cá nhân thì sẽ tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền về chính trị một cách vững chắc và tự tin hơn.

1.3. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá
nhân
1.3.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ
và tự do cá nhăn



Trong hệ thống các quyền cơ bản của cơng dân mà Hiến pháp quy định thì các
quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân chiếm số lượng lớn vì chúng liên


quan trực tiếp tới cuộc sống và tự do của mỗi người. Đồng thời nó phản ánh bản chất
của Nhà nước, trình độ dân chủ của xã hội, mức độ giải phóng cá nhân con người. Lịch
sử nhân loại đã chứng minh rằng trong bất kì xã hội nào, các quyền về tự do của con
người và công dân luôn là vấn đề được toàn xã hội quan tâm và bảo vệ. Ngày nay, bất kì
quốc gia tiến bộ nào trên thế giới có Hiến pháp thành văn cũng đều quy định trong Hiến
pháp các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đây là một bước tiến bộ lớn của mối quan
hệ Nhà nước - công dân trong lịch sử nhân loại và cũng là tư tưởng, nội dung cơ bản của
chủ nghĩa lập hiến.
Như phần trên đã phân tích, các quyền cơ bản của cơng dân là những quyền được
Nhà nước quy định trong Hiến pháp. Những quyền này thường được xuất phát từ quyền
con người, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm
phạm. Quyền cơ bản của cơng dân là cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công
dân, là cơ sở cho việc quy định các quyền cụ thể khác của công dân. Mỗi quyền cơ bản
của công dân là một khả năng mà luật cơ bản của Nhà nước trao cho công dân được
hưởng gì, được làm gì, được u cầu gì từ phía Nhà nước và xã hội phù hợp với pháp
luật và khả năng, điều kiện thực tế của đất nước để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích
chính đáng của mình.
Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân thể hiện đậm
nét bản chất dân chủ của Nhà nước. Bởi lẽ những quyền này có mối liên hệ mật thiết với
cá nhân từng công dân, cho phép họ được sống trong tự do, dân chủ, không bị ngăn cấm
hoặc lệ thuộc vào người khác. Dưới góc độ pháp lý, quyền tự do dân chủ của công dân
được hiểu là những quyền mà công dân có được do chế độ dân chủ mang lại, ví dụ:
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự do hội họp, tự do
lập hội,...còn quyền tự do cá nhân được hiểu là những quyền của bản thân mỗi người,
không thể chuyển giao cho người khác, được tự quyết định cuộc sống của mình, ví dụ:
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền tự do đi

lại và cư trú...Tuy nhiên sự phân biệt này không phải là tuyệt đối. Các quyền này đều ghi
nhận các vấn đề liên quan đến tự do của mỗi cơng dân, có quan hệ gắn bó với nhau, do
đó việc phân biệt một cách rạch ròi đâu là quyền về tự do dân chủ, đâu là quyền về tự do
cá nhân không phải là vấn đề đơn giản và còn nhiều quan điểm trái ngược nhau. Do vậy,


khi phân loại các quyền cơ bản của công dân nguời ta gộp chung quyền “tự do dân chủ”
và “tự do cá nhân” thành một nhóm quyền trong Hiến pháp. Các quyền cơ bản của công
dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân có liên hệ mật thiết với các quyền khác về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, thể hiện địa vị của cơng dân đuợc tự do trong những lĩnh vực
thiết yếu của cuộc sống để phát triển về mọi mặt.
Từ những phân tích trên, có thế hiếu các quyền cơ bản của cơng dân về tự do dân chủ
và tự do cả nhân là các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, cho phép
công dân được tự do đi lại và cư trú; tự do ngôn luận, tự do báo chí; được thơng tin;
được hội họp, lập hội và biếu tình theo quy định của pháp luật; được tự do tín ngưỡng,
tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào; được bất khả xâm phạm về thân thế và
được suy đốn vơ tội khỉ chưa có bản án kết tội của tồ án đã có hiệu lực pháp luật;
quyền được bất khả xâm phạm về chó ở; được Nhà nước đảm bảo an tồn, bỉ mật về thư
tín, điện thoại, điện tín. Những quyền này được Hiến pháp quy định cho tất cả mọi công
dân hoặc cho cả một nhóm người, một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội.

1.3.2. Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá
nhân trong Hiến pháp Việt Nam
Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân ngày càng đuợc
quy định mở rộng và hoàn thiện hơn trong các bản Hiến pháp nuớc ta. Ke thừa các bản
Hiến pháp 1946, 1959 và 1980, các quyền này trong Hiến pháp 1992 đã quy định cụ thể
hơn, mang tính khả thi cao, thể hiện quá trình phát triển liên tục về phuơng diện chính trị
- pháp lý cũng nhu trình độ, kĩ thuật lập hiến của nuớc ta. Là một bộ phận hợp thành
quan trọng của các quyền cơ bản của công dân, các quyền về tự do dân chủ và tự do cá
nhân đuợc thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau của đời sống xã hội. Các quyền cơ

bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân là một trong những nhóm quyền
hiến định của cơng dân, do đó chúng mang những đặc điểm chung của các quyền cơ bản
của công dân.
Hiện nay, theo Hiến pháp 1992, các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ
và tự do cá nhân bao gồm: quyền tự do đi lại và cu trú ở trong nuớc;
quyền đi ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật; quyền tự
do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền được thơng tin; quyền hội họp; quyền lập hội;


quyền biểu tình theo quy định của pháp luật; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể và được suy đốn vơ tội khi chưa có bản án kết tội của tịa
án đã có hiệu lực pháp luật; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân. Việc ghi nhận các quyền cơ bản của công dân về tự do
dân chủ và tự do cá nhân có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Trước hết, về mặt
lý luận, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước làm cơ sở pháp lý cho việc xác định
các quyền cụ thể khác của cơng dân. Do đó, trên cơ sở các quyền mà Hiến pháp ghi
nhận, cơ quan lập pháp sẽ cụ thể hóa thành các luật tương ứng, tạo điều kiện để cơng
dân có thể thực hiện được quyền của mình, ví dụ: Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo 2004
ra đời là để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được thực hiện trên
thực tế; Luật cư trú năm 2006 ra đời là nhằm bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự
do cư trú đã được Hiến pháp 1992 quy định.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, trước đây nhân dân ta phải sống dưới ách thống trị của
Đế quốc, thực dân nên nhân dân ta khơng được tự do, khơng có quyền mà chỉ được coi
là nô lệ. Do vậy, độc lập, tự do, làm chủ vận mệnh của đất nước và bản thân luôn là khát
vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta. Khi Hiến pháp ghi nhận các quyền cơ bản
của cơng dân trong đó có quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân, điều đó thể hiện rằng
bản chất của Nhà nước ta thực sự dân chủ, người dân được giải phóng về mọi mặt, được
Nhà nước tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản và thiết yếu nhất mà một con người
cần phải có.
Bảo đảm các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân là tạo điều kiện

cho sự phát triển của từng cá nhân. Qua đó thúc đẩy cho xã hội phát triển, bởi sự phát
triển toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của toàn xã hội. Trên cơ sở
bảo đảm các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của cơng dân thì mới có thể nói đến
sự tham gia của mỗi cá nhân vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
CHƯƠNG II: Sự KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUYỀN cơ BẢN
CỦA CÔNG DÂN VÈ Tự DO DÂN CHỦ VÀ Tự DO CÁ NHÂN
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP NƯỚC TA
Lịch sử lập hiến nước ta cho thấy, mỗi bản Hiến pháp là một dấu son đánh dấu
bước ngoặt của cách mạng, của xã hội, của nhân dân ta: Hiến pháp 1946 của chặng


đường vừa kháng chiến vừa kiến quốc; Hiến pháp 1959 với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà; Hiến
pháp 1980 của thời kỳ đất nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp 1992
thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ bản
Hiến pháp đầu tiên 1946, các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá
nhân đã được ghi nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,.. .Đen các bản
Hiến pháp sau, các quyền này tiếp tục được khẳng định, đồng thời có sự bổ sung, mở
rộng thêm.

2.1.

Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá

nhân trong Hiến Pháp 1946
Ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Sau khi chính quyền cách mạng non trẻ được thành
lập một thời gian ngắn, ngày 9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã được
Quốc hội thơng qua. Ra đời trong hồn cảnh lịch sử có nhiều khó khăn, phức tạp, Hiến
pháp 1946 thực sự là một cơng cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu quả nhất để bảo vệ nền

độc lập dân tộc, tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định địa vị pháp lý của công dân. Với
Hiến pháp 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những người dân nô lệ trước đây
thực sự trở thành người chủ của đất nước, được bảo đảm các quyền tự do, dân chủ trên
nhiều phương diện. Điều này được thể hiện rõ nét qua các quy định về quyền tự do dân
chủ và tự do cá nhân của công dân. Các quyền này đã được Hiến pháp 1946 ghi nhận
khá cụ thể, có ý nghĩa và tác động lớn đến đời sống của cơng dân.
• Quyền tự do ngơn luận, tự do xuất bản, tự do tồ chức và hội họp
Các quyền này được Hiến pháp 1946 lần đầu tiên ghi nhận tại Điều 10: “Cơng
dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngơn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp”
Nhu vậy, Hiến pháp đã khẳng định công dân Việt Nam có các quyền cơ bản và
thiết yếu nhất đối với mỗi công dân. Đây là những quyền rất quan trọng nhằm đảm bảo
cho cơng dân có những điều kiện cần thiết để tham gia chủ động, tích cực vào vào các


hoạt động của Nhà nuớc và xã hội.
* Quyền tự do ngôn luận
Lần đầu tiên trong lịch sử nguời công dân Việt Nam đuợc Hiến pháp 1946 ghi
nhận quyền tự do ngôn luận. Quyền này đuợc hiểu là công dân đuợc tự do phát biểu ý
kiến, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình về các vấn đề chung của xã hội, của đất
nuớc. Mọi nguời đều có quyền đua ra ý kiến và giữ quan điểm của mình mà không bị
ngăn cấm. Pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lí đối với việc cơng dân đua ra
chính kiến của mình, mọi biểu hiện trù úm, trả thù vì tu tuởng, chính kiến cá nhân đều bị
xử lí theo pháp luật. Việc Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền tự do ngơn luận của cơng dân
có ý nghĩa rất lớn. Nó khẳng định một trong những quyền cơ bản của nguời dân đuợc
Nhà nuớc ta tôn trọng; Nhà nuớc cho phép công dân đuợc tự do phát biểu ý kiến, nêu lên
quan điểm của mình thơng qua báo chí, hội họp.
* Quyền tự do xuất bản của công dân cũng đã đuợc Hiến pháp 1946 ghi nhận và

đảm bảo trên thực tế. Việc ghi nhận quyền này thể hiện bản chất thực sự dân chủ của
Nhà nuớc ta bởi quyền tự do xuất bản là một quyền rất dân chủ, rất cơ bản của công dân
đã đuợc bản Hiến pháp đầu tiên ghi nhận. Đáng tiếc là trong các bản Hiến pháp sau này
của nuớc ta đã không tiếp tục ghi nhận quyền tự do xuất bản với tu cách là một quyền cơ
bản của công dân trong Hiến pháp nhu Hiến pháp 1946 đã ghi nhận. Việc Hiến pháp
1946 đã ghi nhận quyền tự do xuất bản của công dân có ý nghĩa vơ cùng quan trọng,
nhất là trong hoàn cảnh lịch sử của nuớc ta lúc bấy giờ, khi Thực dân Pháp quay trở lại
xâm luợc nuớc ta, rất nhiều các tác phẩm văn học, sách, báo,...với mục đích cổ vũ, khích
lệ tinh thần yêu nuớc, đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã ra đời, ví dụ: tờ
báo Đất Việt ở
Quảng Ngãi, báo Cứu quốc, báo Sự thật... Có thể nói việc Hiến pháp 1946 ghi nhận
quyền tự do xuất bản của công dân đã thể hiện quy định khá rộng rãi và dân chủ của Nhà
nuớc ta về vấn đề này.
• Quyền tự do tổ chức và hội họp
Các tổ chức đoàn thể có vai trị rất lớn trong đời sống của nhân dân. Do đó việc
thành lập và tham gia vào các tổ chức, các đoàn thể vừa là một nguyện vọng chính đáng
của nhân dân vừa là quyền mà cơng dân yêu cầu Nhà nuớc phải đảm bảo. Hiến pháp


1946 khẳng định cơng dân có quyền tự do tổ chức và hội họp, đuợc hiểu là công dân
đuợc tự do thành lập các tổ chức và có quyền hội họp mà không bị ngăn cấm. Đây là các
quyền cực kì quan trọng của cơng dân đã đuợc Hiến pháp 1946 ghi nhận. Quyền tự do tổ
chức đuợc Hiến pháp 1946 ghi nhận với nghĩa là tự do thành lập các tổ chức - tự do lập
hội nhung việc sử dụng cụm từ “tự do tổ chức” để chỉ quyền tự do lập hội là chua thật sự
chính xác nên đến các bản Hiến pháp sau, nó đã đuợc quy định rõ là quyền tự do lập hội.
Ghi nhận các quyền này của công dân đã thể hiện rằng, bản chất của nhà nuớc ta thực sự
dân chủ.
• Quyền tự do tín ngưỡng
Hiến pháp 1946 quy định cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng (Điều 10). Điều đó
có nghĩa là Nhà nước cho phép công dân được tự lựa chọn tín ngưỡng cho mình, có thể

theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng nào. Khơng một ai kể cả Nhà nước có quyền bắt
ép cơng dân phải theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng nhất định. Tuy nhiên, có thể thấy
việc Hiến pháp 1946 quy định quyền tự do tín ngưỡng của công dân chung với các
quyền khác trong một điều luật là không hợp lý và chưa thể hiện được tầm quan trọng
của quyền này bởi vấn đề tín ngưỡng thuộc đời sống tâm linh của con người là một vấn
đề rất phức tạp, nên quy định riêng thành một điều luật. Các bản Hiến pháp của nước ta
sau này đã khắc phục được hạn chế này của Hiến pháp 1946.
• Quyền tự do cư trú, đỉ lại trong nước và ra nước ngồi của cơng dân Điều
10 Hiến pháp 1946 khẳng định cơng dân có quyền “tự do cư trú, đi lại trong nước và ra
nước ngoài”. Như vậy, Nhà nước cho phép công dân Việt Nam được
tự do lựa chọn chỗ ở cho mình ở bất kì đâu trên lãnh thổ Việt Nam, được tự do đi lại
trong nước và tự do đi ra nước ngoài mà khơng bị ai can thiệp hoặc ngăn cấm. Trong đó
việc Hiến pháp ghi nhận quyền tự do đi ra nước ngồi của cơng dân là một sự tiến bộ
lớn, một quy định khá rộng rãi của Nhà nước dành cho công dân khi mà ở vào thời điểm
Nhà nước non trẻ mới được thành lập, tình hình chính trị cịn nhiều phức tạp. Quy định
này của Hiến pháp 1946 cho thấy cơng dân Việt Nam có quyền tự do rất rộng trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 quy định như vậy mới chỉ thấy được quyền của
công dân mà chưa thấy được sự quản lý của Nhà nước đối với quyền tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngồi của cơng dân. Mặt khác cũng giống như quyền tự do tín


ngưỡng, quyền tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngồi của cơng dân được quy
định chung trong một điều luật cùng với các quyền khác là khơng hợp lý.
• Quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Trong tất cả các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp đầu tiên quy định, không
thể không kể đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Đây là quyền cơ
bản nhất trong tất cả các quyền con người đã được Nhà nước non trẻ đầu tiên tuyên bố
và bảo đảm trong đạo luật cơ bản. Điều 11 Hiến pháp 1946 quy định: “Tư pháp chưa
quyết định thì khơng được bắt bớ và giam cầm người cơng dân Việt Nam...”. Quy định
này có nghĩa là không phải cơ quan nào cũng được phép bắt, giam cầm công dân một

cách tuỳ tiện mà chỉ được phép bắt, giam cầm người cơng dân khi có quyết định của cơ
quan tư pháp. Hay nói cách khác, chỉ có cơ quan tư pháp mới có quyền quyết định việc
bắt, giam người công dân. Quy định này của Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý để bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, ngăn ngừa sự vi phạm từ phía
cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 quy định như vậy chỉ thấy được sự ngăn
ngừa việc xâm phạm thân thể của cơng dân từ phía Nhà nước mà chưa thấy được, ngồi
sự xâm phạm từ phía Nhà nước cơng dân cịn có thể bị xâm phạm thân thể từ các chủ thể
khác. Và việc xâm phạm thân thể của công dân khơng chỉ là bắt bớ, giam cầm mà cịn có
thể có nhiều hành động khác xâm phạm đến thân thể của cơng dân. Do đó, Hiến pháp
1946 quy định như vậy là chưa đủ. Trong hoàn cảnh nước ta khi các tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng còn tồn tại, xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe của cơng dân thì cần thiết
phải có quy định hợp lý hơn của Hiến pháp để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của cơng dân.
• Quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thư tín của cơng dân Trong số các quy
định về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân thì nhà ở, thu tín cần đuợc bảo đảm an
toàn là nhu cầu rất quan trọng mà cơng dân địi hỏi từ phía Nhà nuớc. Hiến pháp 1946
ghi nhận quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thu tín của cơng dân tại Điều 11:

. .Nhà

ở và thu tín của cơng dân Việt Nam, khơng ai
đuợc xâm phạm một cách trái pháp luật”. Theo quy định này thì cơng dân có quyền bất
khả xâm phạm về nhà ở và thu tín. Khơng ai đuợc tự ý xâm phạm nhà ở và thu tín của
nguời khác, trừ truờng hợp pháp luật cho phép. Quy định này nhằm ngăn ngừa sự vi


phạm từ phía Nhà nuớc và các chủ thể khác.
Việc Hiến pháp 1946 ghi nhận các quyền trên của công dân có một ý nghĩa rất
quan trọng. Điều đó khẳng định rằng cơng dân Việt Nam có địa vị pháp lý rõ ràng, lần
đầu tiên trong lịch sử, từ thân phận nô lệ công dân Việt Nam đã đuợc Hiến pháp khẳng

định là họ có quyền - quyền tự do trong các lĩnh vực cơ bản nhất. Qua đó thể hiện Hiến
pháp 1946 thực sự là một bản Hiến pháp dân chủ. Khẳng định cơng dân có các quyền tự
do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín nguỡng, tự do cu trú, đi
lại trong nuớc và ra nuớc ngồi của cơng dân, điều đó có nghĩa là Nhà nuớc phải có
trách nhiệm đảm bảo cho các quyền của công dân đuợc thực hiện. Và trên thực tế các
quyền này của công dân đã đuợc Nhà nuớc ta bảo đảm thực hiện.
Tóm lại, Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nuớc ta nhung đã rất chú
trọng đến các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân. Hiến pháp
đã dành 2 điều luật (Điều 10, Điều 11) để quy định về 11 quyền, đó là: quyền tự do ngơn
luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do tín nguỡng, tự do cu trú, tự do đi
lại trong nuớc, tự do ra nuớc ngoài, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả
xâm phạm về nhà ở, quyền bất khả xâm phạm về thu tín. Việc công nhận tuơng đối rộng
rãi các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến pháp
1946 thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của Nhà nước dân chủ nhân dân, thông qua những
quyền được ghi nhận trong Hiến pháp thể hiện mối quan hệ thực sự dân chủ giữa Nhà
nước với cơng dân. Tuy nhiên, do ra đời trong hồn cảnh lịch sử cịn nhiều khó khăn,
phức tạp, phải khẩn trương ban hành ngay Hiến pháp nên Hiến pháp 1946 của nước ta
không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Đó là Hiến pháp 1946 mới chỉ tuyên bố
những quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của cơng dân mà chưa có quy định về việc
bảo đảm và trách nhiệm của Nhà nước cho các quyền ấy của công dân được thực hiện.
Mặt khác việc quy định một số quyền của công dân trong cùng một điều luật xem ra là
chưa hợp lí bởi mỗi quyền liên quan đến một lĩnh vực khác nhau. Xét về mặt lịch sử,
hạn chế là không tránh khỏi bởi Hiến pháp 1946 ra đời trong bối cảnh cách mạng vừa
thành công, chính quyền cịn non trẻ lại phải đối phó với thù trong giặc ngồi. Vì vậy,
Nhà nước ta chưa thể quy định một cách cụ thể các bảo đảm cho việc thực hiện các
quyền đó. Nhưng trên thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện và cũng rất quan tâm đến các


quyền của công dân được Hiến pháp 1946 quy định trở thành hiện thực. Các quyền về tự
do dân chủ và tự do cá nhân của công dân đã được bảo đảm thực hiện trên thực tế.


2.2. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá
nhân trong Hiến Pháp 1959
Hiến pháp 1959 là bản Hiến pháp thứ hai và là Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu
tiên của nước ta, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Hiến pháp 1959 ra đời trong hồn cảnh có nhiều sự kiện quan trọng làm thay đổi tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Sau chiến thắng Điện Biên phủ năm 1954
nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc hồn tồn giải phóng và đi lên Chủ
nghĩa xã hội, còn miền Nam vẫn nằm dưới ách thống trị của Đe quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn. Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới với những nhiệm vụ
mới. Trước tình hình đó, nhiều quy định của Hiến pháp 1946 đã khơng cịn phù hợp nữa
và nó cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới. Chính vì vậy, ngày
31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thơng qua Hiến pháp 1959 và ngày 1/1/1960 chủ tịch
Hồ Chí Minh kí sắc lệnh công bố Hiến pháp.
Kế thừa những quy định của Hiến pháp 1946 về quyền tự do dân chủ và tự do cá
nhân của công dân, Hiến pháp 1959 đã có buớc phát triển mới trong việc quy định cụ thể
hơn các quyền này đồng thời bổ sung thêm một số quyền mới. Các quyền cơ bản của
công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân đuợc Hiến pháp 1959 ghi nhận bao gồm:
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, quyền
tự do tín nguỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà
ở, quyền bất khả xâm phạm về thu tín, quyền tự do cu trú, quyền tự do đi lại. Các quyền
này có những quyền là sự ghi nhận lại của Hiến pháp 1946, có quyền là quyền mới đuợc
Hiến pháp 1959 lần đầu tiên ghi nhận.
• Quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do
biểu tình
Đây là những quyền thuộc nhóm quyền dân chủ - chính trị nên đuợc quy định
trong cùng một điều luật. Các quyền này đuợc ghi nhận tại Điều 25 của Hiến pháp:
“Công dân nuớc Việt Nam dân chủ cộng hịa có các quyền tự do ngơn luận, báo chí, hội
họp, lập hội và biểu tình. Nhà nuớc bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công



dân đuợc huởng các quyền đó”. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 có sự kế thừa
và phát triển khi quy định các quyền này của công dân.
Hiến pháp 1959 tiếp tục ghi nhận lại quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do
lập hội của công dân đã đuợc Hiến pháp 1946 ghi nhận. Quyền “tự do lập hội” truớc đây
đuợc Hiến pháp 1946 ghi nhận với tên gọi “tự do tổ chức” đã đuợc thay thế bằng “tự do
lập hội” để bảo đảm tính chính xác và cụ thể hơn. Đồng thời Điều 25 quy định thêm hai
quyền mới là quyền tự do báo chí và tự do biểu tình.
* Quyền tự do báo chí:
Đây là một quyền mới đuợc ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp 1959. Theo Điều
25 Hiến pháp 1959 thì cơng dân nuớc Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền tự do báo
chí. Xuất phát từ hồn cảnh lịch sử của nuớc ta trong thời kì đó cũng nhu vai trị cực kì
quan trọng của báo chí nên Hiến pháp 1959 đã khẳng định quyền tự do báo chí của cơng
dân. Trở lại hồn cảnh lịch sử của nuớc ta lúc bấy giờ, khi miền Bắc đã hồn tồn giải
phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội còn miền
Nam vẫn phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì việc Hiến pháp
1959 ghi nhận quyền tự do báo chí của cơng dân có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Báo chí góp phần to lớn phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức nguời, sức của cho miền Nam, quyết
tâm đánh thắng kẻ thù, thống nhất đất nuớc. Công dân đuợc tự do trong lĩnh vực báo chí,
cho phép họ có quyền rất rộng trong lĩnh vực này.
* Quyền tự do biểu tình:
Tự do biểu tình là quyền rất cơ bản của công dân đuợc hầu hết các nuớc trên thế
giới thừa nhận. Ở nuớc ta quyền này lần đầu tiên đuợc ghi nhận trong Hiến pháp 1959.
Đây là buớc phát triển mới so với Hiến pháp 1946. Nhà nuớc cho phép cơng dân đuợc tự
do biểu tình để bày tỏ ý kiến ủng hộ hay phản đối của mình về các vấn đề quốc tế và
trong nuớc. Việc Hiến pháp 1959 ghi nhận quyền này đã thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nuớc ta. Các bản Hiến pháp của nuớc ta sau này tiếp tục ghi nhận quyền này với tu
cách là một quyền cơ bản của công dân.
Nhu vậy, Điều 25 Hiến pháp 1959 đã ghi nhận 5 quyền: tự do ngơn luận, tự do

báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do biểu tình của cơng dân trong đó quyền tự


do ngôn luận, tự do hội họp và tự do lập hội là sự ghi nhận lại quy định của Hiến pháp
1946 nhung có sự cụ thể, rõ ràng hơn vì quyền tự do “tổ chức và hội họp” trong bản
Hiến pháp truớc đã đuợc thay thế bằng quyền tự do hội họp và tự do lập hội. Còn quyền
tự do báo chí và tự do biểu tình là các quyền mới lần đầu tiên đuợc Hiến pháp 1959 ghi
nhận.
Một điểm mới của Hiến pháp 1959 có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với việc thực
hiện các quyền nêu trên mà Hiến pháp 1946 chua có, đó là những quy định việc bảo đảm
về vật chất: “...Nhà nuớc bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân đuợc
huởng các quyền đó” (Điều 25). Quy định này xác định trách nhiệm của Nhà nuớc là
phải đảm bảo cho công dân thực hiện đuợc các quyền trên. Điều này đã thể hiện đầy đủ
trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nuớc đối với công dân. Đồng thời khắc phục đuợc hạn
chế của Hiến pháp 1946 là chua có quy định đảm bảo cho các quyền của công dân về tự
do dân chủ và tự do cá nhân được thực hiện. Đây không đơn thuần chỉ là sự tiến bộ
trong vấn đề kĩ thuật lập hiến mà quan trọng hơn đó là sự nhận thức đúng đắn và thái độ
quan tâm của Đảng và Nhà nước về các quyền tự do dân chủ của công dân. So với Hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959 cịn có sự bổ sung quan trọng tại Điều 38: “Không ai được
lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của nhân
dân”. Sự bổ sung này là hợp lí, đảm bảo sự chặt chẽ của pháp luật, tránh việc lợi dụng
các quyền tự do dân chủ của cơng dân vào mục đích xấu, ảnh hưởng tới lợi ích chung
của Nhà nước và xã hội.
• Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo:
Vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo luôn là một vấn đề nhạy cảm được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Quyền tự do tín ngưỡng cũng là một quyền rất quan trọng của
công dân được các bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận. Kế thừa Hiến pháp 1946, Hiến
pháp 1959 tiếp tục ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng nhưng có sự phát triển thêm. Nếu
như ở Hiến pháp 1946 quyền này được quy định chung cùng với các quyền khác thì đến
Hiến pháp 1959 quyền tự do tín ngưỡng của cơng dân đã được quy định thành một điều

luật riêng tại Điều 26: “Cơng dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tôn giáo nào”. Điều này thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước ta đối với vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo của công dân cũng như tầm quan trọng


của vấn đề này. Như vậy, so với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã quy định cụ thể
hơn quyền tự do tín ngưỡng, đó là cơng dân có quyền “theo hoặc không theo một tôn
giáo nào”. Quy định này nhằm khẳng định thêm quyền tự quyết định của công dân đối
với vấn đề tín ngưỡng, cơng dân có quyền tự quyết định trong việc lựa chọn tín ngưỡng
cho mình, Nhà nước cho phép họ theo hoặc không theo bất kì một tơn giáo nào. Qua đó
cũng có thể thấy nhận thức mới của Nhà nước ta về tín ngưỡng và tôn giáo. Công dân
không những được tự do về tín ngưỡng mà cịn được tự do theo hoặc khơng theo một
tơn giáo nào.
• Quyền tự do cư trú và đi lại của công dân
Quyền này được Hiến pháp 1959 ghi nhận tại Điều 28: “...Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa có quyền tự do cư trú và đi lại”. Như vậy, có thể thấy
SO với Hiến pháp 1946 thì quyền tự do cư trú và đi lại của cơng dân trong Hiến pháp
1959 có phần bị thu hẹp hơn. Hiến pháp 1959 chỉ ghi nhận công dân có quyền tự do cư
trú và đi lại với nghĩa là tự do cư trú và đi lại ở trong nước. Cịn quyền tự do đi ra nước
ngồi của cơng dân được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 nay không được đề cập nữa
cho phù hợp với tình hình thực tế là đất nước đang có chiến tranh và vấn đề bảo đảm
tình hình an ninh, chính trị của đất nước trong bối cảnh đất nước còn bị chia cắt làm hai
miền. Tuy nhiên việc Hiến pháp 1959 ghi nhận chung chung “cơng dân có quyền tự do
cư trú và đi lại” như vậy đã khiến cho việc thực hiện quy định này trở nên khó khăn,
lúng túng, gây khơng ít phiền nhiễu cho cơng dân.
• Quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Hiến pháp 1959 đã dành riêng Điều 27 để quy định về quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân chứ không quy định chung quyền bất khả xâm phạm về thân
thể cùng với quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thư tín của cơng dân như trong Hiến
pháp 1946. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của quyền này đối với mỗi công dân cũng

như sự tiến bộ trong kĩ thuật lập hiến của nước ta. Điều 27 Hiến pháp 1959 quy định:
“Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được bảo đảm. Khơng ai có thể bị bắt nếu khơng có sự quyết định của Tòa án nhân dân
hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”. Nếu như trước đây quy định của Hiến
pháp 1946 chỉ thấy được việc ngăn ngừa sự xâm phạm thân thể của công dân từ phía


×