Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Chuyen de Kinh nghiem BD HSG Ngu van THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.3 KB, 30 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU. Trang. I. Lý do chọn đề tài. 3. 1. Cơ sở lý luận. 3. 2. Cơ sở thực tiễn. 3. II. Mục đích nghiên cứu. 5. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 5. IV. Phương pháp nghiên cứu. 6. PHẦN II: NỘI DUNG I. Những vấn đề lý luận về bồi dưỡng học sinh giỏi. 6. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 7. III. Các biện pháp cần thiết trong công tác bồi dưỡng HSG.. 9. 1. Phát hiện và lựa chọ đội tuyển HSG. 9. 2. Giáo viên lập kế hoach bồi dưỡng HSG. 11. 3. Tích lũy tư liệu dạy học. 12. 4. Hướng dẫn HS phương pháp học tập hiệu quả. 13. 5. Những nội dung kiến thức cần bồi dưỡng theo khối lớp. 14. 6. Rèn các kỹ năng diễn đạt hay cho học sinh. 23. 7. Chấm chữa bài viết thường xuyên cho học sinh. 27. IV. Kết quả. 28. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. 28. 2. Kiến nghị, đề xuất. 28. CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Cụm từ viết tắt THCS:. Nghĩa đầy đủ Trung học cơ sở. HS. Học sinh. TS:. Tổng số. SGK:. Sách giáo khoa. CNTT. Công nghệ thông tin. SKKN:. Sáng kiến kinh nghiệm. NXB GD. Nhà xuất bản Giáo Dục. BGH. Ban giám hiệu.. GV. Giáo viên. HSG. Học sinh giỏi. PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và những phẩm chất, tư duy cho học sinh góp phần đáp ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho người học. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thật sự giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi tâm huyết, trách nhiệm và phụ thuộc nhiều ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng lực giảng dạy của người giáo viên. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng nghĩa là công việc khó khăn. Việc phát hiện học sinh giỏi, có thiên bẩm văn chương càng không phải chuyện là dễ dàng trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng: “Chuyện ngưòi thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người trồng hoa, chơi cây cảnh”. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế cho thấy công việc phát hiện , bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người thầy dạy văn. 2. Cơ sở thực tiễn Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó đổi mới phương pháp là khâu quan trọng. Trong phương pháp tổ chức, người học, đối tượng của họat động “dạy”, trở thành trung tâm, là chủ thể của hoạt động “học”, giáo viên là người tổ chức, chỉ đạo. Phương pháp dạy học đổi mới nhằm tăng cường, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> trong hoạt động học tập của học sinh. Với ý nghĩa ấy, việc phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn văn trở thành nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học của giáo viên và chiến lược phát triển của nhà trường. Để có được một học sinh giỏi văn, ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có vai trò, năng lực, trách nhiệm, niềm đam mê nhiệt huyết của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Trải qua quá trình dạy học, tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn ở trường phổ thông, nhận thấy khả năng, năng lực tiếp nhận tác phẩm và tạo lập văn bản ở những học sinh giỏi văn vẫn còn hạn chế. Điều ấy sẽ chi phối kết quả học văn của HSG Ngữ văn. Văn học là nhân học, văn học giúp cho con người mở rộng tầm hiểu biết, biết yêu quê hương đất nước, biết bày tỏ lòng biết ơn đối với công sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ tổ tiên. Văn học giúp con người tự hào về những trang sử vẻ vang của của cha ông ta, giúp ta có thể dễ dàng hòa nhập với bạn bè khắp năm châu. Văn học có đặc trưng là nghệ thuật ngôn từ, vì thế dạy học văn là dạy cho học sinh thấy cái hay cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ. Từ đó các em biết cách vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn góp phần giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập văn hóa hiện nay. Tuy nhiên do xu hướng thực dụng trong xã hội hiện nay, phụ huynh và học sinh còn nhận thức phiến diện trong các môn học, chủ yếu chạy theo các môn học "thời thượng" như Tiếng Anh, Toán, Lý, Hoá... để phục vụ thi vào các ngành kinh tế. Vì Vậy môn Ngữ Văn thường bị xem nhẹ, bỏ qua. Học sinh không yêu thích môn Ngữ Văn. Do đó việc bồi dưỡng học sinh giỏi Văn là rất quan trọng để các em yêu thích bộ môn. Qua quá trình công tác và giảng dạy Ngữ Văn, tôi nhận thấy mình có đủ kinh nghiệm để nghiên cứu chuyên đề này. Chuyên đề này khi vân dụng thực tế sẽ đem lại hiệu quả thiết thực. Qua chuyên đề sẽ giúp học sinh yêu bộ môn Ngữ Văn hơn, từ đó vận dụng thành thạo ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ vào nói và viết đúng và sử dụng tốt Tiếng Việt văn hóa. Vấn đề tôi muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp trong chuyên đề.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> này là “Kinh nghiệm bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ sở.” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên đều có những kinh nghiệm giảng dạy riêng, song mục đích cuối cùng gặp nhau là : Làm sao để học sinh yêu thích học môn Ngữ văn? Làm sao để có được đội tuyển học sinh giỏi Văn có năng lực giải quyết các vấn đề khó trong quá trình giao tiếp và tiếp nhận văn chương ?Làm sao để học biết dùng từ hay, đúng trong nói và viết? Những câu hỏi đó có lẽ luôn trăn trở trong lòng mỗi giáo viên chúng ta. Mục đích của chuyên đề này là đóng góp một vài kinh nghiệm nhỏ bé của tôi trong việc dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 để học sinh yêu thích bộ môn, kết hợp được những phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống và những phương pháp mới của dạy học hiện đại. Chuyên đề này nhằm giúp giáo viên chúng ta phát hiện, xây dựng và bồi dưỡng đội tuyển HSG Ngữ văn, tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu, cảm thụ và tạo lập tốt một văn bản và ứng dụng vào cuộc sống thực tiễn tốt nhất. Bồi dưỡng học sinh giỏi còn góp phần đẩy mạnh phong trào học tập tốt trong nhà trường, phát triển năng lực trí tuệ, giáo dục tư tưởng tình cảm thẫm mĩ cho học sinh. Đồng thời giúp học sinh có định hướng cho việc chọn ngành, chọn nghề, tạo điều kiện tốt để học sinh tiếp tục học chuyên sâu ở ngành học, bậc học cao hơn Mục tiêu cuối cùng mà chuyên đề muốn đạt tới là mỗi giáo viên sẽ tìm ra một phương pháp tối ưu để dạy học đạt kết quả tốt nhất phù hợp với đối tượng học sinh của mình. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Chương trình giảng dạy môn Ngữ văn THCS qua các khối lớp 6,7,8,9. - Đội tuyển học sinh giỏi ở các khối lớp 6,7,8,9. - Đề thi học sinh giỏi Ngữ Văn của các khối lớp những năm gần đây..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Điều tra các hoạt động dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên - học sinh trong môn Ngữ văn. Tổng kết kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy Phương pháp cụ thể: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, hương pháp khái quát hóa.. PHẦN II. NỘI DUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN. Ông cha ta đã có câu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Đúng vậy chất lượng HSG là đích và tiêu chuẩn mà mỗi nhà trường luôn muốn hướng tới. Trong nhà trường công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có vai trò rất quan trọng, nó là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng dạy học của nhà trường. Vì vậy bồi dưỡng học sinh giỏi là bước đi đầu tiên để đào tạo nhân tài cho đất nước và là nhiệm vụ quan trọng của ngành Giáo dục. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng hai yếu tố quyết định sống còn là yếu tố giáo viên và học sinh. Nhưng thế nào là một học sinh giỏi văn? Bồi dưỡng học sinh giỏi văn như thế nào cho có hiệu quả? Trả lời được câu hỏi đó cũng chính là cái đích của người gióa viên dạy văn muốn vươn tới. Đối với thầy khi nhìn rõ cái đích này mới xác định được con đường bồi dưỡng với những nội dung và phương pháp thích hợp nhằm dìu dắt học sinh của mình vươn tới cái đích mà các em mơ ước. Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng bộn bề, phức tạp và vô cùng phong phú. Có lẽ vì thế mà quan niệm về học sinh giỏi văn cũng không hề đơn giản. Có ý kiến cho rằng: muốn có trò giỏi thì trước hết phải có thầy giỏi. Tuy nhiên trên thực tế không hoàn toàn như vậy, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Qua đó muốn khẳng định rằng, vai trò của người thầy trong công tác phát.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> hiện và bồi dưỡng HSG là hết sức quan trọng. Là giáo viên bồi dưỡng đội tuyển chúng ta phải là một người thầy vừa hồng vừa chuyên, hay nói theo cách khác, phải đủ tâm và đủ tầm, phải có ý thức tích cực trau dồi, tích lũy chuyên môn, đọc nhiều, hiểu sâu vấn đề mà mình dạy học sinh theo phương châm biết mười dạy một, thường xuyên tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các giáo viên có kinh nghiệm và chuyên môn vững vàng trong và ngoài huyện, tỉnh, chủ động tìm tòi tư liệu dạy học trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet, lựa chọn trang web nào hữu ích, các tác giả giỏi, các đề thi hay, chuyên đề hấp dẫn… để sưu tầm tài liệu. Một điều hết sức quan trong đó là truyền cho học sinh niềm say mê, hứng thú, tinh thần ham học hỏi, tìm tòi cái mà chúng ta gọi là truyền lửa cho học sinh. Tôi nghĩ rằng Người thầy giáo có vai trò quyết định nhất đối với kết quả HSG, các em HS có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của mình; Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó còn phụ thuộc rất lớn ở các em học HS. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống như chúng ta ươm một mầm non. Nếu chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm sóc, vun xới thì mầm non sẽ xanh tốt, phát triển. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Công tác bồi dưỡng HSG trong các nhà trường hiện nay cơ bản được chú trọng đầu tư chuyên môn. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhìn nhận thẳng thắng những vấn đề thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng HSG để từ đó có những biện pháp cụ thể đem lại hiệu quả tốt nhất. Thục trạng đó được biểu hiện rõ ở hai mặt: Thuận lợi và khó khăn. 1. Thuận lợi: Ban giám hiệu nhà trường luôn sát sao chỉ đạo, quan tâm kịp thời của BGH, có những kế hoạch cụ thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng HSG của giáo viên . Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học tương đối đầy đủ giúp cho việc dạy và học được tốt nhất...

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG nhiều năm liền được chọn vào đứng bồi dưỡng HSG. Trong nhiều năm liền tổ luôn có HSG Văn đạt giải cao vòng Thành phố và cấp tỉnh. 2. Khó khăn: Trường THCS Liên Bảo là trường đại trà nên chất lượng tuyển chọn đầu vào cho đội tuyển học sinh giỏi văn còn bị hạn chế. Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải hoàn thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm do đó cường độ làm việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế. Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, lại phải học thêm những môn khác, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG nên rất hạn chế về thời gian tự học nên các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG, do đó kết quả không cao là điều tất yếu. Một số học sinh tham gia học bồi dưỡng chưa cố gắng nhiều nên kết quả thi học sinh giỏi ở một số môn chưa cao. Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu. Đặc biệt hiện nay dù vất vả bồi dưỡng học sinh giỏi trong cả năm học có nhiều học sinh đạt giải cao nhưng cuối năm chúng ta vẫn không được xét thi đua vì tỷ lệ khen thưởng ít. Do đó dẫn đến tâm lý chán nản không muốn dùng hết tâm huyết cho công tác bồi dưỡng. Trước những thuận lợi, khó khăn như trên và qua một thời gian tham gia công tác bồi dưỡng HSG, chúng tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác này cần thực hiện tốt những biện pháp sau đây. III. CÁC BIỆN PHÁP CẦN THIẾT TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1. Phát hiện và chọn lựa đội tuyển học sinh giỏi 1.1. Phát hiện học sinh giỏi Việc chọn được đội tuyển học sinh giỏi văn hiện nay không phải chuyện dễ. Đó là nỗi buồn chung của người dạy văn hiện nay. Có lẽ số say mê học văn trong đội tuyển là rất ít mà chủ yếu là còn những em không đi vaò được đội tuyển nào thì các em vào đội tuyển Ngữ văn. Như vậy giáo viên văn chúng ta phải căng mình lên để bồi dưỡng đội tuyển gọi là “chắp vá”. Giáo viên chúng ta phải “ nhào nặn” những học sinh “ế” của đội tuyển khác. Tuy nhiên với niềm say mê và trách nhiệm chúng ta vẫn có thành công. Đó là điều đáng quí, đáng trân trọng. Giải pháp quan trọng là việc lựa chọn HS vào đội tuyển. GV đứng lớp phải để ý HS ngay từ những ngày đầu lớp 6. Ngoài việc lựa chọn qua điểm số của HS thì việc lựa chọn thông qua các lời giải độc đáo là hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, các HS năng khiếu là các HS có những bài viết hay (hay câu hỏi) khác với thầy và các bạn, có thể nó còn dài dòng và lủng củng, nhưng không sao, ta sẽ uốn nắn sau. Có những HS lại có kiểu ghi chép rất lạ, không giống những gì GV ghi trên bảng, nhưng khi ta đọc kĩ cách ghi ấy thì lại vừa đủ kiến thức của bài, lại vừa có sự ghi nhớ độc đáo của cá nhân HS đó. Tức là, kĩ năng quan sát tinh tế để phát hiện sớm HSG của GV là rất quan trọng. Chọn được HSG vào đội tuyển đã khó, giữ các em ở lại đội tuyển đến năm lớp 9 còn khó hơn bởi vì các em sẽ rẽ ngang chuyển sang bộ môn khác có khả năng đạt giải cao hơn môn Ngữ Văn. Theo tôi một học sinh giỏi văn cần có những yếu tố sau: a. Học sinh có năng lực văn học hoặc năng khiếu văn chương. Nói đến năng khiếu là nói đến tài năng thiên bẩm của con người ở một hoạt động sáng tạo nào đó đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật. Trong lĩnh vực sáng tạo cái đẹp chỉ có cố công, gắng sức thôi không đủ. Phải có tài, có năng khiếu. Đây là lĩnh vực không thể đào tạo được hàng loạt bằng mở lớp, mở trường . Nếu năng khiếu là chuyện trời sinh thì năng lực văn học có thể đào tạo được. Năng lực văn học là năng lực chiếm lĩnh khoa học văn học bao gồm nhiều lĩnh vực:.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> văn học sử, lý luận văn học, khả năng diễn đạt, cảm thụ, phân tích, giải thích. Trong nhà trường phổ thông chúng ta không đặt ra mục tiêu đào tạo ra những người làm văn chương chuyên biệt tức nghệ sĩ. Còn sau này các em trở thành nhà văn hay nghệ sĩ lại là chuyện khác. Nhà văn nào mà chẳng từng là học sinh? Như vậy tài năng văn chương và năng lực văn học có mối quan hệ hỗ trợ nhau. Một trong những yếu tố quan trọng hất của năng lực văn học là hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học. Nhưng trong lĩnh vực văn học không chỉ là chuyện của lý trí mà còn là vấn đề tình cảm, cảm xúc. Đó là năng lực cảm thụ thẩm mỹ. b. Những phương diện của năng lực văn học. Gồm những mặt sau: 1. Năng lực chỉ ra cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học một cách chính xác. 2. Khả năng nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học, bao gồm: - Kiến thức về lịch sử văn học. - Kiến thức về lý luận văn học. - Kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể. 3. Khả năng diễn đạt trình bày suy nghĩ và tình cảm cũng như hiểu biết của mình về văn học một cách sáng sủa, mạch lạc có sức thuyết phục theo yêu cầu của kiểu loại văn bản trong nhà trường. Tuy nhiên trong thời đại thông tin mạng hiện nay giáo viên không còn là độc quyền về kiến thức để học sinh bắt buộc phải theo , học sinh có thể tìm kiếm tư liệu trên các phương tiện khác. Do đó một yêu cầu mới hiện nay của học sinh giỏi văn là: Ngoài kiến thức kĩ năng học được trên lớp và đọc được trong sách giáo khoa, học sinh cần chủ động tìm đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác qua các kênh thông tin khác nhau. Hiện nay, tài liệu tham khảo rất phong phú, dưới sự tư vấn của GV, các em cần tìm đọc các tài liệu hay để tích lũy cho mình. Mặt khác, các diễn đàn trao đổi về kiến thức trên Internet cũng rất nhiều, ở đó thường hội tụ các GV và HS rất giỏi, chúng ta và cả HS nên tham khảo có chọn lọc các kiến thức trên các.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> diễn đàn đó. Các phương diện trên là những biểu hiện và đồng thời cũng là những yêu cầu cụ thể đối với học sinh giỏi văn. 1.2. Cách chọn học sinh giỏi Thông thường hiện nay chúng ta có được đội tuyển học sinh giỏi là đầu năm học cho các em đăng ký vào đội tuyển. Khi có đội tuyển rồi chúng ta tiến hành bồi dưỡng và lựa chọn những em có năng lực văn học nhất để thành đội tuyển nòng cốt và tập trung bồi dưỡng sâu. Loại những em không có khả năng. Để chọn được những học có năng lực văn học chúng ta thường cho các em làm đề kiểm tra. Trong quá trình chấm chữa bài chúng ta sẽ có đội tuyển thực sự. Quá trình này không chỉ diễn ra một lần mà trong suốt quá trình bồi dưỡng. Kịp thời uốn nắn những sai sát cho các em tiến bộ. Sát đến ngày thi là chốt danh sách học sinh có năng khiếu thực sự. Muốn vậy đề kiểm tra khảo sát đội tuyển phải toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng và sự sáng tạo. Đặc biệt là xu hướng ra đề thi hoặc câu hỏi mở trong đề thi để đánh giá sự sáng tạo của học sinh. 2. Giáo viên lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi. Một biện pháp nữa không thể thiếu là GV phải lập kế hoạch cho mình một cách thật cụ thể, chi tiết, chia ra nhiều giai đoạn (mỗi giai đoạn phải cụ thể đến từng tuần), tránh tình trạng thích đâu dạy đó. Cá nhân tôi thấy rằng, kế hoạch càng cụ thể chi tiết thì càng dễ thực hiện và dễ rút kinh nghiệm. Sau mỗi giai đoạn cần rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc, đề ra phương hướng thực hiện và điều chỉnh cho các giai đoạn tiếp sau đó. Các bạn có thể tham khảo mẫu kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi như sau: Tháng. Tuần/ buổi. Nội dung bồi dưỡng. Giáo viên dạy. Ghi chú.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Cần phải hiểu việc lập kế hoạch bồi dưỡng là cần thiết chứ không phải là kế hoạch đối phó. Có được điều ấy thì bồi dưỡng học sinh giỏi mới đem lại kết quả mong muốn. 3. Tích lũy tư liệu dạy học. Đây là biện pháp thực tế và khá hiệu quả. Tư liệu tích lũy có thể ở những dạng sau: - Học cách viết văn hay của các nhà văn qua các kiệt tác văn học. - Sách tham khảo, nâng cao. - Giáo án dạy đội tuyển HSG của bản thân và đồng nghiệp qua những năm bồi dường HSG. - Đề thi hSG các năm, của nhiều địa phương. - Bài văn hay của học sinh các khóa được tích lũy. - Sưu tầm tài liệu, kinh nghiệm trên mạng iternet. - Sổ ghi chép kinh nghiệm riêng.... Có thể nói đó là những báu vật, là cẩm nang của chúng ta để bồi dưỡng học sinh giỏi được tốt nhất. Tài sản của giáo viên chúng ta lớn nhất, nhiều nhất là sách. Tuy nhiên phải biết cách khai thác vận dụng cho có hiệu quả nhất chứ không nên bắt chước , rập khuôn. Nếu như vậy học sinh sẽ mau chán học bởi học sinh bây giờ khác xưa nhiều rồi,các em không thụ động, không tiếp nhận kiến thức một chiều từ giáo viên. 4. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập có hiệu quả. Trong công tác bồi dưỡng HSG, với thời lượng lên lớp với đội tuyển là không nhiều, thì việc hướng dẫn HS tự học là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy HS nào có tinh thần và phương pháp tự học tốt thì sẽ thành công cao hơn các bạn khác. GV cần hướng dẫn cho HS (và cả phụ huynh HS) cách sử dụng quỹ thời gian của mình (con em mình) một cách hợp lý và hiệu quả, tránh lãng phí thời gian, nhưng cũng đảm bảo thời gian nghỉ ngơi giải trí. Thực tế cho thấy, có HS học rất nhiều, thâu đêm suốt sáng, không thu xếp được thời gian nghỉ ngơi, nên hậu quả là.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> không những không thành công mà còn gây mụ mẫm đầu óc, cơ thể mệt mỏi kéo dài. Mặt khác, người thầy cần bồi dưỡng HS dưới nhiều hình thức, trực tiếp và gián tiếp (qua giờ giảng trên lớp, qua gặp gỡ ngoài giờ, qua email, các diễn đàn, câu lạc bộ…) với lòng nhiệt tình, tận tụy cao độ, đem hết cái tâm của mình ra để truyền tải kiến thức kĩ năng và phương pháp cho học trò. Ngoài ra còn là giải pháp về tâm lý. Người thầy, ngoài việc dạy HS kiến thức, kĩ năng, phương pháp còn phải kết hợp các biện pháp về tâm lý. Sau mỗi kỳ thi của các em, sẽ có những em thành công và có những em thất bại, tôi thường yêu cầu các em viết ra suy nghĩ của mình về nguyên nhân thành công (thất bại) của bản thân, đề ra phương hướng, kế hoạch và mục tiêu đạt giải mấy cho vòng thi sau. Sau đó cho các em dán lên góc học tập của mình, ngày nào các em cũng nhìn thấy những điều mà mình đã viết, từ đó tạo động lực không nhỏ cho thành công sau này. 5. Những nội dung kiến thức cần bồi dưỡng theo khối lớp. Thực ra, việc bồi dưỡng học sinh giỏi khi có kết quả đem lại, ngoài sự nỗ lực ra còn có cả yếu tố may mắn, sự thăng hoa trong bài viết khi đi thi của học sinh và sự mát tay của mỗi thầy cô giáo. Tuy nhiên có bột mới gột nên hồ. Do đó cần phải có nội dung kiến thức bồi dưỡng đầy đủ và cụ thể để học sinh co hành trang đi thi. Nội dung kiến thức này là sự mở rộng nâng cao hơn từ những kiến thức học chính khóa trên lớp. Muốn có được bài viết hay đạt giải thì phải có kiến thức nền cơ bản. Dựa trên nội dung và cấu trúc đề thi để giáo viên có hướng bồi dưỡng hiệu quả. Tuy nhiên cần có sự sáng tạo linh hoạt trong quá trình dạy học. Nội dung kiến thức cần bồi dưỡng theo khối lớp có thể tham khảo như sau: LỚP 6 Phần 1: Những vấn đề cơ bản 1. Phần Tiếng Việt - Hiểu nghĩa của từ trong một văn cảnh nhất định.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> - Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ. - Giá trị biểu đạt của từ láy, hệ thống từ loại; l từ trong một văn cảnh cụ thể. - Giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ - Câu tiếng Việt ( câu tồn tại và câu miêu tả ) 2. Cảm thụ văn học: - Tín hiệu nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ, bài văn ( Cách bố trí câu thơ, hình ảnh thơ, văn; nét riêng, nét độc đáo … ). Cách làm bài văn cảm thụ văn học… * Dạng bài cảm thụ văn học không có khuôn mẫu cụ thể nào mà qua bài cảm thụ học sinh phát huy được sự sáng tạo trong cảm thụ văn học. Các em đưa ra được nhứng phát hiện mới lạ. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể hướng HS cảm thụ theo định hướng sau: Bước 1: Đọc kỹ đề bài, nắm vững yêu cầu của đề bài. Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, đoạn văn cần cảm thụ. Bước 2: Đoạn thơ, đoạn văn ấy có cần phân ý không? Nếu có thì cần phân mấy ý? Đặt tiêu đề cho từng ý. Gọi tên các biện pháp nghệ thuật qua các dấu hiệu. Bước 3: Lập dàn ý cho bài cảm thụ. Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật với nội dung đã tìm. Dự kiến nêu cảm nghĩ, đánh giá, liên tưởng theo hiểu biết của bản thân xoay quanh nội dung tìm hiểu. Bước 4: Viết thành đoạn văn hay bài văn cảm thụ. 3. Phần tập làm văn: a. Văn kể chuyện ( kể chuyện đời thường, kể chuyện tưởng tượng), cho tình huống và xây dựng thành câu chuyện có cốt truyện hấp dẫn. b. Văn miêu tả: Tả người (người thân, người mới quen, tả nhân vật văn học…) , tả cảnh. LỚP 7 I. Phần Tiếng Việt.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> - Nắm được các khái niệm cơ bản về các phép tu từ (Điệp ngữ, chơi chữ, liệt kê ). Vận dụng vào làm bài tập cảm thụ văn học. - Năm được các khái niệm về (Từ láy, đại từ, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, từ đồng âm, thành ngữ). Thấy được vai trò, tác dụng và sự biến đổi linh hoạt của các từ này trong diễn đạt, vận dụng vào phân tích thơ văn. - Phần câu: Câu rút gọn, câu đặc biệt, các loại dấu câu, từ đó soi sáng vào phân tích văn bản văn học. II. Phần Văn 1. Văn học dân gian (ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ). - Triển khai dạy theo từng chủ đề của ca dao như : Hình ảnh con cò trong ca dao, hình ảnh người mẹ trong ca dao, hình ảnh quê hương đất nước trong ca dao, tiếng nói của tâm hồn, tình cảm trong ca dao... - Phần tục ngữ dạy theo qui trình: giải thích, tìm hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng , phân tích nội dung và nghệ thuật của tục ngữ. Cách phân tích tục ngữ có thể tham khảo kiểu bài nghị luận xã hội ở lớp 9 (có mẫu phần lớp 9) 2.Văn học trung đại - Bồi dưỡng theo hướng: + Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử, tác giả, phân tích sâu theo từng tác phẩm cụ thể. + Bồi dưỡng theo chuyên đề: như chuyên đề Lòng yêu nước và tự hào dân tộc trong văn học trung đại, chủ đề nhân đạo trong văn học trung đại... 3. Văn học hiện đại - Bồi dưỡng theo cụm tác phẩm, theo chuyên đề. + Thơ Hồ Chí Minh.(nội dung, nghệ thuật nhóm đề tài, cảm hứng...) + Thơ Xuân Quỳnh (Tiếng gà trưa). + Các văn bản nghị luận hiện đại, cách lập luận, phân tích nhận định về tác phẩm. + Bình giảng những đoạn văn hay trong các văn bản nhật dụng..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> III. Phần tập làm văn a. Văn biểu cảm: Lập dàn ý, diễn đạt, lưu ý sử dụng dạng biểu cảm trực tiếp trong bài văn bằng từ ngữ biểu cảm, câu văn biểu cảm, đan lồng quá khứ, hiện tại và suy ngẫm về tương lai. b. Văn nghị luận : ( giải thích và chứng minh) Ngoài cung cấp khái niệm hai thể văn nghị luận này, quan trọng là giúp các em kỹ năng làm bài tốt nhất. Muốn vậy phải có thời phải rèn luyện các kiểu bài cụ thể. Từ bài viết của các em, giáo viên chấm chữa bài để giúp các em tiến bộ. Các dạng đề nêm bám vào phần tác phẩm văn học đã học trên lớp để có kiến thức và tư liệu viết bài. Bước đầu bồi dưỡng kiểu bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 7. - Dàn ý tham khảo của kiểu bài nghị luận giải thích: + Mở bài: - Dẫn dắt vào vấn đề: có thể nêu xuất xứ, mục đích của vấn đề, hoặc tù một nội dung lớn hơn dẫn tới vấn đề. - Nêu vấn đề: giới thiệu vấn đề cần giải thích (thường là nêu câu trích dẫn trong đề bài), và giới hạn của nó khi cần thiết. + Thân bài: (Giải thích lần lượt từng nội dung, khía cạnh của vấn đề bằng cách vận dụng lý lẽ và dẫn chứng tiêu biểu chính xác đã được xắp xếp theo một trình tự khoa học hợp lý) 1. Luận điểm 1: thường là trả lời câu hỏi Như thế nào? Là gì? Có ý nghĩa gì?.... a. Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng) b. Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng) c. ...... 2. Luận điểm 2: thường là trả lời câu hỏi Tại sao? - Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng) - Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng).

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - ...... 3. Luận điểm 3: Thường trả lời câu hỏi Phải làm gì? a. Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng) b. Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng) c. ...... + Kết bài: Tóm tắt, khẳng định lại ý nghãi hoặc tầm quan trọn, tác dụng... của vấn đề và rút ra bài học cho bản thân. c. Cảm thụ văn học: Rèn kỹ năng cảm thụ về đonạ thơ, đoạn văn ngoài chương trình tham khảo qua sách báo, trên mạng... LỚP 8 I. Phần Tiếng Việt - Nắm vững kiến thức cơ bản trên lớp học chính khóa. - Vận dụng kiến thức về các biện pháp tu từ vào cảm thụ thơ văn. II. Phần văn 1. Văn học trung đại - Bồi dưỡng kỹ năng phân tích riêng lẻ từng tác phẩm cụ thể. - Bồi dưỡng theo chuyên đề: Lòng yêu nước và tự hào dân tộc trong thơ văn trung đại... (Tích hợp liên hệ với kiến thức lớp 7 đã học). 2. Thơ văn yêu nước đầu thế kỷ 20. - Bồi dưỡng về hoàn cảnh lịch sử, thân thế sự nghiệp của các tác giả, phân tích nghệ thuật và nội dung của từng tác phẩm. - Bồi dưỡng theo chủ đề tổng hợp: Hình tượng người chí sĩ trong thơ văn đầu thế kỷ 20, tâm sự yêu nước trong văn học đầu thế kỷ 20... 3. Văn học giai đoạn 1930-1945 a. Văn học hiện thực..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Bồi dưỡng riêng lẻ từng tác phẩm để lấy nền kiến thức cơ bản. - Bồi dưỡng theo chuyên đề: Hình tượng người nông dân trong văn học giai đoạn 1930-1945, chủ đề nhân đạo trong văn học trung đại, Nghệ thuật đặc sắc của các văn bản được học (xây dựng nhân vật điển hình, hoàn cảnh điển hình...) b. Văn học lãng mạn - Tìm hiểu riêng từng tác phẩm về tác giả, phong cách thơ, nội dung và nghệ thuật đặc sắc. - Bồi dưỡng theo chủ đề: Tâm sự yêu nước kín đáo trong văn học lãng mạn, tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp trong thơ văn lhãng mạn; hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh... c. Văn học cách mạng - Thơ văn Hồ Chí Minh: gồm Các sáng tác văn xuôi ở hải ngoại trước năm 1930, Tập “Nhật ký trong tù”, Những sáng tác thơ ở chiến khu Việt Bắc của Hồ Chí Minh: phân tích riêng lẻ từng bài thơ, tiếp đó là bồi dưỡng theo dạng tổng hợp kiến thức như: Hình ảnh trăng trong thơ Bác; Hình tượng Bác Hồ qua các sáng tác thơ văn... - Thơ Tố Hữu: tập trung ở bài thơ “Khi con tu hú” , bồi dưỡng vể đẹp của bức tranh vào hè qua cảm nhận của người tù, long khao khát tự do... 3. Phần Tập làm văn a. Văn tự sự - Kỹ năng viết văn tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận. - Văn thuyết minh: cách làm bài văn thuyết minh, các kiểu bài thuyết minh. b. Văn nghị luận: Đây là phần trọng tâm nhất:.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Bồi dưỡng khái niệm, cách lập luận trong các kiểu bài giải thích và chứng minh, cách trình bày luận diểm, yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận... đặc biệt phải có các dạng đề cụ thể để học sinh rèn kỹ năng viết. - Kiểu bài nghị luận gắn với phần tác phẩm văn học phải được rèn thường xuyên. c. Cảm thụ văn học: Tiếp tục bồi dưỡng theo các phương pháp và kỹ năng ở các lớp dưới đã học. LỚP 9 I. Phần Tiếng Việt - Bám sát kiến thức học trên lớp và học thêm buổi chiều. Từ đó mở rộng nâng cao vận dụng vào làm bài tập Tiếng Việt có trong đề thi hoặc làm bài tập cảm thụ văn học, bài tập tình huống. - Ôn tập lại kiến thức lớp 6,7,8 về các phép tu từ để giải quyết bài tập. II. Phần văn học 1. Văn học trung đại - Bồi dưỡng kiến thức về hoàn cảnh lịch sử. - Bồi dưỡng theo từng tác phẩm trọng tâm: + Nguyễn Dữ và “Chuyện người con gái Nam Xương” (Phân tích truyện, giá trị nhân đạo và hiện thực, hình tượng người phụ nữ ...) + “Truyện Kiều” của Nguyễn Du gồm các đoạn trích học: phân tích riêng lẻ từng đoạn trich, Bồi dưỡng theo nhóm nội dung như: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong “Truyện Kiều”. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Truyện Kiều”. Tấm loàng nhân đạo của thi hào Nguyễn Du....

<span class='text_page_counter'>(20)</span> + Truyện “ Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu: tập trung bồi dưỡng ở việc xây dựng người anh hùng, quan niệm vè người anh hùng, quan điểm nhân nghĩa... + Tổng hợp các tác phẩm như: Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việ Nam từ thế ký 16 đến thế ký 19 (Muốn làm được đề này phải có sựu huy động kiến thức của lớp 7, lớp 8.); giá trị nhân đạo của các tác phẩn văn học trung đại... 2. Văn học hiện đại Việt Nam từ sau 1945 a. Phần thơ - Bồi dưỡng kiến thức về hoàn cảnh lịch sử (văn học thời kỳ chống Pháp, văn học thời kỳ chống Mỹ, Văn học sau chiến tranh, văn học thời kỳ đổi mới) - Bồi dưỡng theo từng tác phẩm cụ thể. Gồm 10 bài thơ - Bồi dưỡng theo nhóm chuyên đề: Hình tượng anh bộ đội cu Hồ qua các sáng tác thơ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng; Hình ảnh con người mới, cuộc sống mới .... b. Phần truyện:( gồm 4 truyện ngắn). - Bồi dưỡng theo từng tác phẩm cụ thể: Tác giả, hoàn cảnh sáng tác, phong cách sáng tác, nội dung và nghệ thuật, phân tích nhân vật... - Bồi dưỡng theo dạng tổng hợp kiến thức. c. Văn học nước ngoài - Nắm được tác giả, nội dung , nghệ thuật từng tác phẩm. Tích hợp với văn học Việt Nam. III. Phần Tập Làm Văn 1. Kiểu bài thuyết minh 2. Văn tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 3. Tóm tắt tác phẩm tự sự. 4. Kỹ năng viết các dạng đoạn văn: qui nạp, diễn dịch, tổng- phân- hợp... 5. Văn nghị luận: đây là phần trọng tâm bồi dưỡng, có 2 dạng bài nghị luận ở lớp 9: - Kiểu bài nghị luận xã hội: gồm 2 dạng + Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo đức, lối sống: + Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội Với dạng bài nghị luận xã hội có thể hướng dẫn học sinh làm theo các bước sau: a. Mở bài: - Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận. - Đánh giá khái quát vấn đề nghị luận. b. Thân bài: gồm các thao tác sau -. Nêu khái niệm hoặc nhận thức về sự vật hiện tượng. (Ví dụ: Bạo lực học đường là gì? ). - Nêu thực trạng (Biểu hiện), các dạng tồn tại, số liệu. - Nguyên nhân dẫn đến thực trạng (chủ quan, khách quan) - Hậu quả vấn đề xấu, (kết quả- vấn đề tích cực) - Đề xuất giải pháp (Cần bám sát vào nguyên nhân) - Mở rộng (bằng nhiều cách như cách phản đề) - Bài học nhận thức và hành động. c. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề nghị luận. - Lời khuyên hành động. Kiểu bài nghị luận văn học: Gồm các dạng đề về lĩnh vực văn học như: phân tích bình giảng một tác phẩm, phân tích nhân vật, phân tích nhận định về tác phẩm. Với dạng bài này có thể tiến hành theo các bước sau: + Kiểu bài phân tích tác phẩm: có thể theo dàn ý sau Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác (hoặc xuất xứ đoạn trích) - Bước đầu nêu gí trị tác phẩm (Có thể nêu lên ý chủ đề). Thân bài: Phân tích tác phẩm hoặc đoạn trích I. Phân tích tác phẩm (Có thể phân tíc theo cách kết hợp nội dung và nghệ thuật, hoặc tách nội dung và nghệ thuật. Dàn ý thứ nhất là cách phổ biến nhất). 1. Nêu chủ đề và phân tích ý nghĩa của chủ đề (Nhận xét khái quát bước đầu) 2. Phân tích các khía cạnh (ý) của chủ đề a. Khía cạnh 1 (ý 1) - Nêu ý chính.... - Phân tích các chi tiết biểu hiện ý theo hướng kết hợp nội dung và nghệ thuật. - Tiểu kết, bình giá, chuyển ý. b. Khía cạnh 2 (ý 2) Cách làm như cách 1 c. Khía cạnh 3 (ý 3) ... Cách làm như cách 1 3. Tổng hợp các khía cạnh đã phân tích ở trên. II. Đánh giá tác phẩm 1. Nêu giá trị của tác phẩm (giá trị nội dung và nghệ thuật) 2. Nêu tác dụng của tác phẩm lúc ra đời và đến hiện nay.(Ý nghĩa đối với cuộc sống, với sự phát triển của văn học). 3. Chỉ ra hạn chế về nội dung và nghệ thuật (nếu có). + Kết bài:: Nêu cảm nghĩ, cảm tưởng sâu sắc nhất về tác phẩm. - Rút ra ý nghĩa giáo dục của tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> 6. Rèn các kỹ năng diễn đạt hay cho học sinh. Có 6 yếu tố cơ bản giúp học sinh diễn đạt hay mà các đồng chí có thể tham khảo sau đây: Thứ nhất: Từ ngữ và cách lựa chọn từ ngữ. Biết lựa chọn từ ngữ một cách chính xác, gợi cảm là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn đạt hay. Dù là loại văn sáng tác hay nghị luận, nếu đó là một bài văn haykhi đọc lên chúng ta thấy người viết có vốn từ rất phong phú và đặc biệt họ sử dụng rất chính xác linh hoạt.Từ ngữ dùng đúng lúc đúng chỗ sẽ lột tả được thần thái của sự vật làm cho người đọc thấy khoái chí vì thấy mình không thể viết được như vậy, phải thốt lên lời thán phục. Học cách sử dụng từ ngữ của các nhà thơ, nhà văn như Nguyễn Du, Nguyễn Tuân... Ví dụ: Học cách dùng từ trong đoạn văn sau: “ Mặt trăng xế mãi non Đoài chiếu xuống dòng sông hơi gợn sóng một dải lung linh như nắm tơ vàng ngâm lơ lửng. Xe ngừng lại, đỗ lù lù bên cánh đồng vắng, đợi con đò chập choạng bơi sang. Bốn bề im lặng, chỉ nghe tiếng ánh trăng lờ đờ trôi dưới sông khuya và tiếng mái chèo vỗ nước của con đò lẻ. Đò sang đến giữa dòng thì mặt trăng còn cách chân trời hơn một thước, chiếu dài một vệt rực lên như vàng cháy, phảng phấp giống một chữ I run rẩy chết giữa dòng sông, đang chơi vơi cố ngoi lên với lây dấu chấm vàng là mảnh trăng treo lạnh lùng ở chân trời. Con đò lừ đừ nhập vào cái vòng ánh sáng vàng rực ấy.” (Tiểu thuyết thứ bảy- 1944- Trần Cư) Thứ hai: Viết câu phải linh hoạt. Bài văn hay là bài văn biết vận dụng tất cả các loại câu một cách linh hoạt. Tức là tùy từng lúc, từng chỗ, tùy vào giọng văn của từng đoạn mà có những kiểu câu cho phù hợp. Như câu đơn, câu ghép, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu khẳng định, câu phủ định, câu điều kiện... Khi nào cần dùng câu ngắn. Khi nào cần dùng câu dài.? Để diễn đạt tình cảm trực tiếp thì thường dùng câu cảm thán, muốn tranh luận, bàn bạc, gây chú ý nên dùng câu nghi vấn. Nên dùng câu có hai mệnh đề để làm thay đổi giọng văn như:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> không những...mà còn, càng...càng. Tránh mắc lỗi viết câu chỉ có một vế mặc dù hình thức không sai nhưng về logic thì sai Khi dùng câu phủ định hoặc khẳng định chú ý cách diễn đạt tuyệt đối. Tức là phải uyển chuyển có mức độ trong nhận xét, đánh gía. Những câu mang tính đánh gía khái quát cao nên viết những câu mở đầu như: Nhìn chung, về cơ bản, hầu hết, thường thường.... Ví Dụ: Trong văn nghị luận để trực tếp diễn đạt tình cảm, thái độ của mình, người ta thường dùng câu cảm thán chứ không phải lúc nào cũng dùng kiểu câu trần thuật: Xuân Diệu từng viết “ Trời đất ơi! Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt của mụ văng ra mãi tới ngàn năm”. Thứ ba: Văn viết phải giàu hình ảnh. Với kiểu bài sáng tác như miêu tả, kể chuyện thì văn càng phải giàu hình ảnh. Có hình ảnh mới dựng lên được bức tranh cụ thể sinh động về cuộc sống con người. Nói bằng hình ảnh là đặc trưng của tư duy hình tượng. Ví dụ khi miêu tả Lão Hac trong truyện ngắn cùng tên Nam Cao đã có những câu văn đay hình ảnh, đem lại sức gợi lớn: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngẹo về một bên và cái miệng móm mén của lão mếu như con nít . Lão hu hu khóc...” (Trích Lão Hạc- Nam Cao- Ngữ Văn 8 Tập 1) Trong văn nghị luận là loại văn tư duy khái niệm, tư duy logic. Ý tứ cần chặt chẽ, lập luận mạch lạc, đảm bảo độ chính xác cao, giàu sức thuyết phục. Tuy nhiên vẫn cần tới yếu tố cảm xúc, hình ảnh. Ngôn ngữ văn nghị luận cũng cần hấp dẫn lôi cuốn, mềm mại theo cách riêng của mình. Thứ tư: Lập luận như một cuộc đối thoại ngầm. Trong kiểu văn sáng tác: nhiều khi người viết phải dựng lại cả một những cuộc đối thoại, Khi đó người viết phải khéo léo tạo lời thoại gay hấp dẫn và có ấn tượng. Trong văn nghị luận: đối thoại ngầm ở đây là việc tổ chức các lý lẽ và dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ vấn đề để người đọc hiểu, tin và đồng tình với mình..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Muốn lập luận chặt chẽ thi lập luận cần đăỵ mình vào vị trí người đọc để trình bày. Nên dùng các từ ngữ như : tại sao, vì thế, cho nên, thật vậy, tuy thế, không chỉ...mà còn, nếu như, bên cạnh đó... Ví dụ: Đoạn văn sau đây là một ví dụ : “ Trong Truyện Kiều cái gì qui định sự thể hiện các nhân vật ? Cái gì làm cho sự miêu tả các nhân vật như Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều khác với các nhân vật như Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh..? Phải chăng là một đằng đã bước sang ngòi bút hiện thực còn đằng kia chưa thoát khỏi sự trói buộc của của mỹ học phong kiến? Nhưng nếu vậy thì tại sao chỗ này thoát khỏi khác còn chỗ kia thì bó tay? Ở đây có một quan niệm nghệ thuật gắn liền với hình thức mô tả đó. Kiều, Kim Trọng...là loại người được mô tả như là những “ đấng”, những “bậc” trong xã hội. Mà đã là “ đấng”, “bậc” thì không thể mô tả như người phàm tục mà phải tuân thủ theo các mẫu mực đã có sẵn. Còn Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh... thực tế là quân vô loài thì còn có qui tắc chuẩn mực nào ràng buộc được? Mẫu mực duy nhất để miêu tả chúng là hiện thực, do tác giả quan sát, khái quát trực tiếp.” (Trần Đình Sử- Thi Pháp thơ Tố Hữu- NXB Tác phẩm mới- năm 1987) Thứ năm: Giọng văn biểu cảm, ,một yếu tố tạo nên chất văn. Trong một bài văn người viết bao giờ cũng thể hiện thái độ, tình cảm tư tưởng của mình. Vì thế qua bài văn người đọc nhận ra người viết tán thành hay phản đối, ngợi ca hay châm biếm... Trong kiểu văn sáng tác chất biểu cảm được biểu hiện qua miêu tả, tường thuật, cách lụa chọn các chi tiết tiêu biểu, điển hình, cách dùng từ cảm thán, đại từ nhân xưng. Trong văn nghị luận: là tư duy logic nhưng vẫn cần màu sắc biểu cảm để bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm trước vấn đền nghị luận. Muốn vậy cân flinh hoạt sử dụng các đại rừ nhân xưng. Tránh lỗi trong cả bài văn chỗ nài cũng chỉ thấy cách xưng Nhà thơ, nhà thơ hoặc tác giả, tác giả mà không biết thay đổi cách gọi cho tránh nhàm chán. Ngoài ra nên dùng các tiểu từ như : Vâng, đúng thế, thật vậy, như.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> thế....Những từ này tạo nên ấn tượng như người viết đang đối thoại hay tranh luận với người đọc. Thư sáu: So sánh văn học So sánh được coi như là biện pháp để tạo cho câu văn, đoạn văn giàu hình ảnh. So sánh văn học ở đây là làm nổi rõ chỗ giống nhau và khác nhau của các tác phẩm văn học. Có thể so sánh hai nền văn học, hai thời kỳ, hai tác giả, tác phẩm., hai phong cách sáng tác, hai nhân nhân vật, chi tiết trong các tác phẩm, hai lời nhận định ... Muốn so sánh văn học thì người viết phải có vốn kiên thức sâu và rộng về văn chương. Tuy vậy so sánh cốt là để làm nổi rõ cái hay cái đẹp của tác phẩm đang phân tích. Tránh so sánh gượng ép thiếu tự nhiên. Ví dụ: Khi phân tích bài thơ “Bánh trôi nước” Của Hồ Xuân Hương (Ngữ Văn 7 tập 1), thì so sánh văn học ở đây là mô túyp “thân em” quen thuộc trong ca dao. Hồ Xuân Hương tiếp nối mạch than thở của ca dao than thân nhưng không hề buông xuôi mà cất lên đầy tự hào, tự tin trước vẻ đẹp của người phụ nữ. Hay khi phân tích Hình ảnh người lính trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật (Ngữ văn 9) Thì so sánh văn học ở đây cần liên hệ với bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy được sự kế thừa và cái mới trong việc xây dựng hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam sau 1945. 7. Chấm chữa bài viết thường xuyên cho học sinh Đây là thao tác quan trọng không thể bỏ qua. Giáo viên không chỉ dạy nội dung kiên thức và phương pháp rồi bỏ mặc học sinh tự chế biến viết bài mà không biết đạt dược đến đâu. Vì vậy giáo viên cần đầu tư thơi gian chấm chữa bài viết cho học sinh. Có nhiều cách chấm bài sửa lỗi cho học sinh nhưng tốt nhất là chấm tay đôi, giáo viên gọi học sinh lên cùng sửa lỗi. Cách này giúp học sinh nhận ra lỗi trong bài viết và khắc phục nhanh nhất, tránh phạm lỗi lần sau. Có thể chấm bài cùng nhóm học sinh đẻ các em phát hiện lỗi và sửa, học tập được sáng kiến hay của ban mình..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> IV. KẾT QUẢ Qua áp dụng những biện pháp của chuyên đề này, tổ Văn – Sử chúng tôi đã bước đầu thu được những kết quả đáng kể. Chất lượng đội tuyển Văn ngày một nâng cao, Vốn kiến thức các em được trang bị đầy đủ và có hệ thống từ lớp 6 đến lớp 9. Kỹ năng diến đạt và trình bày bài tự tin, vững vàng. Kết quả thi học sinh Giỏi môn Ngữ Văn những năm gần đây đạt thành tích cao hơn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng chuyên đề chúng tôi vẫn còn thấy băn khoăn thiếu sót chưa mỹ mãn. Kính mong các bạn đồng nghiệp đóng góp bổ xung nhứng kinh nghiệm quí giá để chuyên đề được hoàn thiện và có tính thực tiễn cao hơn. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Những nội dung đưa ra trong chuyên đề này được nghiên cứu từ thực tế giảng dạy và học tập của chúng tôi. Tất cả được xuất phát từ kinh nghiệm, tấm lòng yêu nghề mến trẻ của giáo viên chúng tôi. Điều ấy là đáng quí trong cơ chế thị trường hiện nay khi bộ môn Ngữ văn đang yếu thế hơn những môn học thời thượng hiện nay. Những kinh nghiệm chúng tôi đưa ra trong chuyên đề này có thể chưa toàn diện, đầy đủ, chưa phù hợp với thực tế riêng của mỗi trường trên địa bàn tỉnh, vì vậy mới chỉ dừng lại trong phạm vi trường THCS Liên Bảo. Để chuyên đề được đầy đủ toàn diện và áp dụng vào thực tế tốt nhất, kính mong quí thầy cô giáo trong toàn tỉnh trao đổi bổ sung kinh nghiệm để chuyên đề đạt hiệu quả tốt nhất. 2. Kiến nghị Để công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ Văn đạt kết quả tốt nhất, chúng tôi mạnh dạn đề xuất những kiến nghị sau: a. Về phía HS.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> HSG phải có kiến thức và lòng say mê. Sau đó, ta cần ở các em sự chăm chỉ rèn luyện, cần cù tích luỹ. Ngoài kiến thức kĩ năng học được trên lớp và đọc được trong sách giáo khoa, học sinh cần chủ động tìm đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác qua các kênh thông tin khác nhau. b. Về phía phụ huynh học sinh - Có cái nhìn tích cực hơn về môn học Ngữ văn, nhận thức đúng đắn hơn về văn học trong việc hình thành nhân cách con người. Học văn chính là học cách làm người. Học văn để con em mình được phát huy năng khiếu, không ép con bỏ đội tuyển Văn để theo sang môn học khác hợp thời. Quan tâm tạo điều kiện, động viên tích cực con em học tập tốt hơn. - Trang bị đầy đủ dụng cụ học tập, tài liệu tham khảo, hướng dẫn con em mình sử dụng hợp lý và hiệu quả quỹ thời gian ở nhà. - Thường xuyên liên lạc với GVCN, với giáo viên dạy đội tuyển, với nhà trường, với bạn bè của con em mình để nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con mình. c. Về phía BGH các nhà trường - Cần phải phân công chuyên môn một cách hợp lý, lựa chọn giáo viên có đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần trách nhiệm để bồi dưỡng HSG. Bên cạnh đó cũng cần coi trọng việc giám sát, kiểm tra thường xuyên. - Phát hiện và xây dựng nguồn bắt đầu từ lớp 6, cử giáo viên có kinh nghiệm dạy bồi dưỡng - Cần làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để kết hợp với nhà trường có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng kịp thời và hợp lý đối với giáo viên và học sinh có thành tích cao. d. Với Phòng Giáo dục các huyện, Sở giáo dục: - Phòng Giáo Dục và Đào Tạo cần quan tâm nhiều hơn đến công tác thi đua khen thưởng cho giáo viên, đặc biệt là những giáo viên bồi dưỡng HSG có thành tích..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Cần tham mưu với cấp có thẩm quyền để động viên khen thưởng kịp thời cho giáo viên, tránh vì tỷ lệ khen thưởng mà cắt giảm thi đua của giáo viên. - Ngoài việc tổ chức thường xuyên các báo cáo chuyên đề (đã làm hàng năm), nên tổ chức thêm các hội thảo chuyên môn, mời các chuyên gia về nói chuyện hoặc giảng bài cho GV để được cập nhật thông tin và phương pháp dạy học tiên tiến. - Có kế hoạch rõ ràng, cụ thể từ đầu năm học về thời gian, thời điểm thi HSG và nếu có thể tổ chức cho đội ngũ giáo viên cốt cán đi thực tế ở những địa phương trong và ngoài tỉnh có thành tích tốt trong bồi dưỡng HSG đẻ học tập kinh nghiệm. - Trong các kỳ thi HSG cấp Tỉnh cần thiết phải cho Giáo viên THCS tham gia chấm thi để rút kinh nghiệm cho quá trình bồi dưỡng chứ không vì mục đích giành giải. Xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu nhà trường, Tổ Văn- Sử, các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong thực hiện chuyên đề này.. Vĩnh Yên, ngày 6 tháng 11 năm 2015 Giáo viên. Dương Thị Thụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> 1. Sách giáo khoa Ngữ Văn các lớp 6,7,8,9.-. NXB GD. 2. Thiết kế bài giảng Ngữ Văn các lớp 6,7,8,9.-. NXB GD. 3. Sách giáo viên Ngữ Văn các lớp 6,7,8,9.. NXB GD. -. 4. “Văn bồi dưỡng học sinh năng khiếu (THCS) Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh- NXB Đại Học Quốc Gia Hà Hội. 5. Phân tích tác phẩm văn học dân gian. -. NXBGD.. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP VĨNH YÊN TRƯỜNG THCS LIÊN BẢO --------. CHUYÊN ĐỀ.

<span class='text_page_counter'>(31)</span>

×