Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên trường sĩ quan pháo binh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.82 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Dân chủ trực tiếp

DCTT

Hội đồng quân nhân

HĐQN

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Sĩ quan Pháo binh

SQPB

1


MỤC LỤC
Trang


3

MỞ ĐẦU

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRỰC
TIẾP CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN PHÁO

BINH HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về dân chủ trực tiếp và chất lượng

9

thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường
Sĩ quan Pháo binh
1.2. Thực trạng chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của học

9

viên Trường Sĩ quan Pháo binh hiện nay và nguyên
Chương 2

nhân
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO

31

CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRỰC

TIẾP CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN PHÁO
BINH HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp

54

của học viên Trường Sĩ quan Pháo binh hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực hiện

54

dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan Pháo binh
hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ ỤC

60
82
83
91

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ trực tiếp là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn chính
trị đang vận động và phát triển khơng ngừng trong đời sống xã hội, nhân
loại. Nó chỉ ra quyền quyết định trực tiếp của người dân trong xây dựng

chính sách, lựa chọn người lãnh đạo, tự thực hiện quyền lực của mình khơng
thơng qua trung gian hay đại diện. Dưới các chế độ chính trị - xã hội, nhà
nước và mơi trường xã hội khác nhau, DCTT có những nội dung, hình thức
và cách thức thể hiện khác nhau.
Kế thừa những thành quả lý luận của xã hội, nhất là của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN, Đảng và Nhà nước
Việt Nam khơng ngừng bổ sung, phát triển và hồn thiện hệ thống lý luận và
pháp luật về dân chủ trong đó có DCTT với nhiều nội dung và hình thức
mới, đáp ứng những yêu cầu về quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong những năm đổi mới toàn diện đất nước,
Nhà nước ta đã không ngừng ban hành, quy định và tổ chức thực hiện nhiều
nội dung, hình thức DCTT trong đời sống xã hội.
Thực hiện DCTT là một đòi hỏi khách quan, đáp ứng yêu cầu, nguyện
vọng về thực hiện quyền lực trực tiếp của đông đảo nhân dân và cán bộ, chiến
sĩ quân đội nói chung, học viên Trường Sĩ quan Pháo binh nói riêng. Đây là
một trong những hình thức cơ bản về thực hiện dân chủ XHCN trong môi
trường quân sự. Những năm qua, lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong Nhà trường
luôn quan tâm đến tổ chức thực hiện các quyền DCTT của học viên, coi đây là
một trong những nội dung, biện pháp quan trọng giúp cho học viên có nhận
thức, hành động tốt, góp phần hồn thiện phẩm chất nhân cách của người sĩ
quan pháo binh, đáp ứng yêu xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.
Việc thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB thời gian qua đã trực
tiếp góp phần thực hiện tốt một trong những nội dung cơ bản về thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở; thực hiện tốt các nội dung, tư tưởng dân chủ XHCN
3


trong quân đội; trực tiếp bảo đảm các quyền tự quyết định, phát huy tinh thần
chủ động, khơi dậy tinh thần làm chủ và sáng tạo của học viên, không ngừng
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo dục đào tạo

của Nhà trường. Tuy nhiên, ở những thời điểm nhất định, trong những đơn vị
học viên, việc thực hiện DCTT vẫn còn những biểu hiện hạn chế trong nhận
thức và hành động; chưa hiểu biết sâu sắc các nội dung, hình thức về quyền
trực tiếp, có những quyết định chưa chính xác, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống dân chủ ở đơn vị; làm hạn chế khả năng làm chủ, phát huy tính sáng tạo
của bản thân trong học tập cơng tác; và có thể gây ảnh hưởng đến những
quyết định của người sĩ quan trong tương lại.
Trước sự bổ sung, phát triển không ngừng các quyền DCTT của Đảng,
Nhà nước, Quân đội và thực tiễn thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB
hiện nay, tác giả chọn vấn đề: “Chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của
học viên Trường Sĩ quan Pháo binh hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Về dân chủ. Đến nay, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu
như: “Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, của PGS. TS. Nguyễn Cúc, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo chế độ một
đảng ở nước ta” in trong: Lẽ phải của chúng ta, của PGS. Vũ Hữu Ngoạn,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Một số suy nghĩ về xây dựng nền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, của TS. Đỗ Trung Hiếu, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; “Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, chiến sĩ
ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ
CNXHKH của Nguyễn Văn Quang, Hà Nội, 2006; “Dân chủ trên một số lĩnh
vực ở Việt Nam hiện nay”, của GS. TS. Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 11/2008; “Về q trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”, của Lê Minh Quân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; “Dân
4


chủ ở cơ sở, một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam”, của Trần
Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 12/2013.

Các cơng trình nghiên cứu về quy chế dân chủ ở cơ sở, có đề tài: “Gắn
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với củng cố chính quyền cơ sở”, của
nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 1/2002;
“Phát huy dân chủ ở xã, phường”, của PGS. TS Văn Hiền Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; “Tiếp tục thực hiện dân chủ ở cơ sở - Những vấn đề đặt
ra”, của PGS. TS. Trần Quang Nhiếp, Thông tin công tác Tư tưởng lý luận, số
3/2006; “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và
vì dân”, của GS. VS. Nguyễn Duy Quý và PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; “Thực hiện đồng bộ dân chủ, đoàn kết, đồng
thuận xã hội - Một tính quy luật cơ bản của sự phát triển lên chủ nghĩa xã
hội”, của GS. TS. Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Tun giáo, số 2/2010.
Các cơng trình khoa học độc lập nghiên cứu về dân chủ có: “Quan
điểm, định hướng và giải pháp thực hành dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc,
đồng thuận xã hội”, của GS. TS. Phạm Ngọc Quang, đề tài KX.04-27/06-10,
Hà Nội, 2010; “Chất lượng thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở đơn vị cơ
sở quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, sách chuyên khảo của TS. Tạ Việt
Hùng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010;“Nâng cao chất lượng thực
hiện quy chế dân chủ ở đơn vị học viên nhà trường quân đội”, đề tài khoa học
cấp Tổng cục Chính trị, do PGS. TS. Nguyễn Đức Tiến làm chủ nhiệm đề tài,
Hà Nội, 2010; “Sự thật vấn đề dân chủ và nhân quyền trong chiến lược
“Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam”, của PGS. TS. Trương Thành Trung, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013… Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã đi
sâu nghiên cứu về dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ gắn với tăng
cường hệ thống chính trị ở cơ sở trên các lĩnh vực, môi trường khác nhau, chỉ
ra các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
* Về dân chủ trực tiếp. Ngày 12/10/2010, trên mục Góp ý Dự thảo văn
5


kiện trình Đại hội XI của Đảng trên Báo Lao động, tác giả Đan Tâm, nguyên

Hiệu trưởng Trường Đại học Cơng Đồn có bài “Dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện”, đã bàn đến dân chủ trực tiếp; về bỏ hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường; về cơ chế đại hội bầu trực tiếp bí thư cấp uỷ Đảng.
Trên Báo Đại biểu nhân dân, ngày 21/10/2011, tác giả Lê Anh có bài
“Trưng cầu ý dân về hiến pháp - Hình thức lập hiến dân chủ nhất”. Vấn đề cốt
lõi mà tác giả nghiên cứu và đề xuất là: Trưng cầu ý dân hay phúc quyết tồn
dân là cơng đoạn khơng thể thiếu trong quy trình ban hành hoặc sửa đổi hiến
pháp ở hầu hết các nước. Hiện nay, trưng cầu ý dân đối với một số vấn đề quan
trọng của quốc gia hoặc địa phương được nhiều nước quy định rõ trong luật
pháp và sử dụng tương đối rộng rãi. Trưng cầu ý dân đã được coi là hình thức
DCTT trong một nhà nước dân chủ, thể hiện chủ quyền lập hiến của nhân dân.
Đề tài khoa học cấp Học viện (2012), “Hồn thiện các hình thức dân
chủ trực tiếp trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện
nay”, TS. Tạ Việt Hùng - Học viện Chính trị làm chủ nhiệm.
Đề tài đã luận giải và đưa ra quan niệm về dân DCTT, đó là quyền tham
gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; việc cho phép mọi
cơng dân được tham dự vào mọi công việc trọng đại của đất nước, quyền tham
gia, bàn bạc vào công việc chung, mọi thành viên trong xã hội được tôn trọng
và thực hiện quyền lợi. Đề tài đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế của DCTT,
tình hình thực hiện các hình thức DCTT ở Việt Nam thời gian qua. Đề tài đặt ra
yêu cầu mở rộng quyền DCTT của nhân dân, đặc biệt là các nội dung và hình
thức biểu hiện của nó cần được xác định chính xác, dần tiến tới luật hóa và
ngày càng hồn bị hơn nhằm bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của công dân
đang đặt ra cấp thiết. Để từng bước hồn thiện các hình thức DCTT, bảo đảm
dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh
vực, tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu để hồn thiện các hình thức
DCTT trong q trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, luận giải những vấn đề
6



chung về DCTT, hay cụ thể nhất định của DCTT, song dưới góc độ nghiên
cứu Chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan
Pháo binh hiện nay thì chưa có cơng trình, đề tài, kết quả nghiên cứu nào
được cơng bố với tính chất là một đề tài độc lập và có đối tượng nghiên cứu
riêng như vậy. Do đó, đề tài mà tác giả lựa chọn nội dung nghiên cứu không
trùng lặp với các cơng trình đã được cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng thực hiện DCTT
của học viên Trường SQPB, luận văn đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng
cao chất lượng thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB hiện nay.
Nhiệm vụ:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về DCTT và chất lượng thực hiện DCTT
của học viên Trường SQPB; đánh giá thực trạng chất lượng thực hiện DCTT
của học viên Trường SQPB hiện nay và chỉ ra nguyên nhân.
Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực
hiện DCTT của học viên Trường SQPB hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng thực hiện DCTT của học viên
Trường SQPB.
Phạm vi nghiên cứu: DCTT và chất lượng thực hiện DCTT của học
viên ở các tiểu đoàn, đại đội học viên Trường SQPB.
Khảo sát thực hiện DCTT, đánh giá chất lượng thực hiện DCTT của các
đối tượng học viên, số liệu sử dụng nghiên cứu từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp
luật của Nhà nước về dân chủ XHCN, các hình thức DCTT, dân chủ đại diện.
Cơ sở thực tiễn: Khảo sát các hoạt động dân chủ, thực hiện DCTT của
7



học viên Trường SQPB, thông qua tọa đàm trao đổi, điều tra xã hội học, các
báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Trường SQPB.
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp khoa
học liên ngành khác như: phân tích, tổng hợp, lơgíc - lịch sử, so sánh, thu thập
số liệu, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng thực
hiện DCTT của học viên Trường SQPB; cung cấp các giải pháp để lãnh đạo,
chỉ huy Trường SQPB, các nhà trường quân đội tham khảo, vận dụng vào quá
trình nâng cao chất lượng thực hiện DCTT của học viên nhà trường quân đội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn quân sự ở các học
viện, nhà trường quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRỰC TIẾP
CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN PHÁO BINH HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về dân chủ trực tiếp và chất lượng thực
hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan Pháo binh

1.1.1. Dân chủ trực tiếp và thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên
Trường Sĩ quan Pháo binh
* Dân chủ trực tiếp
Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước, dân chủ là phạm trù chính trị, để
chỉ một chế độ chính trị, một kiểu tổ chức nhà nước mà ở đó chủ quyền hay
quyền lực thuộc về những cơng dân của nhà nước đó. Cùng với sự phát triển
của xã hội, sự tiến bộ trong nhận thức của con người, nội hàm của dân chủ
ngày càng được mở rộng, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, bao
trùm mọi lĩnh vực đời sống của xã hội loài người. Sự vận động của chế độ
dân chủ và chế độ nhà nước, trong hình thức lý tưởng của nó, chỉ đạt tới sự
phù hợp khi giai cấp cầm quyền là đại biểu thực sự và đầy đủ nhất cho ý chí,
lợi ích và quyền lực của toàn thể nhân dân trong cộng đồng xã hội. Trong lịch
sử có giai cấp cơng nhân là giai cấp duy nhất thoả mãn được yêu cầu ấy vì nó
mang bản chất xã hội và thực hiện lợi ích cho tồn xã hội. Quyền lực đó là
thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân, đảm bảo cho quyền lực chân chính của
nhân dân được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Đó chính là nền dân chủ XHCN
và nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân. Quá trình phát triển đầy đủ,
hiện đại nhất mà lịch sử vận động của dân chủ đã tìm thấy. Nó đang vận động
phát triển theo một xu hướng như Lênin chỉ ra: “Đồng thời với việc mở rộng
rất nhiều chế độ dân chủ, lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người
nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ khơng phải cho bọn nhà giàu,
chun chính vơ sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do
đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư sản” [43, tr.109].
9


Dưới chế độ dân chủ XHCN, để thực hiện quyền làm chủ thực tế của
mình, nhân dân thường lựa chọn và kết hợp hai hình thức cơ bản đó là DCTT
và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là một hiện tượng chính trị, một trong những phương

thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình, là sự thể hiện một
cách trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất. Ở
đây, có sự đồng nhất giữa người quản lý và người bị quản lý, chủ thể của
quyền lực, tự mình giải quyết các vấn đề chung về lập pháp, về hành chính và
quản lý về tư pháp. Hình thức ra đời sớm nhất của chế độ DCTT phải kể đến
là quốc hội Aten (Hy Lạp). Nghiên cứu hình thức biểu đạt của dân chủ với tư
cách là một chế độ chính trị ở thành bang Aten thế kỷ thứ V đến nửa đầu thế
kỷ IV tr.CN, cho thấy các thiết chế của nó đã thiết lập được một chế độ chính
trị mới đó là nền dân chủ. So với quan niệm dân chủ, nền dân chủ Aten không
phải là nền dân chủ đại diện mà là nền DCTT.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, việc sáng kiến pháp luật của cơng dân hay
cịn gọi là “lập pháp cơng dân” [58, tr.21]. Trưng cầu ý dân được tiếp tục thực
hiện ở một số nước tư bản, Thụy Sĩ là một ví dụ điển hình về một nền DCTT.
Ở đó, lập pháp công dân và trưng cầu ý dân là biểu thị hai trụ cột được thực
hiện cả cấp địa phương lẫn trung ương. Năm 1847, đã đưa đạo luật Trưng cầu
ý dân, năm 1891, bổ sung thêm quyền đề xướng luật lệ sửa đổi trong Hiến
pháp. Ở Mỹ cũng có hơn một nửa số tiểu bang và nhiều địa phương có các
cuộc bỏ phiếu về đề xướng luật lệ do người dân bảo trợ và đa số các tiểu bang
(có ít nhất một hay cả hai trụ cột đầu của DCTT), luật Trưng cầu ý dân hoặc
luật Quyền đề xướng luật lệ. Đây có thể coi là một trong những hình thức
DCTT mang tính chất giản đơn, phổ biến, xuất hiện ngay khi dân chủ ra đời.
Hiện nay, ở nhiều nước tư bản, xuất hiện phong trào chính trị chủ trương khơi
phục hình thức DCTT dựa trên sự đồng lịng trong việc ra quyết định và trưng
cầu ý dân trong các quyết sách chính trị, như trưng cầu ý dân ở Scotland để
tách khỏi Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland năm 2014 vừa qua.
10


Như vậy, DCTT là hình thức sơ khai nhất của dân chủ và là khởi nguồn
cho chế độ dân chủ, một trong hai phương thức cơ bản nhất của dân chủ, ở đó

mọi cơng dân có quyền tham gia một cách bình đẳng và trực tiếp vào các
quyết định của cộng đồng xã hội theo nguyên tắc biểu quyết đa số. Có thể
xem đây là sự thể hiện một cách mạnh mẽ và trực tiếp nhất ý chí của chủ thể
quyền lực là nhân dân. Song, ở mỗi một chế độ dân chủ, mức độ, tính chất,
nội dung thể hiện của DCTT khác nhau. Cùng với sự vận động phát triển của
xã hội loài người, nhất là khi kỹ thuật máy móc được áp dụng trong sản xuất,
vật chất xã hội ngày càng nhiều hơn thì DCTT cũng đã có nhiều bước tiến bộ
mới về cả nội dung và hình thức biểu đạt. Đến thời kỳ chuyển biến và giành
thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở Tây âu, xã hội đã có một bước nhảy
về chất trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó có dân chủ.
Khi bàn về dân chủ, đặc biệt là DCTT C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra
các khái niệm, nhưng những vấn đề cơ bản trong nội hàm của nó đã được trình
bày tương đối rõ nét trên một số các tác phẩm với những vấn đề cơ bản. DCTT
có mầm mống từ xã hội nguyên thủy, hoạt động theo cơ chế phục tùng ý chí trực
tiếp của số đông thành viên. Ph.Ăngghen chỉ ra các dấu hiệu đặc trưng về sự tồn
tại của hình thức DCTT đầu tiên của thị tộc là: “1. Thị tộc bầu ra tù trưởng và
thủ lĩnh… 2. Thị tộc có thể tùy ý bãi miễn tù trưởng và thủ lĩnh quân sự… 3. Hội
đồng thị tộc là đại hội dân chủ của toàn thể các thành viên và là cơ quan quyền
lực tối cao của thị tộc, có quyền bầu ra và bãi miễn các tù trưởng và thủ lĩnh
quân sự; quyết định kết nạp người ngoài vào thị tộc...” [48, tr.132]. Như vậy,
DCTT có nguồn gốc từ chế độ nguyên thủy với ý nghĩa cổ xưa nhất đó là ý chí
và quyền lực của thành viên trong cộng đồng được thể hiện một cách trực tiếp
mà không thông qua bất cứ một người, một tổ chức trung gian đại diện nào.
Tổng kết mơ hình Cơng xã Pari 1871, C.Mác đã chỉ ra các hình thức
DCTT mà Cơng xã sử dụng. Hội đồng Công xã do nhân dân tự lập ra thông
qua phổ thông đầu phiếu, “Công xã gồm những đại biểu thành phố do đầu
11


phiếu phổ thông ở các khu của Pari bầu lên” [47, tr.449]. Theo C.Mác, sự tự

quản của nhân dân vừa là nội dung, nguyên tắc vừa là xu hướng tất yếu của
DCTT, sự tất yếu của quá trình mở rộng chế độ tự quản. Nó khơng chỉ bắt đầu
từ chính trị mà cả trong quân sự, văn hóa, đời sống và kinh tế. Trong đó, tự
quản về kinh tế là nội dung thực chất nhất của vấn đề làm chủ.
Thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga, V.I.Lênin đã chỉ rõ thêm xu
hướng phát triển của việc thực hành các hình thức DCTT cho mọi tầng lớp dân
chúng, khơng phân biệt đẳng cấp, dân tộc, “Tất cả các khu vực trong nước, khác
nhau về đặc điểm sinh hoạt hoặc về thành phần dân tộc của dân cư, đều phải
được hưởng quyền tự quản và tự trị rộng rãi, với những thiết chế xây dựng trên
cơ sở đầu phiếu phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín” [45, tr.359]. Khi bàn đến
Dự thảo sắc lệnh về quyền bãi miễn ở Nga, V.I.Lênin đã chỉ ra: “Mọi cơ quan
được bầu ra hay mọi hội nghị đại biểu đều có thể coi là có tính chất dân chủ chân
chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân dân, khi nào quyền bãi miễn của cử
tri đối với những người trúng cử được thừa nhận và được áp dụng” [45, tr.270].
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy chưa đề xuất khái niệm DCTT, song rất
nhiều vấn đề nội hàm của nó đã được chỉ ra, bàn đến và định hướng tổ chức
thực hiện trong quá trình xây dựng nền dân chủ mới ở Việt Nam. Chế độ dân
chủ thừa nhận ý chí và xác lập về mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân,
cần phải thông qua dân chủ đại diện và DCTT. Để thực hiện DCTT, Hồ Chủ
tịch đã đề xuất nhiều hình thức, phương pháp, cách thức khác nhau, như bầu
cử, ứng cử, bãi miễn, phúc quyết, tự quản, mở rộng dân chủ ở cơ sở…
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền bầu cử và bãi miễn vừa là quyền
vừa là hình thức sinh động DCTT của nhân dân. Điều 41, Hiến pháp 1946 đã
thể hiện: Chế độ bầu cử là chế độ phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do,
trực tiếp và kín… Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra.
Ngày 06/01/1946, trong cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, nhân dân
ta bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước ta. Hồ Chủ tịch nêu rõ: “Quyền bầu cử và
12



ứng cử, quyền tham gia công việc Nhà nước và của nhân dân được đảm bảo;
quyền tự do dân chủ được thực hiện. Đó là một chế độ dân chủ mới” [53,tr.366].
“Mọi người công dân từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi
trở lên đều có quyền ứng cử. Việc tuyển cử tiến hành theo ngun tắc phổ
thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhân dân có quyền bãi miễn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” [53, tr.375].
Theo Người, quyền phúc quyết vừa là một quyền vừa là một nội dung
hình thức quan trọng để thực hiện các quyền cơ bản của công dân, trước hết là
xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Điều 21, Hiến pháp năm 1946 viết: Nhân dân
có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh
quốc gia. Quyền phúc quyết không phải chỉ là việc đưa ra cho nhân dân tham
gia, góp ý kiến hay đề nghị mà là quyền Hiến định, là điều bắt buộc các đạo
luật và cơ quan đại diện cao nhất của dân phải tuân thủ.
Trả lời Báo Cứu quốc, số 292, ngày 15/7/1946 về vấn đề nước Việt
Nam độc lập có thể đi đơi được với khối Liên hiệp Pháp khơng? Nếu như có
một sự xích mích xảy ra thì sẽ xử trí như thế nào?. Người trả lời: Chúng ta sẽ
thảo luận và chúng ta sẽ đi tới chỗ thoả thuận. Về vấn đề trưng cầu ý dân có
thể nhưng chưa nhất định là sẽ tổ chức ở Nam Bộ, Chủ tịch tuyên bố: “Muốn
tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, bao giờ cũng tốn rất nhiều tiền. Giá thoả
thuận được với nhau và bỏ trưng cầu dân ý đi thì vẫn hơn. Nếu khơng đi đến
chỗ đó được, thì sẽ tổ chức một cách thành thực và thẳng thắn” [49, tr.316].
Sau này, trong Diễn văn khai mạc phiên họp đầu tiên của Ban sửa đổi
Hiến pháp ngày 27/2/1957, Hồ Chí Minh nói: “Sau khi thảo xong, chúng ta
cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có
như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thực sự là một bản Hiến pháp của
nhân dân, của chế độ dân chủ” [52, tr.511]. Người cũng chỉ ra: “Đưa mọi vấn
đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết… Dựa vào ý kiến của dân
chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” [50, tr.337].
13



Chế độ tự quản với tính cách là quyền tự quyết định lấy vận mệnh của
dân tộc Việt Nam, đó là: “Một nhân dân như nhân dân Việt Nam, nếu họ có
phải học tất cả để có thể tự quản lý mình, họ cũng sẽ khơng bao giờ chịu rơi
vào sự thác quản nữa” [49, tr.356]. Đối với vùng miền đó là: “làm cho các dân
tộc anh em tồn Khu cùng nhau tự quản lý cơng việc của mình, phát huy khả
năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội” [52, tr.406]; “làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý
lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay” [54, tr.225].
Trong q trình xây dựng, hồn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo thực hiện cả
DCTT và dân chủ đại diện. Qua nhiều đại hội, hệ thống các quan điểm về
thực hiện các hình thức DCTT của Đảng ta thể hiện trên các nội dung như:
Mọi công việc quản lý nhà nước, xã hội, tổ chức và dân cư đều cần có
sự tham gia của quần chúng “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ
trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận
và quyết định những vấn đề quan trọng” [21, tr.134]. “Khắc phục mọi biểu
hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu dân ý” [21, tr.134]. “Đổi
mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức
trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân” [21, tr134,135].
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân: “Nâng cao năng lực và tạo cơ
chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để
phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã
hội, tạo động lực phát triển đất nước” [26, tr.100]. Cùng nhân dân quyết tâm:
“Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và cơng chức phải
thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế
để nhân dân thực hiện quyền dân chủ” [22, tr.125].
Quan điểm của Đảng về điều kiện để thực hiện dân chủ là dân chủ đi đôi
với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật

14


bảo đảm. Quan điểm này thể hiện dân chủ và kỷ luật, kỷ cương luôn là hai mặt
song hành của DCTT, thể chế hóa bằng pháp luật và tuân theo pháp luật là cách
thức, con đường đúng đắn thực hiện ý trí và thực hành trực tiếp các quyền cơng
dân. Đảng ta cũng xác định cơ chế để thực hiện dân chủ là: “Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [23, tr.85].
Hiến pháp 2013, tiếp tục khẳng định ở Điều 6: Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Hệ thống các quan điểm trên đây của Đảng, Nhà nước ta là sự kế thừa
vận dụng và phát triển những giá trị văn hóa, tư tưởng dân chủ của nhân loại,
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn q trình xây
dựng, hồn thiện nền dân chủ XHCN ở Việt Nam. Các quan điểm đó là cơ sở
lý luận và phương pháp luận chủ yếu để luận giải về quan niệm của DCTT.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của DCTT với tính cách là một hiện
tượng lịch sử và một vấn đề lý luận nhận thức đã cho con người nhiều cách
quan niệm, khái niệm về nó. Dưới góc độ là một quyền cơ bản của cơng dân có
thể hiểu DCTT, nghĩa là mỗi người dân có quyền tham gia trực tiếp vào quyết
định của nhà nước. Dưới góc độ là một hình thức dân chủ có thể hiểu DCTT là
hình thức dân chủ với những quy chế, thiết chế để nhân dân thảo luận, biểu
quyết, tham gia trực tiếp quyết định công việc của cộng đồng, của nhà nước.
Hay là “Mọi công dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội; trực tiếp tham gia bàn bạc vào những công việc chung” [73].
Trên cơ sở các giá trị lý luận nhận thức về dân chủ nói chung và DCTT
nói riêng của nhân loại, của hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về DCTT,
kế thừa những điểm hợp lý của các quan niệm trên và từ những quy định pháp

15


luật của Nhà nước ta hiện nay về DCTT, có thể hiểu: Dân chủ trực tiếp là mọi
công dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội theo quy định của pháp luật, được quyền tham gia, bàn bạc vào công việc
chung của đất nước, được tôn trọng và thực hiện quyền lợi.
Nội hàm quan niệm DCTT phản ánh những vấn đề căn bản sau:
Một là, sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí của cơng dân mà khơng cần
thơng qua tổ chức hay cá nhân nào thay mặt mình.
Hai là, mọi cơng dân được tham dự một cách bình đẳng, trực tiếp vào
các quyết định về một vấn đề nào đó theo quy định của pháp luật. Bộ máy
nhà nước chỉ đóng vai trị tổ chức và bảo đảm các điều kiện để thực hiện ý
chí của nhân dân.
Ba là, DCTT biểu hiện dưới nhiều hình thức, cách thức thực hiện, trong
đó nổi lên những hình thức chủ yếu sau:
Sáng kiến pháp luật, là nhu cầu tự nhiên, vốn có của công dân trong
một xã hội dân chủ và là dấu ấn đặc trưng rõ nét nhất của DCTT, nó biểu thị
nhu cầu và quyền phát kiến luật lệ trực tiếp từ nhân dân. Để bảo vệ quyền lợi
và thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội, mọi cơng dân có quyền đề xướng luật lệ.
Trưng cầu ý dân, bao gồm cả trưng cầu ý dân bắt buộc, việc này cho
phép nhân dân bỏ phiếu quyết định hay phủ quyết sự ban hành pháp luật. Một
thực tế là, hệ thống luật pháp do nhà nước ban hành luôn ở trong trạng thái phù
hợp hay khơng phù hợp với ý chí, nguyện vọng, quyền, lợi ích và nghĩa vụ của
cơng dân. Việc trưng cầu ý kiến nhân dân đối với những vấn đề bình thường và
cả những vấn đề trọng đại nhất của đất nước là một cách thức đặc trưng để
nhân dân thể hiện ý chí trực tiếp đồng thuận hay khơng đồng thuận của mình.
Bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu, nhân dân có quyền trực tiếp bầu,
bãi miễn những người do mình bầu ra bằng cách gửi kiến nghị hoặc trưng cầu
ý dân. Quyền bãi miễn đối với những đại biểu khơng xứng đáng với sự tín

16


nhiệm của nhân dân là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho
chế độ DCTT được thực hiện một cách hoàn toàn và triệt để.
Tự quản, là hình thức biểu hiện sự phát triển cao nhất của DCTT, là chế
độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình mà trước hết là cộng
đồng dân cư ở cơ sở, như việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hố,
xây dựng tổ hồ giải, tổ an ninh, phong trào vệ sinh mơi trường.
Những hình thức DCTT trên cho thấy, quyền lực để tạo ra quyết định
luôn nằm trực tiếp ở nhân dân. Họ chọn những người lãnh đạo, quản lý mình,
bỏ phiếu cho luật của mình, tham gia tích cực vào các quyết định trọng đại của
xã hội. Sự hiện diện, mức độ và hiệu quả trong thực tiễn đời sống xã hội của
những hình thức này là thước đo sự phát triển của một nền dân chủ tiến bộ.
DCTT có quan hệ chặt chẽ với dân chủ đại diện, dân chủ đại diện là
hình thức thực hiện quyền làm chủ của người dân thông qua các cơ quan đại
diện do dân cử và các tổ chức chính trị xã hội. Dân chủ có thực sự hay không
lại tùy thuộc vào bản chất của chế độ chính trị mà nhà nước đó đại diện. Tuy
nhiên, dân chủ đại diện sẽ không phát huy được và sẽ là hình thức nếu khơng
có cơ chế hiệu quả để người dân bầu chọn được những người đại diện chính
đáng cho mình. Là phương thức chủ yếu của nền dân chủ hiện đại nhưng dân
chủ đại diện không triệt tiêu DCTT, tính ưu điểm của DCTT là đặt sự kiểm
sốt của nhà nước trong tay nhân dân tạo tính đồng thuận trong việc sử dụng
quyền lực nhà nước, hạn chế khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng
nó cũng không thể thay thế được dân chủ đại diện, mà nó chỉ bổ sung cho cơ
chế dân chủ đại diện giúp cho dân chủ đại diện hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn.
* Thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan Pháo binh
Pháo binh là hỏa lực chủ yếu của Quân đội ta, Bộ đội Pháo binh những
năm qua ln hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xây đắp nên truyền
thống vẻ vang của Binh chủng Pháo binh anh hùng được Bác Hồ khen tặng 8

chữ vàng “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”.
17


Trường Sĩ quan Pháo binh là đơn vị trực thuộc Binh chủng Pháo binh,
và là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị pháo binh
cho toàn quân. Nhiệm vụ hoạt động của Nhà trường là giáo dục - đào tạo, học
tập, rèn luyện, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; tiến hành công
tác vận động quần chúng, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp đỡ nhân
dân phát triển kinh tế, văn hố, xã hội; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
tồn trên địa bàn đóng qn.
Nhà trường được giao nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy Pháo binh bậc
đại học, đào tạo, bồi dưỡng các đối tượng hồn thiện đại học, chuyển loại chính
trị, đào tạo ngắn chỉ huy tham mưu cấp trung - lữ đoàn Pháo binh, đào tạo cao
đẳng từ trung đội trưởng 801, cao đẳng quân sự xét tuyển miền Nam, đào tạo sĩ
quan dự bị và hạ sĩ quan. Đơn vị học viên Trường SQPB tổ chức biên chế
thành các tiểu đoàn. Học viên là lực lượng chủ yếu, đông đảo nhất, được biên
chế từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn. Học viên có một số là đảng viên,
cịn lại là các đồn viên, họ có trình độ văn hố và nhận thức đáp ứng tiêu
chuẩn đào tạo sĩ quan chỉ huy Pháo binh.
Đặc điểm học viên Trường SQPB: Họ là những con người trẻ, khỏe, ở
khắp mọi miền của Tổ quốc và các đơn vị pháo binh trong toàn quân, được
tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển sinh quân sự hoặc cử tuyển để tạo nguồn cán
bộ cho các đơn vị pháo binh, họ được đào tạo cơ bản tại Trường SQPB. Luôn
phải thực hiện với cường độ huấn luyện rất cao; học tập, huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu của học viên pháo binh có sự kết hợp chặt chẽ giữa
con người với xe, pháo, khí tài hiện đại, mang vác nặng, chi phí sức lực lớn.
Để huấn luyện bắn được đạn đến mục tiêu là cả một q trình hiệp đồng chặt
chẽ, tính tốn phần tử, thao tác pháo, đạn chính xác, kịp thời giữa các trinh sát
viên với các pháo thủ theo sự chỉ huy tập trung thống nhất cao độ, họ luôn

phát huy tốt truyền thống “Đồn kết, hiệp đồng, lập cơng tập thể”.
Trường Sĩ quan Pháo binh được tổ chức gồm: Ban Giám hiệu; các cơ
quan chức năng; các khoa giáo viên; các tiểu đoàn học viên; đại đội phục vụ.
18


Tổ chức cơ sở Đảng, Trường SQPB thành lập tổ chức đảng 3 cấp: Đảng
bộ Nhà trường, đảng bộ cơ sở (phịng, khoa, tiểu đồn), chi bộ đại đội. Đảng bộ
cơ sở, tiêu biểu là đảng uỷ tiểu đồn có vai trò là hạt nhân lãnh đạo với các hoạt
động của học viên. Chi bộ đại đội giữ vai trò trực tiếp lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị trung tâm của đơn vị, nơi rèn luyện đảng viên và phát triển đảng.
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có vai trị quan trọng trong
việc tun truyền, giáo dục, tập hợp, vận động đoàn viên chấp hành đường lối
của đảng, chính sách, pháp luật nhà nước, nhiệm vụ quân đội. Được tổ chức
thành đoàn cơ sở 3 cấp: Đoàn cơ sở tiểu đoàn, đại đội thành lập Liên chi đồn,
trung đội có các Chi đồn.
Hội đồng qn nhân, được thành lập ở đại đội học viên và cơ quan.
HĐQN là một trong những thiết chế dân chủ cơ bản để thực hiện quyền làm
chủ của quân nhân ở cơ sở, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ,
chỉ huy, chính uỷ, chính trị viên và cơ quan chính trị, tổ chức thực hiện có
hiệu quả các nội dung DCTT của học viên Trường SQPB.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thực hiện nghĩa là: “làm cho hiện ra thành sự
thực, thực hiện nguyện vọng của mình” [82, tr.809].
Thực hiện DCTT là tổng thể các hoạt động dân chủ làm cho mọi quyền
trực tiếp của công dân được thực hiện trên các lĩnh vực mà luật pháp quy định,
bao gồm: Bầu cử và bãi miễn đại biểu, ứng cử, đề cử, đề xướng luật lệ, trưng
cầu ý dân, tự quản, hoạt động dân chủ ở cơ sở... Hiến pháp 2013 của nước ta
xác định các hình thức thực hiện DCTT, ở Điều 27: Công dân đủ mười tám tuổi
trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Điều 28: Cơng dân có quyền tham gia quản lý

nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Điều 29: Công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Dân chủ XHCN được xây dựng và tổ chức thực hiện trong quân đội,
một trong những nội dung quan trọng nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về
19


chính trị, được tổ chức thực hiện theo những nguyên tắc tổ chức thống nhất và
chặt chẽ, nội dung cơ bản là: “Thực hiện dân chủ phải bảo đảm sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, dân chủ phải đi đôi
với kỷ luật trên cơ sở giác ngộ chính trị về quyền và nghĩa vụ của quân nhân
và ý thức tự giác, thực hiện dân chủ phải đạt được mục tiêu góp phần nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội” [16]. Dân chủ XHCN ở Trường SQPB
được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là dân chủ đại diện và DCTT. Đối
với học viên, DCTT là hình thức quan trọng. DCTT là từng quân nhân trực
tiếp thực hiện quyền công dân theo quy định của pháp luật, điều lệnh quân
đội. Nội dung thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB gồm:
Bầu cử và bãi miễn đại biểu, được sử dụng trong nhiều trường hợp như
bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bầu người lãnh đạo, quản
lý trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị… Đây là quá trình các chủ thể quyền lực
trực tiếp đưa ra quyết định của mình theo các cách thức mà pháp luật quy
định để chọn ra đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ
quan dân cử của chính quyền trung ương, địa phương, cơ sở. “Hồn thiện cơ
chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự
tiêu biểu vào Quốc hội… có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và
có trách nhiệm với cử tri” [23, tr.248].
Bãi miễn đại biểu là một trong những hình thức thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp của nhân dân. Nhân dân thể hiện sự bất tín nhiệm của mình đối
với những đại biểu dân cử khơng hồn thành sứ mệnh là người đại diện cho ý

chí và nguyện vọng của họ. Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, đây là quyền có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo đảm cho chế độ dân chủ được thực hiện một cách triệt để.
Học viên Trường SQPB khi đứng trên các tư cách, chủ thể như đảng
viên, đoàn viên, quân nhân, học viên cịn có các quyền trực tiếp bầu cử ở đơn
20


vị như bầu ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên;
bầu HĐQN; bầu Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
bầu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, chiến sĩ tiên tiến; bầu học viên học giỏi… theo
quy định, quy chế bầu cử của các tổ chức đó.
Ứng cử, đề cử, là một trong những quyền cơ bản về chính trị của cơng
dân, pháp luật hiện hành quy định cơng dân có quyền ứng cử vào Quốc hội,
Hội đồng nhân dân. Công dân Việt Nam đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Với học viên Trường
SQPB ngoài các quyền ứng cử theo quy định của nhà nước cịn có các quyền
trực tiếp ứng cử hoặc đề cử vào ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; ban chấp hành
đoàn thanh niên, HĐQN; chiến sĩ thi đua, chiến sĩ tiên tiến...
Biểu quyết, khi nhà nước, quân đội, các tổ chức của Trường SQPB trưng
cầu ý kiến, đây là một hình thức cơ bản của DCTT để học viên trực tiếp quyết
định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý kiến như Hiến pháp 2013, các dự
án luật, pháp lệnh và các vấn đề khác bằng hình thức bỏ phiếu. Giá trị pháp lý
của trưng cầu ý kiến ở những vấn đề đưa ra khi được nhân dân quyết định theo
số đơng thì bắt buộc cơ quan nhà nước phải thi hành theo ý nguyện của nhân
dân. Ở nước ta, từ Hiến pháp năm 1946, tại Điều 21 quy định: Nhân dân có
quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc
gia. Vấn đề này được quy định ở Điều 100, Hiến pháp 1980; Điều 84, Hiến
pháp 1992; Điều 70, Hiến pháp 2013. Tại kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa XIII,
các đại biểu đã thảo luận và đề nghị Quốc hội thông qua Luật Trưng cầu ý dân.

Đến nay trưng cầu ý kiến chưa thực hiện được do chưa có luật. Tuy nhiên, ở
các cấp cơ sở trưng cầu ý kiến cũng đã được thực hiện với những nội dung và
hình thức phù hợp nhất định.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong Binh chủng Pháo binh chỉ ra:
“vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực
tiếp ở cơ sở để cán bộ, chiến sỹ tham gia bàn bạc và quyết định những công việc
quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích chính đáng của mình” [32, tr.2].
Sáng kiến pháp luật, trong hoạt động lập pháp, quyền kiến nghị và trình
dự án luật và pháp lệnh là một quyền quan trọng, có ảnh hưởng đến hiệu quả,
21


kết quả của hoạt động lập pháp. Hiến pháp 2013 quy định các quyền và trình tự
sáng kiến pháp luật đối với các chủ thể lập pháp, hành pháp, tư pháp và công
dân ở Điều 84: Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh
và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Với học viên Trường SQPB, sáng kiến pháp luật đó là các ý kiến, kiến
nghị (hiến kế) với tổ chức, cơ quan, đơn vị mà trực tiếp là tổ chức đảng, tổ chức
chỉ huy, đoàn thanh niên, HĐQN về việc xây dựng các văn bản quy định hành
chính trong hoạt động của Nhà trường, cơ quan, đơn vị dựa trên các văn bản quy
phạm pháp luật để cụ thể hóa thành các quy chế, quy định, chế tài, giao ước…
Tự quản, tự tổ chức các hoạt động là hình thức biểu hiện sự phát triển
cao nhất của DCTT, là chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của
mình mà trước hết là ở cộng đồng dân cư cơ sở. Đảng ta chỉ ra: “Mở rộng các
hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức tự bàn
bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính xã hội
hố, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây dựng hương
ước, quy ước làng văn hố, xây dựng tổ hồ giải, tổ an ninh, phong trào vệ
sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo,...)” [2, tr.1].
Với học viên Trường SQPB việc mở rộng các hình thức tự quản để họ

bàn bạc và thực hiện theo quy chế, quy định của quân đội và Nhà trường như:
tự học tập, tự rèn luyện; xây dựng tổ học tập, nhóm học tập; giờ học, ngày học
thanh niên tự quản; tự xây dựng các quy ước, quy định trong học tập và rèn
luyện; tự tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ đồng chí, đồng đội
có hồn cảnh khó khăn; tự quy định giao ước trong các tổ, nhóm học viên…
Thực hiện dân chủ ở cơ sở, là tổng thể các cơ chế, hình thức, biện
pháp mà tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể cơ sở tiến hành nhằm hiện
thực hoá những nội dung dân chủ, phát huy quyền làm chủ trực tiếp của học
viên trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Với tầm quan trọng và ý nghĩa thực
hiện dân chủ ở cơ sở, Đảng ta đã khẳng định: “Khâu quan trọng và cấp bách
22


hiện nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở” [2, tr.2]. Do vậy,
Nhà trường tiếp tục thực hiện Quy chế số 209 QC/ĐU của Binh chủng Pháo
binh về lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở trong binh chủng, Chỉ thị số
1147/CT-ĐU của Đảng ủy Trường SQPB về lãnh đạo thực hiện dân chủ
trong Nhà trường. Nghị quyết lãnh đạo của Đảng ủy Trường SQPB xác định:
“Duy trì tốt dân chủ ở cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐQN,
sinh hoạt đối thoại ở các cấp, không để xảy ra đơn thư khiếu nại vượt cấp,
tin nhắn nặc danh, thiếu tinh thần xây dựng” [37, tr.9].
DCTT của học viên Trường SQPB phản ánh đầy đủ các nội dung cơ bản,
cốt lõi nhất của dân chủ XHCN, được vận dụng trong tổ chức quân đội. Với
tinh thần quân nhân biết, quân nhân bàn, quân nhân làm, quân nhân kiểm tra,
giám sát trên một số các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, quân đội và Nhà
trường. Những nội dung đó được vận dụng, cụ thể hoá phù hợp với biên chế, tổ
chức hoạt động và nhiệm vụ giáo dục đào tạo, học tập, nghiên cứu khoa học,
huấn luyện, rèn luyện, công tác của học viên Trường SQPB. Từ sự phân tích ở
trên, có thể hiểu: Thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan
Pháo binh là tổng thể các hoạt động dân chủ làm cho mọi quyền trực tiếp của

học viên trên các lĩnh vực mà pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ
Quân đội quy định được thực hiện ở Trường Sĩ quan Pháo binh.
Thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB là một trong những hình
thức biểu hiện rõ nhất về quyền trực tiếp của học viên ở cơ sở để biểu thị ý
chí của mình về những vấn đề cơ bản, chính yếu của đơn vị. Ngồi thực hiện
DCTT, học viên cịn thực hiện dân chủ đại diện thơng qua vai trị của các tổ
chức đảng, tổ chức chỉ huy, đoàn thanh niên, HĐQN. Dân chủ đại diện được
thực hiện với những thiết chế, cơ chế vận hành thống nhất, chặt chẽ, do vậy
dễ tổ chức thực hiện hơn DCTT, nhưng lại khó bao quát hết được thực tiễn
đời sống và ý chí, nguyện vọng của học viên.
DCTT và dân chủ đại diện là những hình thức thể hiện của dân chủ
XHCN, phản ánh ý nguyện và quyền lực của học viên ở cơ sở. Hai hình thức
23


này có mối quan hệ mật thiết với nhau. DCTT chỉ có thể được thực hiện đầy đủ
khi dân chủ đại diện ngày càng được thực hiện tốt. Do vậy, để nâng cao chất
lượng thực hiện dân chủ ở Trường SQPB nói chung cần kết hợp cả hai hình thức
DCTT và dân chủ đại diện. Nghị quyết Đảng ủy Nhà trường chỉ ra: “thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt đối thoại theo phân cấp, phát huy dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương tạo sự thống nhất cao” [35, tr.10].
1.1.2. Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện dân chủ
trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan Pháo binh
* Quan niệm chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên
Trường Sĩ quan Pháo binh
Chất lượng, tính từ nói lên giá trị của một sự vật, sự việc, một hoạt động
diễn ra ở một thời kỳ nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt, “chất lượng là giá trị
về mặt lợi ích khác với số lượng” [82, tr.166].
Theo quan điểm hệ thống, cấu trúc, mỗi sự vật hiện tượng gồm nhiều
bộ phận, yếu tố cấu thành, có mối quan hệ chặt chẽ theo một quy luật nhất

định. Nếu một hoặc một vài yếu tố, bộ phận hoạt động kém hiệu quả sẽ làm
hạn chế đến chất lượng hoạt động của các yếu tố, bộ phận khác và chất lượng
hoạt động chung. Đánh giá chất lượng của một hoạt động là đánh giá giá trị
của hoạt động đó, là sự so sánh giữa hiệu quả, kết quả đạt được trong hoạt
động đó với các nguồn lực đã được bỏ ra, trong các lĩnh vực khác nhau, quan
niệm về chất lượng khác nhau. Các lĩnh vực có tính trừu tượng cao, như hoạt
động chính trị xã hội, nghiên cứu khoa học, rèn luyện, huấn luyện quân sự,
giáo dục - đào tạo,… chất lượng được xem xét trong mối quan hệ giữa mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ, tiêu chí đặt ra với kết quả đạt được.
Trong thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB, chất lượng của quá
trình này được xem xét giữa mục đích, yêu cầu thực hiện dân chủ nhằm bảo
đảm các quyền lợi của học viên trong giáo dục - đào tạo, huấn luyện, rèn luyện
được đặt ra so với kết quả hoàn thành các nhiệm vụ của họ trong một thời gian
24


nhất định. Chất lượng thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB được xác
định khi diễn ra một hoặc đồng thời các trạng thái như: Chất lượng lãnh đạo,
chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện DCTT của học viên của tổ chức đảng, tổ chức chỉ
huy, đoàn thanh niên và HĐQN ở Trường SQPB được tăng cường; chất lượng
công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt nâng cao nhận thức cho học viên về
dân chủ và thực hiện DCTT đạt hiệu quả tốt; chất lượng các điều kiện đảm bảo
cho thực hiện DCTT của học viên đầy đủ; chất lượng thực hiện DCTT ở cơ sở
của học viên được nâng cao; chất lượng hoàn thành nhiệm vụ giáo dục - đào
tạo của học viên đạt kết quả tốt…
Hiểu theo nghĩa rộng, chất lượng thực hiện DCTT của học viên Trường
SQPB là chất lượng tổng thể các hoạt động DCTT với kết quả hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao, diễn ra với đầy đủ các trạng thái trên. Đây cũng là
các tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng này. Do vậy, có thể quan niệm:
Chất lượng thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên Trường Sĩ quan

Pháo binh là tổng hợp các giá trị hoạt động dân chủ làm cho mọi quyền trực
tiếp của học viên được thực hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, biểu hiện ở hiệu quả đạt được do sự tác động của các chủ thể vào nội dung
dân chủ trực tiếp, so với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, so với việc lãnh đạo, quản
lý, tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp của học viên, hướng tới hoàn thành tốt
các mục tiêu, yêu cầu giáo dục - đào tạo của Trường Sĩ quan Pháo binh.
Nhìn một cách khái quát, chất lượng thực hiện DCTT của học viên
Trường SQPB còn là sự phản ánh thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Trong đó, việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện DCTT cho học
viên của của tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thanh niên và HĐQN ở Trường SQPB
là mặt nói lên vấn đề về chất cốt lõi; cịn những mặt hoạt động, quy mơ, cấu
trúc, điều kiện thực hiện DCTT của học viên nói lên số lượng của hoạt động
này. Để đánh giá chất lượng thực hiện DCTT của học viên Trường SQPB hiện
nay, đề tài xác định và đưa ra bộ tiêu chí để đánh giá hiệu quả đạt được do sự
25


×