Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kinh nghiệm thi môn Ngữ văn và tiếng Anh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.6 KB, 8 trang )

Kinh nghiệm thi môn Ngữ văn và
tiếng Anh

Các giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm chia sẻ với thí sinh những lưu ý
quan trọng về cách làm bài thi môn Ngữ văn và tiếng Anh để đạt kết quả cao
nhất.

Môn văn: phải biết tổng hợp vấn đề

Theo dõi các đề thi tuyển sinh ĐH môn văn nhiều năm gần đây, chúng ta
thấy nội dung đề thi thường nằm trong chương trình ngữ văn lớp 11, 12 gồm
chương trình cơ bản và nâng cao. Trong đó thí sinh cần chú ý một số nội
dung.
Câu 1 là phần kiểm tra kiến thức, thường xoay quanh năm tác giả: Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu. Câu
hỏi thường yêu cầu làm rõ ý nghĩa nhan đề của tác phẩm, tình huống truyện,
phong cách sáng tác, nêu giá trị nhân đạo của tác phẩm, so sánh các giai
đoạn văn học Đây là câu lý thuyết nên thí sinh cần làm chính xác, rõ ràng
những kiến thức trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, không đơn giản chỉ có vậy
mà thí sinh cần trình bày cả cách hiểu, cảm nhận của mình về vấn đề đó.
Câu 2: luôn là câu nghị luận xã hội. Đề thường xoay quanh các chủ đề tư
tưởng - đạo lý và những hiện tượng trong đời sống. Lưu ý, trong khi làm bài,
tuy phần giải thích rất quan trọng, nhưng nếu cảm thấy từ ngữ đó có thể nêu
được khái niệm mà không thể nào giải thích được thì chỉ nên nêu nội dung
chung, để tránh trường hợp giải thích sai. Bởi vì khi đã giải thích sai, mọi
việc lập luận hoặc mô tả sau đó đều đi sai hướng. Hãy nhớ thêm rằng tuy đề
tài mênh mông, nhưng tất cả đều có một mục đích là giúp chúng ta sống tốt
hơn và có ích hơn.
Câu 3: đây là phần nghị luận văn học (câu 3a, 3b) và là nội dung có số điểm
nhiều nhất, nhưng rất nhiều học sinh thường chỉ tập trung vào chương trình
12 và bỏ hẳn chương trình 11, hoặc chỉ học văn xuôi và hoàn toàn bỏ phần


thơ. Thí sinh không nên học tủ như thế mà nên học tất cả những tác phẩm
chính có trong chương trình thi.
Các kiểu đề thường gặp như sau: phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm,
cảm nhận về hình tượng văn học, bình giảng một đoạn thơ, bài thơ; so sánh
các hình tượng văn học trong cùng một tác phẩm hoặc hai tác phẩm khác
nhau, phân tích tác phẩm hoặc một hình tượng để làm rõ một vấn đề nào
đó
Ngoài ra, những tác phẩm về cảm hứng thế sự sau năm 1975 cần luyện tập
kỹ, vì phần lớn thí sinh rất lúng lúng khi tiếp cận đề tài này. Với những đề
liên quan đến hai tác phẩm của hai tác giả, thí sinh không chỉ cần có kỹ năng
phân tích thơ mà phải có khả năng tổng hợp khái quát được vấn đề. Những
bài làm được điểm cao ở câu này là những bài có vốn kiến thức văn học, có
kỹ năng làm bài tốt và có tư duy khái quát, tổng hợp vấn đề. Ngoài ra thí
sinh cũng cần có những cảm xúc về nét đẹp trong văn học. - GV NGUYỄN
ĐỨC HÙNG (Trường THPT Vĩnh Viễn, TP.HCM)
* Bố trí thời gian hợp lý: Theo kinh nghiệm của nhiều thầy cô cho biết, các
thí sinh thậm chí là học sinh giỏi đều hay mắc phải lỗi về bố trí thời gian
không hợp lý nên khi hết giờ vẫn chưa làm xong hoặc cuống cuồng viết vội
vài dòng kết luận cụt ngủn. Và những bài làm như thế sẽ bị đánh giá thấp
dẫn đến kết quả không khả quan.
Để tránh được lỗi đó, các thí sinh cần đọc kỹ đề thi một lượt, xác định điểm
và thời gian làm cho từng câu. Đối với phần hỏi về tác giả, tác phẩm (2
điểm) các bạn nên làm trong khoảng 30 phút. Bởi vì đây là phần kiểm tra
kiến thức cơ bản nên thí sinh cần học thuộc và nắm chắc những ý chính mà
câu hỏi yêu cầu, tránh lan man, dài dòng.
Đối với câu nghị luận các bạn cũng chỉ dành từ 30 – 45 phút để triển khai ý
và viết, còn lại dành thời gian để làm câu tự luận vì đây là phần chiếm số
lượng điểm khá lớn. (Cần lưu ý phải lập dàn ý sơ giản hoặc chi tiết trước khi
viết bài để tránh thiếu ý, trình tự các ý lộn xộn và lạc đề.
Tiếp đến cần xác định đầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như

kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu sử dụng kỹ năng nghị luận nào: trình
bày, giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng
hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận).
* Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì?
Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó, cần huy động và
sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức thuyết
phục cao nhất).Đồng thời, xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết.
Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề. Các bạn cũng cần vận dụng
nhuần nhuyễn các kiểu bài sau:
- Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là: Phân tích tác
phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân tích
diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi tiết
nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.
- Còn bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ ngữ chìa
khoá, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản, chứ không che
lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật. Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ
trống, chỗ lạ hoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình
tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.
Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, bài văn,
khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận riêng của tác giả
cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.
- Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt chẽ, điều quan
trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối với các bài thơ,
đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong
tù, Việt Bắc, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh
bài viết lặp lại một cách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng,
mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và
bình về hệ thống ấy.
Chẳng hạn, 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), có sự
lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có trong…”,

“Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho thấy
nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đời của Đất Nước (gồm các dòng
1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất Nước (dòng 2).
Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhóm các dòng thơ 1,3,9
thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ “ngày đó” là phép thế
đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8, nên để hiểu được ý nghĩa
dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơ trước đó.

Môn Anh văn: biết cách dùng “mẹo” để chọn đáp án đúng và nhanh
nhất

Để đạt điểm cao môn tiếng Anh, các sĩ tử cần bố trí thời gian hợp lý và biết
cách dùng “mẹo” để chọn đáp án đúng và nhanh nhất: Chú ý từ khóa!
Để tiết kiệm thời gian và tránh nhầm lẫn, thí sinh nên đọc kỹ yêu cầu đề bài,
đặc biệt phần bài đọc với những câu hỏi như "All the following statements
are true EXCEPT …” (Tất cả những tuyên bố (thông báo) sau đều đúng, loại
trừ ), “According to the reading passage, which statement is NOT true …”
(Theo đoạn văn bản, tuyên bố nào là không đúng ). Đối với phần bài đọc
thường có rất nhiều từ mới, khiến nhiều thí sinh lúng túng, không thể hiểu
được nội dung để chọn phương án đúng nhất. Bởi vậy thí sinh nên dùng mẹo
dò từ khóa (word key). Nắm được từ khóa trong bài, các bạn có thể “đoán”
được chủ đề của bài đọc và có thể tìm được đáp án đúng nhất.
Trong khi trả lời, các bạn sẽ trải qua cảm giác không chắc chắn, không biết
chọn phương án nào là đúng. Trong trường hợp này, công việc duy nhất có
thể làm là cứ chọn theo cảm giác ban đầu.
Kinh nghiệm cho thấy, lựa chọn phương án theo cảm giác ban đầu thường
cho câu trả lời đúng. Ngoài ra, đối với dạng bài thi trắc nghiệm, các bạn cần
luyện tập khả năng phán đoán và loại trừ những phương án sai dựa vào kiến
thức và sự suy diễn logic của mình. Nếu có thể loại trừ được ba phương án
sai cho mỗi câu hỏi thì phương án còn lại xác suất đúng rất cao.

Khi câu là câu phức hoặc ghép thì chủ ngữ có thể không xuất hiện ở mệnh
đề phụ (ví dụ: when (0) walking in the rain, I saw a big frog); hoặc có thể
xuất hiện ở cả hai mệnh đề (ví dụ: when I was walking in the rain, I saw a
big frog).
Câu phức có thể là câu có mệnh đề phụ chỉ thời gian, chỉ nguyên nhân, kết
quả, chỉ mục đích , nó cũng có thể là câu có mệnh đề chỉ điều kiện và một
khi chỉ điều kiện thì nó chỉ có thể là câu điều kiện loại 1, câu điều kiện loại 2
hoặc câu điều kiện loại 3, nhưng cũng có thể là sự kết hợp loại 2 và 3 (mixed
type).

* Đề thi ĐH môn tiếng Anh gồm các phần kiểm tra về ngữ âm, ngữ
pháp, kỹ năng đọc hiểu, kỹ năng viết.

- Với phần ngữ âm, để có đáp án đúng, thí sinh không những phải nắm vững
quy luật phổ biến của trọng âm, mà còn phải biết thêm những từ có dấu nhấn
không theo quy luật thông thường.
- Ngữ pháp cho trong đề thi thường bao quát từ cơ bản đến nâng cao. Cấp độ
từ vựng rộng và có những từ các bạn chưa gặp bao giờ, nhưng có thể suy
luận qua ngữ cảnh của câu văn. Phần từ vựng và cấu trúc là phần dễ nhất, do
đó các bạn nên làm phần này trước.
- Bài đọc hiểu thường có đề tài quen thuộc, không đi vào vấn đề chuyên biệt.
Tuy nhiên câu hỏi đọc hiểu đòi hỏi thí sinh phải nắm vững ý nghĩa đoạn văn
để loại những đáp án gần đúng. Với loại bài đọc hiểu, thí sinh nên đọc nhanh
cả bài văn, đọc nhanh qua các câu hỏi phía dưới để nắm ý chính của bài văn
và những vấn đề được đề cập trong câu hỏi. Sau đó, thí sinh đọc chậm lại
một lần nữa rồi mới bắt đầu chọn đáp án đúng. (Phần đọc hiểu có 3 bài với
30 câu hỏi liên quan đến bài đọc, thí sinh nên dành nhiều thời gian hơn các
phần khác để hiểu được nội dung và có nhiều đáp án đúng nhất với khả năng
của mình)


- Với bài đọc điền từ vào chỗ trống, đôi khi phải đọc đến cuối bài mới có thể
tìm được đáp án đúng. Đáp án không chỉ đúng văn phạm mà còn phải phù
hợp nội dung của bài đọc đã cho.


Thí sinh nên dùng bút chì mềm 2B và nên tô đáp án luôn vào phiếu trả lời.
Cũng như các bài thi khác, thí sinh nên làm những câu dễ trước, trở lại làm
các câu khó sau. Các bạn nhớ cân đối thời gian để khi hết giờ làm bài, phiếu
trả lời đã có đầy đủ các đáp án được tô nhé.

×