Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

BÀI GIẢNG LỊCH sử ĐẢNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN kỳ LỊCH sử TRONG NGHIÊN cứu, GIẢNG dạy LỊCH sử ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.91 KB, 34 trang )

PHƯƠNG PHÁP PHÂN KỲ LỊCH SỬ TRONG
NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐẢNG
Mở đầu
Phân kỳ LSĐ là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu,
giảng dạy LSĐ. Phân kỳ LSĐ phù hợp, đúng đắn sẽ bảo đảm cho tái hiện
lịch sử đúng đắn, chân thật, làm sáng tỏ các SKLS cùng qui luật chung,
qui luật của từng giai đoạn, thời kỳ phát triển cụ thể của LSĐ, từ đó góp
phần dự báo sự phát triển của tình hình, làm cơ sở cho bổ sung phát triển,
hoạch định đường lối, phương pháp cách mạng và phương hướng, nhiệm
vụ xây dựng Đảng.
Mục đích yêu cầu
- Giúp người học nắm được các quan điểm khác nhau về phân kỳ
lịch sử để từ đó hiểu rõ tính đúng đắn, sáng tạo của quan điểm Mác xít về
phân kỳ lịch sử.
- Giúp người học nắm được yêu cầu khách quan và những căn cứ cơ
bản, quan trọng trong phân kỳ lịch sử ĐCSVN, từ đó vận dụng vào học
tập, nghiên cứu, giảng dạy LSĐ đạt chất lượng cao.
Nội dung bố cục
1. Tiêu chuẩn để phân kỳ lịch sử
2. Phân kỳ lịch sử ĐCSVN
Phương pháp
Nêu khái quát vấn đề, phân tích, chứng minh bằng thực tiễn lịch sử
Tài liệu sử dụng
1. Giáo trình phương pháp nghiên cứu, giảng dạy lịch sử ĐCSVN,
Nxb QĐND, Hà Nội 2001, Tr 216-230
I. Tiêu chuẩn để phân kỳ lịch sử (1,2)
Phân kỳ lịch sử là nghiên cứu QTLS để vạch ra những giai đoạn,
những thời kỳ phát triển cụ thể của lịch sử, nhằm khôi phục lịch sử và làm
sáng tỏ qui luật vận động của q trình đó, góp phần dự báo sự phát triển



2
của tình hình làm cơ sở cho hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối,
phương pháp cách mạng và phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng.
(1) Quan điểm phong kiến, tư sản về tiêu chuẩn phân kỳ lịch sử
- 1là: Quan điểm phong kiến thường coi tư tưởng, hành động của
từng vương triều, của vua chúa là tiêu chuẩn duy nhất để phân kỳ lịch sử.
VD:
Ở Trung Quốc có:
Tiền Hán thư; Hậu Hán thư; Tống sử; Nguyên sử; Minh sử…
Ở Việt Nam có:
Đại Việt sử ký tồn thư (Ngơ Sỹ Liên) của triều Lê
Việt sử thông giám cương mục của sử quán triều Nguyễn…
Nguyên nhân của cách phân kỳ này:
Do các nhà sử học phong kiến bị chi phối bởi quan điểm duy tâm,
siêu hình. Do đó, họ coi tư tưởng, hành động của vương triều, của vua
chúa là quyết định.
Hạn chế của cách phân kỳ này:
. Không phản ánh rõ tình hình kinh tế - xã hội của từng giai đoạn,
thời kỳ lịch sử.
. Không thể hiện được vai trò quần chúng nhân dân, người chủ thực
sự của lịch sử.
. Tô vẽ, đề cao cá nhân một cách thiếu khách quan
- 2là: Quan điểm tư sản lại lấy lịch sử của các nước lớn, của các
dân tộc “Siêu việt” để áp đặt cho tất cả các nước, các dân tộc.
VD:
Ở Việt Nam và Đông Dương thực dân Pháp phân kỳ thành:
Thời kỳ tiền sử, Thời kỳ Trung Quốc; Thời kỳ Ấn Độ; Thời kỳ
Xiêm và Thời kỳ Pháp.



3
Gần đây quan điểm tư sản lại lấy sự ra đời của các nền văn minh,
lấy trình độ phát triển của khoa học công nghệ làm tiêu chuẩn để phân kỳ
lịch sử.
VD: Họ phân chia
. Văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà
. Thời kỳ Phục hưng
. Thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt…
Phân kỳ thế này có những hạn chế sau:
. Không phản ánh đúng diễn biến của lịch sử
. Không phản ánh đúng sự phát triển của xã hội loài người và từng
quốc gia, dân tộc.
. Để biện hộ cho sự xâm lược, thống trị của chủ nghĩa thực dân, ca
ngợi “Khai hoá văn minh” của chủ nghĩa đế quốc.
=> Các quan điểm trên chúng ta không thể chấp nhận được.
(2) Quan điểm Mác xít về tiêu chuẩn phân kỳ lịch sử
- 1là: Sự tồn tại, biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là tiêu
chuẩn quan trọng nhất để phân chia các giai đoạn và thời kỳ lịch sử.
Vì:
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội có LLSX, QHSX và KTTT. Sự
vận động, tác động qua lại lẫn nhau của các yếu tố này tạo nên sự vận
động của xã hội.

Sự phát triển của LLSX là yếu tố quyết định sự biến đổi của xã hội
loài người.
QHSX (CSHT) là tiêu chuẩn khách quan quan trọng nhất để phân
biệt xã hội này với xã hội khác.
Kiến trúc thượng tầng có tác động trở lại hết sức quan trọng đến
QHSX và sự phát triển của LLSX.



4
- 2là: Đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc cũng là tiêu chuẩn hết
sức quan trọng để phân kỳ lịch sử.
Vì:
Lịch sử xã hội lồi người tồn tại từ trước đến nay (Trừ xã hội
nguyên thuỷ) chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.

Đấu tranh giai cấp phát sinh từ mấu thuẫn giữa LLSX và QHSX. Tính
chất, hình thức và thành quả của cuộc đấu tranh đó tạo nên sự vận động, phát
triển của PTSX và còn quyết định trực tiếp đến sự biến đổi của KTTT.
Mặt khác, các cuộc đấu tranh chống xâm lược mang hình thức dân
tộc đều có nội dung giai cấp và kết cục cuộc đấu tranh ấy thường dẫn tới
sự biến đổi xã hội.
Như vậy:
Quan điểm Mác xít coi sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội và đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc là tiêu chuẩn để
phân kỳ lịch sử.
- 3là: Theo quan điểm Mác xít, phân kỳ lịch sử gồm có: Thời đại,
giai đoạn và thời kỳ.
+ Thời đại có: Ngun thuỷ, Chiếm hữu nơ lệ; Phong kiến; Tư bản
và Cộng sản chủ nghĩa.
+ Giai đoạn: nằm trong thời đại, nhưng trong khoảng thời gian ngắn
hơn
VD:
Giai đoạn CM DTDCND; Giai đoạn CM XHCN đều nằm trong
phạm trù CMVS.
+ Thời kỳ nằm trong giai đoạn với những mốc lịch sử cụ thể như:
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền;
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp;

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ;


5
Những thời kỳ này đều nằm trong giai đoạn CM DTDCND.
Ngồi ra cịn chia các giai đoạn, các thời kỳ nhỏ nữa như: Thời kỳ
trước đổi mới; Thời kỳ đổi mới…
II. Phân kỳ lịch sử ĐCSVN (1,2)
(1). Vì sao phải phân kỳ lịch sử ĐCSVN?
Vì:
- 1là: Phân chia các giai đoạn, thời kỳ LSĐ để thấy được các bước
trưởng thành, những khó khăn, vấp váp và những thắng lợi vẻ vang của
Đảng trong quá trình Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng.
Trong lịch sử Đảng ta, từ khi vận động thành lập Đảng đến khi Đảng ra đời
và lãnh đạo cách mạng nước ta gần một thế kỷ nay. Đó là chặng đường đầy gian
nan, oanh liệt qua nhiều giai đoạn, thời kỳ lịch sử khác nhau. Do đó, phải phân kỳ
lịch sử để thấy mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử có những bước trưởng thành; có
những thành cơng; có những sai lầm, vấp váp, khuyết điểm…Từ đó rút ra những
kinh nghiệm, BHKN cần thiết cho lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng trong hiện tại
và định hướng cho tương lai.
- 2là: Có phân kỳ các giai đoạn, thời kỳ cách mạng đúng đắn mới
tái hiện đầy đủ, đúng đắn LSĐ, qua đó nhận rõ qui luật về sự hình thành
Đảng và qui luật CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- 3là: Mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng vẻ vang của CMVN do
Đảng lãnh đạo có nhiệm vụ, đặc điểm, sắc thái riêng và đều để lại những
kinh nghiệm q.
TĨM LẠI:
Cần phải phân kỳ LSĐ để nghiên cứu, giảng dạy làm rõ những qui
luật về sự hình thành Đảng và những qui luật về sự lãnh đạo cách mạng
của Đảng.

(2). Những căn cứ để phân kỳ lịch sử ĐCSVN
- CCứ1: Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ của cách mạng từng giai
đoạn, từng thời kỳ.


6
Đây là căn cứ đầu tiên để phân kỳ LSĐ
Vì:
Hoạt động lãnh đạo của Đảng xuất phát từ yêu cầu khách quan của
lịch sử, của cách mạng. Cho nên lịch sử mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ của
Đảng gắn liền với tính chất, nhiệm vụ cách mạng.
Thực tế LSĐ ta, căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ cách mạng chúng ta chia
làm 2 giai đoạn lớn, mỗi giai đoạn lớn đó có nhiều thời kỳ khác nhau:
Cụ thể là:
+ Giai đoạn Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng DTDCND (19201975). Tính chất giai đoạn này là cách mạng DTDCND.
Bởi lẽ: Nguyến Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, vận
động thành lập Đảng, do đó Đảng ra đời. Đảng ra đời đã lãnh đạo toàn dân
đấu tranh chống ĐQ, PK giành ĐLDT và ruộng đất cho nông dân.
+ Giai đoạn Đảng lãnh đạo CM XHCN (1975 đến nay). Tính chất
giai đoạn này là CM XHCN.
Mỗi giai đoạn lại chia thành các thời kỳ khác nhau tương ứng với
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể.
+ Về thời kỳ:
. Giai đoạn Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng DTDCND (1920-1975) có:
Thời kỳ vận động thành lập Đảng;
Thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền;
Thời kỳ Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
. Giai đoạn Đảng lãnh đạo CM XHCN có:
Thời kỳ xây dựng CNXH trong chiến tranh (1954-1975)

Thời kỳ xây dựng CNXH trên cả nước và đổi mới từng phần (1976-1986)
Thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để (1986-hiện nay).
. Trong từng thời kỳ lại có những giai đoạn nhỏ được chia theo
nhiệm vụ cụ thể ở từng thời điểm như:


7
Giai đoạn đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
Giai đoạn đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”…
- CCứ2: Căn cứ vào đường lối cách mạng của Đảng
+ Tại sao lại căn cứ vào đường lối?
Vì:
Đường lối của Đảng xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Nhưng có khi do điều kiện khách quan hay chủ quan mà đường lối có thể
ra đời chậm, hoặc có những hạn chế, khuyết điểm.
Cho nên, khơng chỉ căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ cách mạng từng giai
đoạn, từng thời kỳ mà còn phải căn cứ vào đường lối cách mạng của Đảng.
+ Yêu cầu căn cứ:
Căn cứ vào các Đại hội của Đảng hoặc các Hội nghị BCHTW có
những quyết định chiến lược ở những mốc lịch sử quan trọng:
VD:
Đại hội I đánh giá Đảng và PTCM đã vượt qua thời kỳ thoái trào
chuyển sang cao trào cách mạng mới.
Hội nghị BCHTW 6,7,8 có ý nghĩa đặc biệt về chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Đó là đường lối trực tiếp chỉ đạo giành thắng
lợi trong cách mạng tháng Tám.
Tuy nhiên, không phải tất cả các Đại hội và Hội nghị BCHTW
của Đảng đều là mốc để phân kỳ lịch sử. Vì Đại hội hay Hội nghị
BCHTW đó chỉ đề ra đường lối tiếp tục tổ chức thực hiện nhiệm vụ

cách mạng do Đại hội hay Hội nghị BCHTW trước đó đã đề ra thì
khơng phải mốc lịch sử để phân kỳ.
VD:
Đại hội V không phải là mốc lớn để phân kỳ lịch sử.
- CCứ3: Căn cứ vào tình hình tổ chức Đảng
+ Vì:


8
Mọi trưởng thành cũng như khó khăn, vấp váp của Đảng đều phản
ánh thắng lợi hoặc tổn thất của PTCM và đều ảnh hưởng trực tiếp đến vai
trò lãnh đạo của Đảng và PTCM của quần chúng.
+ Yêu cầu căn cứ:
Phải căn cứ vào những thay đổi quyết định về tổ chức của Đảng để
phân kỳ.
VD:
. Thời kỳ vận động thành lập Đảng (1920-1930) có 2 giai đoạn nhỏ:
Giai đoạn 1920-1925, chủ nghĩa Mác-Lênin truyền bá vào Việt
Nam, kết hợp PTCN với PTYN.
Giai đoạn 1925-1930, là giai đoạn xuất hiện các tổ chức tiền thân và
các tổ chức cộng sản tiến tới Hội nghị thành lập Đảng.
=> Đó là các bước hình thành Đảng, là căn cứ để phân kỳ lịch sử.
. Đại hội I (3/1935) của Đảng, đánh dấu Đảng đã được khôi phục và
phát triển để chuyển sang giai đoạn mới, lãnh đạo cao trào cách mạng
1936-1939. Đó là căn cứ để phân kỳ lịch sử.
. Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) vừa củng cố tổ chức BCHTW
vừa đề ra đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Đó là căn cứ để
phân kỳ lịch sử.
TĨM LẠI:
- Căn cứ để phân kỳ LSĐ phải là sự tổng hợp của cả 3 căn cứ chung:

. Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ của cách mạng từng giai đoạn, thời kỳ;
. Căn cứ vào đường lối cách mạng của Đảng;
. Căn cứ vào bản thân tổ chức Đảng.
Ngồi ra có thể căn cứ vào những SKLS lớn của cuộc đấu tranh giai
cấp, dân tộc, của bản thân Đảng để phân kỳ LSĐ.
- Khi nghiên cứu, giảng dạy LSĐ trên cơ sở những căn cứ trên vận
dụng vào nội dung cụ thể có thể lấy một căn cứ nào đó làm chính, kết hợp
với các căn cứ khác để phân kỳ cho hợp lý.


9
- Căn cứ để phân kỳ lịch sử từng Đảng bộ của Đảng là dựa vào quá
trình hình thành, phát triển, các bước phát triển của Đảng bộ đó để phân kỳ.
- Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
là lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, tuy
phạm trù, nội dung có khác nhau nhưng cách phân kỳ lịch sử dân tộc theo
các giai đoạn, thời kỳ lớn cơ bản thống nhất như phân kỳ lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Kết luận bài
Phân kỳ lịch sử là vấn đề khó cả về phương pháp và thực tiễn, do đó
phải trên cơ sở thống nhất được những căn cứ để phân kỳ mới bảo đảm
được tính phù hợp của nó.
Phân kỳ lịch sử ĐCSVN hiện nay cơ bản thống nhất theo phân kỳ
các giai đoạn và thời kỳ lớn, còn việc phân chia các giai đoạn nhỏ trong
từng thời kỳ cụ thể lại đòi hỏi sự sáng tạo đúng đắn của mỗi người.
* LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÂN KỲ LỊCH SỬ
I. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÂN KỲ
LỊCH SỬ :
Con người và xã hội loài người đã xuất hiện trên quả đất hằng trăm
triệu năm trước đây. Từ đó đến nay, xã hội lồi người cũng như bản thân

con người đã trãi qua biết bao đổi thay, đã có nhiều biến chuyển, đã từ
trạng thái dã man tiến dần lên trạng thái văn minh, từng bước chinh
phục thế giới tự nhiên để phát triển thành xã hội tiên tiến như ngày nay.
Xã hội loài người đã trãi qua một quá trình phát triển lâu dài, từ thấp đến
cao, từ thô sơ đến hiện đại, từ dã man lên văn minh. Đó là “một q
trình thống nhất đầy mâu thuẩn”. Quá trình thống nhất này lại bao gồm
nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn khác nhau, là những bậc thang trong sự
phát triển đi lên cuả xã hội lồi người .
Để có được một nhận thức khách quan, khoa học, tính thống nhất
và sự phân chia các thới kỳ lịch sử, chúng ta thường nói, phải đặt sự kiện


10
lịch sử trong hồn cảnh mà nó diễn ra để phân tích, đánh giá. Như vậy,
chúng ta động chạm đến vấn đề phân kỳ lịch sử hay nói một cách khác,
phân kỳ lịch sử là một vấn đề phương pháp luận .
Lịch sử loài người từ khi những người vượn đầu tiên xuất hiện trên
trái đất , đã trãi qua hằng mấy triệu năm tồn tại và phát triển, nghĩa là đã
trãi qua một q trình tiến hố lâu dài và đa dạng. Ngay trong thời đại
nguyên thuỷ , xã hội loài người hầu như đứng yên một chổ, nhưng không
phải thiên niên kỷ nào cũng giống như thiên niên kỷ nào, không phải
vùng nào cũng giống như vùng nào ,do đó , khơng phải sự kiện nào xãy
ra cũng giống như sự kiện nào . Theo những thành tựu của khảo cổ học,
tuy các xã hội thời nguyên thuỷ đều trãi qua một thời đồ đá như nhau,
nhưng mỗi khu vực cư dân đều có đặc điểm của mình. Xã hõi loài người
ngay từ khi nhà nước xuất hiện, tuy cách đây khoãng 5000 năm, nhưng đã
phát triển cực kỳ nhanh chóng về tất cả các mặt . Sự phát triển đó ban
đầu diễn ra trong phạm vi một quốc gia, dần dần được mở rộng ra và
chịu sự tác động của khu vực, và sau đó nữa cho đến ngày nay. Khi mà sự
giao lưu quốc tế đã trở nên thường xuyên vời sự hổ trợ của hàng loạt

phương tiện thơng tin thì nó cũng mang ít nhiều tính chất quốc tế. Nhu
vậy, có nghĩa là xã hội lồi người, nhất là những thế kỷ sau cơng ngun,
đã trãi qua một q trình tiến hố cưc kỳ phức tạp và đa dạng. Mỗi một
sự kiện lịch sử đều chịu sự tác động của nhiều mặt của quá trình tiến hố
phức tạp đó , khơng phải chỉ trong giai đoạn diễn biến của nó mà cịn cả
trong giai đoạn nãy sinh. Mỗi một con người , như chúng ta hiểu, là “sự
tổng hoà của các mối quan hệ xã hội ” nên cũng phức tạp như vậy .
Nghiên cứu lịch sử không dừng lại ở những vấn đế lớn có tính khái
qt mà cịn mở rộng ra ở các sự kiện, các nhân vật, các cuộc vận động
lớn nhỏ . Để có thể đạt được những nhận định, những luận điểm khách
quan ,khoa học , người nghiên cứu không thể không đặt ra hai câu hỏi lớn
:


11
Thứ nhất, xác định thế nào cho đúng mối quan hệ giữa chủ quan và
khách quan trong sự nghiên cứu lịch sử ?
Vấn đề này được trình bày ở trên, song khi đề cập đế sự phân kỳ
lịch sử cũng cần nhấn mạnh một số điểm chủ quan ở đây vừa là ở bản
thân nhà nghiên cứu vừa là của sự kiện lịch sử được nghiên cứu. Khách
quan ở đây vừa là bản thân sự kiện lịch sử vừa là những gì đã tác động
đến nó. Tóm lại, phải xác định đúng những điểm cần nghiên cứu của
hoàn cảnh tức là của thực triễn xã hội có quan hệ đến sự kiện cũng như
đến nhà nghiên cứu.
Thực tiễn xã hội ở đây vừa có phần thuộc lĩnh vực vật chất, vừa có
phần thuộc lĩnh vực tư tưởng .
Thứ hai, khi nói đến hồn cảnh xã hội tức là nói đến một giai
đoạn nhất định của q trình tiến hố phức tạp. Do vậy nãy sinh hai vấn
đề cần giải quyết. Một là, sự phức tạp đó là hồn tồn có tính cách ngẫu
nhiên hay chịu sự chi phối của những quy luật chung ? Hai là, mỗi sự

kiện lịch sử đều do một người hay một nhóm người tạo nên trong một
hồn cảnh nhất định về thời gian, khơng gian, đúng như người ta nói
“khơng có sự kiện nào giống hết như một

sự kiện nào ” nhưng có phải

như vậy có nghĩa là xã hội lồi người phát triển, tiến hố một các tuỳ
tiện và hổn loạn, khơng theo một quy luật chung nào hay không ?
Hai vấn đề trên đã xác định tầm quan trọng của việc phân kỳ lịch
sử với tư cách là một vấn đề phương pháp luận. Sự phân kỳ lịch sử là
một vấn đề cần phải làm và có thể làm được trên cơ sở một quan điểm
khoa học, thống nhất .
Phân kỳ lịch sử khơng chỉ cần đối nhà nghiên cứu mà cịn rất cần
đối với người làm công tác giảng dạy. Lâu nay ,cán bộ giảng dạy các khoa
học xã hội có thói quen dựa vào những ý có sẵn trong sách giáo khoa
hay theo cảm hứng chủ quan của mình để phân tích, đánh giá các sự kiện,
các nhân vật. Điều nầy tất nhiên khó tranh, nhưng nó sẽ hạn chế tính chủ


12
động của người dạy và khã năng tư duy độc lập của học sinh, chưa kể
những thiếu sót khác có thể vấp phải . Do đó, trong giảng dạy, đặc biệt là
trong môn lịch sử, giáo viên cần phải khẳng định quan điểm của mình khi
giảng dạy một giai đoạn , một thời kỳ lịch sử nào đó ở một nước nhất
định nàođó. Nghĩa là , cần phải nắm được bản chất của một thởi kỳ hay
một giai đoạn lịch sử , trong đó có sự kiện mà mình phân tích, đánh giá.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới hiểu đúng và chủ động trong giảng dạy. Ý
nghĩa tích cực nầy khơng chỉ có tác dụng đối với việc truyền thụ kiến
thức mà còn cả đối với việc giáo dục tư tưởng .
Tóm lại, lịch sử lồi người từ trước đến nay diễn ra hết sức phức tạp

và đa dạng song không tiệm tiến trong những mối quan hệ bất biến mà
theo xu hướng phát triển ngày càng nhanh với những thời kỳ, những giai
đoạn có nội dung hoạt động và quan hệ khác nhau, lịch sử một quốc gia,
dân tộc cũng vậy .Để nghiên cứu và giảng dạy lịch sử một cách khách
quan, khoa học, cần phải phân chia lịch sử loài người cũng như dân tộc
thành những thời kỳ, giai đoạn phát triển nối tiếp nhau, nghĩa là phải
phân kỳ lịch sử. Phân kỳ lịch sử sẽ là một định hướng khoa học của nhà
nghiên cứu và người giảng dạy .
II.NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ LỊCH SỬ:
Mặc dầu giới sử học từ xa xưa đến nay đều nhận thấy tính
phức tạp , đa dạng và khơng đồng đều của lịch sư loài người cũng như
lịch sử một dân tộc , nhưng để xác định thời gian ( vì lịch sử là người
nghiên cứu sự tiến hoá của xã hội theo năm, tháng) và tính chất, mỗi
nhóm , mỗi thời đều thực hiện phân kỳ lịch sử theo quan niệm riêng
của mình .
Ngày xưa, ở nước ta hoặc ở Trung quốc do xuất phát từ quan
niệm cho rằng

chế độ quân chủ là vĩnh hằng nên các nhà sử học đã

phân kỳ lịch sử theo triều đại, theo các đời vua. Đó cũng là một nguyên
tắc phân kỳ lịch sử, lấy chế độ chính trị làm cơ sở. Điều này dễ hiểu khi


13
các nhà sử học đó chịu sự chi phối của tư tưởng ”thiên mệnh” và vua
là “thiên tử ”, “thay trời trị dân ”. Tất nhiên, ở họ cũng nãy sinh tư
tưởng “nước lấy dân làm gốc ”, “vua là thuyền, dân là nước, nước có
thể đẩy thuyền đi mà cũng có thể lật thuyền ”… nhưng nước vẫn phải có
vua, “khơng thể một ngày khơng vua ”… trong lúc đó , ở một số nước

phương Tây trung đại theo chế độ quân chủ , mặc dù không chịu ảnh
hưởng của tưởng ”thiên mệnh”, “thiên tử ”, giới sử học vẫn viết sử theo
triều đại .
Ngồi ra cịn có trường hợp, như Hêliốt ( Hy lạp ), lấy việc sử dụng
kim loại để làm tiêu chuẩn phân kỳ lịch sử, họ chia xã hội thành “thời
đại vàng ”, “thời đại bạc ”, “thời đại đồng ”, “thời đại sắt,” …
Từ thế kỷ XVII- XIX , sử học ngày càng phát triển , tính chất phức
tạp và đa dạng của quá trình lịch sử càng chi phối giới sử học. Dù thừa
nhận xu thế ngày càng phát triển tiến lên của xã hội loài người và hiểu
rỏ sự cần thiết phải có một sự phân kỳ lịch sử , các nhà sử hoc vẫn đưa ra
rất nhiều cách phân kỳ khác nhau. Trường phái nhân văn chủ nghĩa đi tìm
nguyên nhân của sự phát triển xã hội trong bản chất của hoạt động con
người và từ đó đưa ra quan niệm phân kỳ lịch sử loài người thành ba
giai đoạn : cổ đại, trung đại và hiện đại . Lêvi Xtrốt, một nhà dân tộc học
Pháp nổi tiếng, ủng hộ chủ nghĩa lịch sử nhưng lại phủ nhận quy luật
phát triển lịch sử. Theo ơng, mỗi dân tộc tự tìm thấy con đường phát
triển riêng của mình , khơng bắt chước các nước khác. Sự phân chia thành
ba giai đoạn nói trên chỉ có ý nghĩa về mặt thời gian ,… Cơng-đooc-xê
thì khẳng định tính quy luật của lịch sử .
Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề phân kỳ lịch sử đòi hỏi phải giải
quyết hai vấn đề khác rất cơ bản của lịch sử loài người : một là lịch sử
lồi người có chịu sự chi phối của những quy luật phát triển khách quan
khơng ,hay nói một cách khác, có hay khơng có những quy luật phát triển
của lịch sử lồi người ; Hai là: có sự thống nhất của q trình lịch sử lồi


14
người hay không, hay như Lêvi Xtrốt , mỗi dân tộc có con đường phát
triển riêng của mình .
Như vậy, phân kỳ lịch sử là một vấn đề phức tạp, khó và khơng thể

thống nhất một cách dễ dàng được. Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà
trong giới sử học và xã hội học còn nhiều trường phái khác nhau càng
chưa thể có một quan điểm thống nhất về phân kỳ lịch sử . Chính vì vậy
mà giới sử học hiện nay nói chung, tạm giữ cách phân chia lịch sử loài
người cũng như lịch sử dân tộc thành bốn thời đại lớn : cổ đại, trung đại,
cận đại và hiện đại. Tất nhiên, đó là những thuật ngữ chỉ thời gian, dễ
thống nhất. Còn bàn đến nội dung của những thời đại đó là gì thì các
trường phái co quan niệm riêng của mình .
Có thể nêu lên một số nguyên tắc lớn cho việc phân kỳ lịch sử
như sau :
1. Lịch sử loài người hay lịch sử của một dân tộc, trừ những
trường hợp đặc biệt, dù có lúc lên lúc xuống, yếu mạnh khác nhau, đều
phát triển theo xu hướng đi lên, ngày càng tiến triển .
2.Theo quan điểm của sử học Mác xít , sự phát triển đó của lịch
sử lồi người chịu sự chi phối của những quy luật khách quan , thống
nhất . Những quy luật khách quan thống nhất này

không phải sinh ra từ

bên ngoài xã hội loài người , do “thượng đế ” tạo ra, mà là xuất phát từ
sự tiến triển nội tại của sự vật được các nhà khoa học phát hiện và đúc
kết .
Tất nhiên , quy luật khách quan vừa mang tính tất yếu vừa mang
tính định hướng. Việc phân kỳ lịch sử, nhất là phân kỳ lịch sử dân tộc,
không thể không tuân thủ nguyên tắc thống nhất có tính quy luật đó
nhưng đồng thời khơng thể áp đặt một cách máy móc, cứng nhắc nguyên
tắc đó vào bất kỳ đối tượng nào .luôn luôn cần nhớ rằng, q trình tiến
hố của xã hội lồi người hết sức phức tạp và đa dạng, chịu sự chi phối
của hàng loạt nguyên tố khách quan cũng như chủ quan. Mọi quốc gia



15
đang phát triển bình thường, tạm gọi là theo quy luật, có thể lập tức chuẩn
bị chuyển hướng, thậm chí đứt đoạn, nếu nó bi một quốc gia hùng mạnh,
hiện đại xâm chiếm bằng vũ lực . Trường hợp lịch sử các nước Đông
Nam Á các thế kỹ XVII – XIX cho ta một ví dụ, đồng thời buoc chúng
ta phải linh hoạt trong áp dụng nguyên tắc . Nắm vững nguyên tắc chung
nhưng đánh giá đúng những chuyển biến đột xuất riêng .
3. Kết hợp một cách chặt chẻ và nhuần nhuyển hai phương
pháp lôgic và lịch sử trong phân kỳ lịch sử. Như thực tế đã diễn ra , do
tác động của những nhân tố hoàn cảnh và con người, ở cùng một thời
điểm, các nước khác nhau trên thế giới có thể tồn tại ở những trình độ rất
khác nhau với những quan hệ xã hội khác nhau . Hơn nữa, vì hoạt động
của con người rất đa dạng .phong phú nên chúng ta dễ bị thu hút bởi
những cái riêng mn hình mn vẽ đó, khơng nhận ra được những cái
chung. Từ hai thực tế đó, việc phân chia thời kỳ lịch sử của chúng ta dễ
bị mất phương hướng hoặc không thực hiện được. Và như vậy, chúng ta
lại trở về với trường phái phủ định quy luật phát triển lịch sử và tính
thống nhất của thế giới , vì vậy, cần tìm ra những mối liên hệ lôgic trong
muôn vàn hiện tượng lịch sử phức tạp và đa dạng đó, phân biệt rõ cái
chung và cái riêng .
4. Phải có thái độ khách quan khoa học trong phân kỳ lịch sử.
Theo nhiều nhà sử học có uy tín, cách phân kỳ lịch sử hiện có đều mang
tính chất quy ước. Mặc dầu vậy, nhà sử học không thể không phân kỳ
một cách chủ quan , tuỳ tiện.

Sử học là một khoa học, tri thức lịch sử

không phải là một thứ đồ trang sức, một câu chuyện của quá khứ làm
phong phú thêm cuộc sống của con người mà là một tri thức về thực tiễn

xã hội , về con người , về dân tộc, về văn hố cần cho cuộc sống ngày
hơm nay và ngày mai. Phân kỳ lịch sử sẽ sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng
về tri thức lịch sử, do đó phải xuất phát từ việc tìm hiểu một cách tồn
diện và khách quan thực tế lịch sử đã diễn ra cũng như phù hợp với quy


16
luật phát triển khách quan. Tính khách quan khoa học là một nguyên tắc
trong phân kỳ lịch sử Chỉ có trên cơ sở đánh giá một cách khách quan
khoa học đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, đâu là cái chung, đâu là cái
riêng của một quá trình lịch sử, chúng ta mới có đuợc một cách phân định
đúng các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau .
III. TIÊU CHÍ PHÂN KỲ LỊCH SỬ XÃ HỘI
Như chúng ta đều biết, sự phát triển của khoa học lịch sử
dẫn đến sự hình thành rất nhiều chuyên ngành lịch sử khác nhau như
lịch sử chính trị , lịch sử kinh tế, lịch sử văn hoá, lich sử khoa học, kỹ
thuật, lịch sử tư tưởng … Mỗi chuyên ngành lịch sử như vậy đều có nội
dung riêng, có cách phân kỳ riêng, do đó, có tiêu chí phân kỳ riêng, mặc
dầu đều có quan hệ với nhau và quan hệ chặt chẽ với lịch sử xã hội.
Những tiêu chí bàn đến ở đây là tiêu chí phân kỳ lịch sữ xã hội nói
chung, tức thơng sử .
1. Phân kỳ lịch sử thế giới :
Cho đến nay , trong giới sử học, xã hội học đã hình thành
hàng loạt lý thuyết về sự phát triển của xã hội loài người như lý thuyết
khu vực, lý thuyết thời kỳ kinh tế, lý thuyết hội tụ … bên cạnh học thuyết
Mác- Lênin. Những lý thuyết đó đã đã ảnh hưởng quan trọng đến cách
phân kỳ lịch sử cũng như đến tiêu chí phân kỳ lịch sử. Một cách phân kỳ
chung nhất được sử dụng khá phổ biến là phân kỳ lịch sử theo thời gian:
cổ đại , trung đại, cận đại và hiện đại. Tuy nhiên, khi sử dụng cách phân
kỳ đó, mỗi trường phái sử học lại gắn vào nó một nội dung khác nhau,

phân chia theo những tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, giới sử học phương
Tây đã lấy sự phồn vinh của một số trung tâm văn hoá làm tiêu chí phân
kỳ cổ đại ,trung đại … Cũng từ quan niệm đó, theo họ “thời hiện đại ” chỉ
là giai đoạn hiện hành của xã hội “thời cận đại”, và điều nầy không chỉ
dành cho phân kỳ lịch sử phương Tây mà là phân kỳ chung lịch sử nhân


17
loại. Tư tưởng lấy châu Au làm trung tâm hay đúng hơn ,Tây Au , làm
trung tâm đã chi phối họ.
Bên cạnh đó, phổ biến một quan niệm về phân kỳ lịch sử khác lấy
các nền văn minh làm tiêu chí. Theo các nhà sử học chủ trương cách phân
kỳ nầy, lịch sử văn minh là lịch sử toàn bộ các hoạt động của con người.
Một trong số họ và nhà sử học tiêu biểu A. Toanbi ( A. Toynbee ) người
Anh. Trong tác phẩm chủ yếu của ông “nghiên cứu lịch sử ”, ông cho rằng
lịch sử là sự chắp nối của các nền văn minh khác nhau từ Đơng sang Tây,
từ thấp lên cao. Từ đó ơng chia lịch sử xã hội lồi người sau khi chế độ
cơng xã nguyên thuỷ tan rã thành bốn xã hội “sống”: xã hội Thiên chúa
gi chính thống của Đơng Nam Au và nước Nga, xã hội Hồi giáo, xã hội
An giáo và xã hội Đông Au, mặc dù vẫn thừa nhận nền văn minh Trung
Hoa, văn minh Viễn Đông …
Tiếp theo Toanbi, một số nhà xã hội học như R. Arông, W.Rotxtâu,
J.K.Ganbrai, A.Tơpplơ… đã tuyệt đối hố vai trị của nhân tố vật chất, kỹ
thuât trong sự phát triển của xã hội lồi người, lấy nó làm tiêu chí phân
kỳ lịch sử ( phái gọi là phái “kỹ trị ”). Theo họ, lịch sử loài người phát
triển dần từ xã hội nông nghiệp sang xã hội tiền công nghiệp, xã hội công
nghiệp rồi đến xã hội hậu công nghiệp hay siêu công nghiệp … tất nhiên
mỗi giai đoạn như vậy tương ứng với một nền văn minh .
Có thể nhận thấy được những mặt hạn chế của các quan niệm về
phân kỳ lịch sử nói trên. Những vấn đề mà họ né tránh chính là vấn đề

hình thái kinh te-- xã hội và vấn đề mâu thuẩn giai cấp .
Như đã nêu trên , một trong những nguyên tắc cơ bản để phân kỳ
lịch sử là thừa nhận tính thống nhất của q trình lịch sử thế giới . Vậy
tính thống nhất đó do nhân tố nào quy định ?
Sự phát triển của xã hội loài người rất phức tạp và đa dạng nhưng
khơng có nghĩa là khơng xuất phát từ một cơ sở thống nhất, có ý nghĩa
quyết định. Như chủ nghĩa duy vật lịch sử mác xít đã xác định, vật chất


18
quyết định tinh thần và nhân tố có ý nghĩa xã hội của cái “ vật chất” đó
chính là cơ sở kinh tế. Cuộc sống của con người bắt nguồn từ việc “kiếm
sống”, từ các nguồn “kiếm sống ” tức là từ hái lượm vươn lên sản xuất
và từ sản xuất đến trao đổi , rồi từ đây mới tậo ra các hoạt đông tinh
thần , bao gồm cả tổ chức và quan hệ xã hội . Nhưng nói đến “cơ sở kinh
tế ” khơng có nghĩa là dừng lại ở sản xuất vật chất , ở kỹ thuật như quan
niệm của phái “kỹ trị” mà cịn phải nói đến mối quan hệ giữa người và
người trong sản xuất . tức là “quan hệ xã hội ”. Chính xuất phát từ tiêu chí
cơ bản đó , trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” xuất bản 1846 , Mác và
Angghen đã chia lịch sử lồi người thành những hình thức sở hữu nối
tiếp nhau từ “thị tộc ”, “cổ đại ”, sang “phong kiến ”, “tư bản”. Và sau
nhiều năm nghiên cứu sâu hơn những nhân tố chi phối sự phát triển của
xã hội loài người, Mác đã đi đến chổ lấy “phương thức sản xuất” làm tiêu
chí phân kỳ lịch sử loài người . Trong phần mở đầu của tác phẩm “Phê
phán khoa kinh tế – chính trị ” xuất bản năm 1859 , ơng viết :”Về đại thể,
có thể xem các phương thức sản xuất Á châu , cổ đại , phong kiến và tư
sản hiện đại là những thời kỳ phát triển nối tiếp nhau của hình thái kinh
tế – xã hội ” Bẵng đi một thời gian, mãi đến năm 1881, trong bản thảo thứ
ba của bức thư giửi V.Datxuhit , ơng nói rõ hơn về các hình th “thứ hai
”( tức là sau thời kỳ ngun thuỷ ) là ba thời kỳ phát triển : xã hội chiếm

hữu nô lệ, xã hội phong kiến và xã hội tư bản .
Quan điểm của Mác, Ang ghen lấy “cơ sở kinh tế ” và sau đó là
“phương thức sản xuất” và “hình thái kinh tế – xã hội ” làm tiêu chí cơ
bản để phân kỳ lịch sử xã hội lồi người đã được giới sử học mácxít sau
nầy thừa nhận . Trong các cuộc hội thảo quốc tế về phân kỳ lịch sử gần
đây, mặc dầu còn những điểm khác nhau , giới sử học và xã hội học hầu
như thừa nhận “hình thái kinh tế – xã hội ” là tiêu chí cơ bản của phân kỳ
lịch sử xã hội loài người. Nội dung của những thời đại đó có tính chất


19
quy ước như “cổ đại ”,

“trung đại ”, “cận đại ” , “hiện đại ” ứng với

những hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau trong lịch sử.
Tuy nhiên, vấn đề khơng dừng lại ở tiêu chí chung. Một câu hỏi đặt
ra là, một hình thái kinh tế xã hội khơng định hình hay mất đi trong một
thời điểm nhất định, hơn thế nữa, cùng một khoãng thời gian nhất định
trên thế giới không phải chỉ ngự trị mợt hình thái kinh tế xã hội. Sự phát
triển của các nước, các dân tộc trên thế giới rất không đồng đều, ở cùng
một thời điểm nước nầy đã là tư bản chủ nghĩa nhưng dân tộc kia vẫn
đang là phong kliến, thậm chí trên phong kến … Vậy phải hiểu khái niệm
“thời đại”. Có thể hiểu “thời đại” ở đây khơng có nghĩa là sự thống trị
hồn tồn của một hình thái kinh tế - xã hội nào đó đã hình thành và tất
yếu sẽ thống trị và thống trị hoàn toàn trên thế giới với tư cách là hình
thái kinh tế –xã hội tiên tiến nhất , tiêu biểu nhất. Quan điểm nầy khơng
địi hỏi, cùng trong một thời đại, tất cả các nước, các dân tộc đều phải trãi
qua hình thái kinh tế – xã hội tiêu biểu đó .
Một câu hỏi khác cũng được đặt ra là, các hình thái kinh tế- xã hội

đã được đúc kết như chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa …
có hồn tồn đúng với tiến trình phát triển xã hội của tất cả các nước
trên thế giới hay không ? Đây là một vấn đề không đơn giản và dễ thống
nhất, khi mà nội dung cơ bản của từng hình thái kinh tế xã hội chưa
thống nhất và khi mà việc nghiên cứu lịch sử các nước phương Đông
ngày càng phát triển. Từ năm 1859, Mác đã nêu lên khái niệm “phương
thức sản xuất Á châu” và cuộc thảo luận về khái niệm đó trong những
năm vừa qua vẫn chưa đạt kết quả mong muốn .
Một vấn đề cũng rất quan trọng đối với phân kỳ lịch sử là mốc thời
gian mở đầu của một thời đại ( đồng thời cũng là mốc kết thúc thời đại
trước đó ). Có những mốc thời đại dễ nhất trí như ở thời cổ đại . Đã có
lúc người ta xem thời cổ đại

bao gồm cả hai hình thái xã hội nguyên

thuỷ và chiếm hữu nô lệ, song dần dần thời đại nguyên thuỷ được tách ra


20
và sự ra đời của nhà nước đầu tiên ở một nước phương Đông trở thành
cái mốc mở đầu thời cổ đại .
Mốc mở đầu các thời đại tiếp sau, cho đến nay vẫn khơng có quan
điểm thống nhất . Có những cách quan niệm khác nhau, hoặc lấy một số
sự kiện biểu hiện sự ra đời của một phương thức sản xuất mới làm tiêu
chí hoặc lấy một biến cố lớn nói lên sự thắng thế của phương thức sản
xuất mới làm tiêu chí. Cuộc thảo luận mốc mở đầu thời cận đại đã thể
hiện những cách nhìn khác nhau đó . Chưa nói đến các trường phái khác
nhau mà chỉ riêng trong trường phái lấy cách mạng tư sản làm tiêu chí
đã là như vậy. Ba nhóm có cách quan niệm khác nhau : nhóm lấy cách
mạng tư sản Anh, nhóm lấy cách mạng Hà lan, nhóm lấy cách mạnh tư

sản Pháp . Mốc mở đầu thời hiện đại cịn có nhiều ý kiến khác nhau ,
đặc biệt trong những năm gần đây .
Bên cạnh đo cịn có vấn đề phương Đơng và phương Tây. Như đã
nói ở trên, do sự phát triển không đồng đều ở các khu vực khác nhau,
mốc mở đầu một thời đại mới ở các nước phương Đông và Phương Tây
không gần nhau, thậm chí cách nhau hằng mấy thế kỷ. Đây là một vấn đề
khó và chưa được trao đổi nmhiều , mặc dầu các bộ sử thế giới ở các
nước khác nhau vẫn theo một sự phân kỳ khá gần giũi nhau, có tính chất
quy ước .
Trong phân kỳ cịn phải chú ý đến việc phân chia giai đoạn lịch
sử .
Trong phạm vi một hình thái kinh tế xã hội tức là một thời đại sự
phát triển của xã hội tuỳ theo một xu hướng nhất định nhưng vẫn gồm
những giai đoạn khác nhau. Việc phân chia giai đoạn lịch sử này là một
bộ phận của phân kỳ lịch sử chung .
Vấn đề tiêu chí phân chia giai đoạn cũng khơng đơn giản, cũng như
việc phân kỳ lịch sử chung, nó phải lấy cơ sở kinh tế hay phương thức
sản xuất làm tiêu chí . Trong trường hợp nầy, việc phân kỳ phải xuất phát


21
từ sự hiểu và đánh giá đúng đặc điểm chủ yếu của phương thức sản xuất
hay hình thái kinh tế – xã hội cần phân tích. Bên cạnh tiêu chí kinh tế,
tiêu chí “đấu tranh giai cấp ” có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi xác
định mốc đánh dấu giai đoạn suy vong của một hình thái kinh tế- xã hội
.
Thông thường, giới sử học thường chia một hình thái kinh tế – xã
hội thành ba giai đoạn : hình thái xác lập, phát triển và suy vong và mốc
mở đầu của một giai đoạn được xác định bằng sự kiện đánh dấu bước
phát triển mới theo các tiêu chí nói trên.

2. Phân kỳ lịch sử dân tộc
Những tiêu

chí của phân kỳ lịch sử dân tộc khơng có gì

khác cơ bản với phân kỳ lịch sử thế giới . Tuy nhiên, nếu như lịch sử thế
giới là sự tổng hợp của hàng chục, hăng trăm quốc gia, dân tộc, thì lịch
sử dân tộc chủ yếu liên quan đến sự phát triển xã hội của một quốc gia
nhất định hoặc đối với một dân tộc nhất định ,dân tộc chủ thể , chiếm đa
số trong cư dân .
Phân kỳ lịch sử dân tộc được đặt trong cai khung chung của
lịch sử thế giới song khơng có nghĩa là phân kỳ đúng theo các thời kỳ,
giai đoạn của lịch sử thế giới. Do đó, cần phải xuất phát từ quá trình phát
triển riêng cụ thể của dân tộc có những nét chung của lịch sử thế giới lại
có những nét đặc thù để xác định rõ các hình thái kinh tế – xã hội đã trãi
qua , cũng như thời gian tồn tại của nó . Chẳng hạn , chế độ chiếm hữu
nơ lệ là một hình thái kinh tế – xã hội có tính phổ biến, nội dung chính
của thời cổ đại trên thế giới, song có nhiều dân tộc tiến thẳng từ xã hội
nguyên thuỷ sang chế độ phong kiến , không trãi qua thời kỳ chiếm hữu
nô lệ. Tuy nhiên, đâu là nói đến việc phân kỳ lịch sử ở một nước ít chịu
những tác động lớn từ bên ngồi, đơi khi rất xa chúng ta .


22
Vì lịch sử dân tộc mang tính đặc trương riêng của một dân
tộc nhất định , đôi khi không theo những quy luật chung của thế giới ,cho
nên hiện nay một số dân tộc trên thế giới co cách phân kỳ theo cách
riêng của mình. Có dân tơc khơng co thời kỳ chiếm hữu nộ lệ, có dân
tộc khơng có thời phong kiến và cũng có dân tộc khơng có thời ttư bản,
vì vậy khi phân ky lịch sử dân tộc chúng ta phả ikết hợp giữa cái chung

và cái riêng, kết hợp cái nội tại trong từng dân tộc với quá trình chung
của lịch sử thế giới .
IV. MỘT SỐ Ý KIẾN PHÂN KỲ LỊCH SỬ HIỆN NAY
1. Phân kỳ lịch sử cận đại thế giới :
Từ trước tới nay, hầu hết các sách của ta đều lấy mốc mở đầu
thời cận đại thế giới là cach mạng tư sản Anh ( 1640 ) và kết thúc thời
cận đại là cách mạng Tháng Mười Nga ( 1917 ) cùng với sự kết thúc của
Chiến tranh thế giới thứ nhất 1918. Nội dung cơ bản cuả lịch sử thế giới
cận đại kéo dai gần 3 thế kỷ đó, nói một cách tổng quát là sự thắng lợi,
phát triển và bước đầu suy vong của nhủ nghĩa tư bản thế giới .
Ở các nước Đông Au và Liên Xô cũ trước đây cũng có
những quan điểm như vậy trong việc phân kỳ lich sử thế giới. Còn nhiều
sử gia phương Tây thì cho rằng thời kỳ lịch sử thế giới cận đại phải bắt
đầu từ sau những cuộc phát kiến địa lý thế kỷ XV. Còn Sách giáo khoa
lịch sử hiện nay của ta thì coi cách mạng Hà Lan ( 1566 ) là mốc mở đầu
của thời kỳ nầy . Vậy tại sao chúng ta chọn mốc nầy ?
Như chúng ta đã biết, ở các nước châu Au chủ nghĩa tư bản
xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến và trãi qua những bước phát triển
mạnh mẽ, khá điển hình. Tuy nhiên lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa
ngày càng lớn lên đã bị kìm hãm bởi quan hệ sản xuất phong kiến . Mâu
thuẩn giữa chế độ phong kiến phản động ngăn cản sự tiến hoá của nhân
loại và chủ nghĩa tư bản đang trên đường phát sinh và phát triển đã nổ
ra rất quyết liệt dưới nhiều hình thức, trong thời kỳ lịch sử lâu dài. Vào


23
cuối thời trung đại giai cấp tư sản tiếp tục làm giàu và có điều kiện phát
triển thế lực của mình qua việc bn bán với nước ngồi, trong đó có
việc bn bán nơ lệ và qua cướp bóc ở thuộc địa. Để gạt bỏ sự kìm hãm
của chế độ phong kiến, giai cấp tư sản mới ra đời ở Tây Au, trước hết là

Hà Lan đã liên minh với giới q tộc tư sản hố lãnh đạo nơng dân và
các tầng lớp nhân dân khác vùng dậy làm cách mạng lật đổ ách thống trị
của thực dân Tây Ban Nha, xây dựng quốc gia độc lập, mở đường cho chủ
nghĩa Tu b?n phát triển . Cho nên, cách mạng năm 1566 ở Hà Lan thực
chất là một cuộc cách mạng tư sản. Tiếp theo cách mạng Hà Lan là là
cuộc chiến tranh mang tính chất tư sản của nơng dân Đức , Cách mạng tư
sản Anh thế kỷ XVII, Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc Anh ở Bắc
Mỹ, sau đó là cuộc Đại cách mạng tư sản Pháp 1789, dây là cuộc cách
mạng điển hình nhất, triệt để nhất. Cuộc cách mạnh nầy lại thúc đẩy sự
bùng nổ của hàng loạt những cuộc cách mạnh tư sản khác ở châu Au,
châu Mỹ và cả ở Nhật và lần lượt nhiều nước châu Á khác .
Như vậy, đứng về mốc thời gian thì cuộc cách mạng tư sản
Hà Lan nổ ra trước cách mạng tư sản Anh đến gần một thế kỷ. Hơn nữa,
nó mở đầu cho sự phát triển của cách mạng tư sản khỏi sự kìm cặp của
chế độ phong kiến . Chính vì thế mà cách mạng tư sản Hà lan mang một
ý nghĩa vô cùng trọng đại là người mở đường đầu tiên cho một giai đoạn
phát triển mới của lịch sử thế giới thời cận đại . Điều đó hồn tồn hợp
với logic phát triển của lịch sử . Do đó khơng thể lấy cuộc cách mạng tư
sản Anh ( 1640 ) là cuộc cách mạng đứng thứ ba về thời gian để mở đầu
thời kỳ lịch sử cận đại, dù ý nghĩa thế giới của nó sâu nặng hơn .
Lịch sử thế giới cận đại, thực chất là lịch sử của các cuộc
cách mạng tư sản , lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, lịch sử đấu
tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, lịch sử của nhân dân
các nước phương Đông chống xâm lược và giải phóng dân tộc . Các cuộc
cách mạng tư sản , trên những mức độ khác nhau đã lật đổ nền thống trị


24
của gai cấp phong kiến, thiết lập hệ thống nhà nước tư sản. Từ khi lên
cầm quyền, giai cấp tư sản xoá bỏ đặc quyền phong kiến, tạo điều kiện

phát triển kinh tế, ban hành chế độ tự do kinh doanh, thống nhất thị
trường tiền tệ, đo lường và quan thuế .
Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên thắng
lợi. Ach thống trị của phong kiến Tây Ban Nha ở Hà Lan bị lật đổ, nền
cộng hoà được xác lập mở đầu cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở
Hà Lan và thế giới.
Vì vậy, cách mạng Hà Lan là mốc mở đầu của mọi biến
động lịch sử châu Au và thế giới. Cũng phải thừa nhậnrằng, cách mạng
Hà Lan lúc bấy giờ tuy diễn ra trên phạm vi không lớn về địa lý ,nhưng
cũng gây ảnh hưởng lớn về mặt tinh thần tư tưởng. Nó là tiếng kèn thúc
giục mọi sự bùng nổ làm biến động thế giới . Sau đó, cuộc cách mạng tư
sản Anh thế kỷ XVII có ảnh hưởng lớn hơn ở phạm vi toàn châu Au .
Ngoài yếu tố chủ quan , cách mạnh tư sản Anh phát huy được ảnh hưởng
rộng lớn còn nhờ kết quả của những cuộc phát kiến địa lý trong thời
gian nầy. Những phát kiến địa lý đó có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với
lịch sử châu Au và thế giới. Nhiều biến động sâu sắc về kinh tế, chính trị,
xã hội ỡ châu Au cũng như như các châu lục khác, từ sau thế kỷ XVI đều
diễn ra dưới ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của những phát kiến địa
lý. Cách mạng tư sản Anh , dĩ nhiên được thừa hưởng thành quả to lớn
đó, cho nên nhiều người lâu nay đã chọn sự kiện này làm mốc mở đầu
cho thời kỳ cận đại, thời kỳ thống trị của chủ nghĩa tư bản. Song xét sâu
hơn thì thấy rằng, nước Anh lại chịu nhiều tác động của cách mạng tư
sản Hà Lan trên nhiều lĩnh vực, nhất làvề kinh tế .
Sau cách mạng tư sản thắng lợi, ở Hà Lan chế độ thống trị
phong kiến Tây ban Nha bị lật đổ , chủ nghĩa tư bản đặc biệt phát triển ở
Nêdeclan, đáng chú ý là thương nghiệp. Chỉ riêng 2000 tàu thuyền buôn
của “các tỉnh liên hiệp” cũng đã hoạt động rất nhộn nhịp ở trên biển. Đến


25

đầu thế kỷ XVII , Am-xtec-dam đã co trên 10 vạn dân, là thương cảng
quốc tế của các tàu buôn Anh , Pháp, Nga, các công ty thương mại Hà
lan như “Công ty Phưong Đông ”, “công ty Đông Ấn”….. được thành lập
từ rất sớm. Các công ty nầy không chỉ mở rộng về buôn bán ở khắp thế
giới mà còn xâm lược đất đai các nước làm thuộc địa . Chính nhờ có
thắng lợi của cách mạng 1566 mà trên một thế kỷ , Hà Lan trở thành
cường quốc thương mại số một thế giới . Điều đó đã góp phần làm cho sự
phát triển phồn vinh của chủ nghĩa tư bản ở Hà Lan. Giai cấp tư sản ở
các nước Tây Au đã sớm rút đươc bài học quý báu từ cách mạng Hà Lan
Cách mạng tư sản Hà Lan đã vạch ra sơ đồ tổng thể nhiệm
vụ chung của cách mạng tư

ở các nước Au, Mỹ . Chính sự ra đời của

thành thị , sự phát triển của sản xuất, các cuôc phát kiến địa lý đã dẫn
đến sự phát triển của lực lượng sản xuất mới- Tư bản chủ nghĩa. Tuy
vậy, sản xuất tư bản chủ nghĩa thời kỳ nầy chưa thốt khỏi khn khổ của
chế độ phong kiến. Đại bộ phận sản xuất đều là thủ công, kinh tế tiểu
nông

vẫn chiếm ưu thế. Mặc dầu vậy , những mầm móng đầu tiên của

chủ nghĩa tư bản đã có ãnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt kinh tế , văn hố
và xã hội lúc đó. quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thì các giai cấp
đại diện cho nó ( tư sản – vô sản ) cũng xuất hiện. Việc ra đời các giai
cấp mới làm cho kết cấu xã hội phong kiến thay đổi. Đấu tranh giai cấp
ngày càng quyết liệt . Từ thế kỷ XV – XVI trào lưu tư sản đã có hai đợt
sóng lớn là : Văn hố phục hưng và Chiến tranh nông dân Đức, thực chất
đây là những hoạt của giai cấp tư sản hoặc do giai cấp tư sản hướng đạo,
đều mang tính chất tư sản .

Về mặt ý nghĩa lịch sử thì cuối thế kỷ XVI , cách mạng Hà
Lan đã bắt đầu tấn công trực diện vào chế độ phong kiến. Sau cuộc cách
mạng nầy, giai cấp tư sản thế giới liên tiếp làm các cuộc cách mạng tư
sản ở nhiều nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Các triều đại phong
kiến kế tiếp nhau sụp đổ, các đặc quyền đặc lợi của chúng dần dần bị xoá


×