Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên ở trường sĩ quan chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 107 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1.
1.2.

3
10

Một số khái niệm cơ bản
Đặc điểm quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học
viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Nội dung quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên
đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị

10
20

Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ XÂY DỰNG KHÓA LUẬN

36

1.3.

27


TỐT NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

2.1.

Khái quát về Trường Sĩ quan Chính trị và thực trạng xây
dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên ở
Nhà trường
Thực trạng quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học
viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
và nguyên nhân

36

Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ XÂY DỰNG KHÓA

60

2.2.

42

LUẬN TỐT NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO
VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

3.1.
3.2.
3.3.

Yêu cầu quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào

tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Các biện pháp quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học
viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
đã đề xuất

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
62
86
91
93
97


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi quốc gia, dân tộc chất lượng GDĐT phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng đội ngũ nhà giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của đội
ngũ nhà giáo trong xã hội và trong sự nghiệp cách mạng, Người nói: “Nhiệm
vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu khơng có thầy thì khơng có giáo
dục... Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế
văn hóa” [25, tr.184]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo
dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, tài” [5, tr.38-39]. Vì
vậy, nâng cao chất lượng quản lý hoạt động đào tạo đội ngũ giáo viên trong các

nhà trường quân đội là vấn đề có ý nghĩa hết sức to lớn để nâng cao chất lượng
hiệu quả GDĐT đội ngũ cán bộ, sĩ quan, qua đó nâng cao chất lượng xây dựng
quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên là một cơng trình
tập sự NCKH ở bậc đại học, trong đó học viên vận dụng tổng hợp, kiến thức,
kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp được trang bị để tìm kiếm, phát hiện những vấn
đề lý luận, thực tiễn đặt ra thuộc khoa học chuyên ngành, tiến hành nghiên
cứu như một đề tài khoa học dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa
học; được tổ chức bảo vệ trước Tiểu ban chấm khóa luận và lấy kết quả đó
làm cơ sở đánh giá kết quả thi tốt nghiệp mơn chun ngành.
Xây dựng khóa luận tốt nghiệp có vai trị quan trọng góp phần củng cố,
hồn thiện tri thức, nâng cao năng lực học tập, nghiên cứu khoa học; giúp học
viên hoàn thiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Tuy nhiên, chất lượng KLTN của
học viên phụ thuộc vào nhiều nhân tố cả về khách quan, chủ quan. Trong đó,
quản lý xây dựng KLTN là một khâu quan trọng có tác động trực tiếp đến
tồn bộ quá trình xây dựng và chất lượng KLTN của học viên. Vì vậy, muốn
nâng cao chất lượng KLTN, chất lượng GDĐT giáo viên trong các nhà trường
quân đội phải quản lý tốt việc xây dựng KLTN của học viên.

3


Trường SQCT là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị và giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội cho toàn quân. Trong những năm vừa qua thực hiện
Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) và Nghị quyết số 513NQ/ĐUQSTW của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện
chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” và Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Nhà
trường đã đặc biệt quan tâm đổi mới nâng cao chất lượng GDĐT và quản lý
chất lượng GDĐT, coi đó là khâu then chốt, nhiệm vụ quan trọng, cấp bách
trong xây dựng, phát triển Nhà trường. Trong đó vấn đề xây dựng và quản lý
xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên luôn được coi trọng và hiệu
quả đạt được ngày càng cao.
Tuy nhiên, do mới được tái lập (từ 2008), đào tạo giáo viên KHXH&NV
cấp phân đội là một đối tượng mới, đến nay mới có 2 khóa tốt nghiệp, ra
trường. Vì vậy, kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý xây dựng KLTN của học
viên chưa nhiều và vẫn còn bộc lộ những hạn chế bất cập, nhất là hệ thống văn
bản; việc xác lập quy trình, cách thức tổ chức hướng dẫn, thực hiện trong xây
dựng và kiểm tra, đánh giá KLTN của học viên, của người hướng dẫn, dẫn đến
chất lượng KLTN của một số học viên đạt được chưa cao.
Mặc dù hiện nay đã có nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu liên quan đến
quản lý nhằm nâng cao chất lượng GDĐT và nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. Nhưng đến nay chưa có cơng trình nào
trực tiếp đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về quản lý xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT. Vì vậy, tác giả lựa
chọn vấn đề: “Quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo
giáo viên ở trường Sĩ quan Chính trị” làm đề tài nghiên cứu.

4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quản lý xây dựng KLTN là một nội dung của quản lý chất lượng đào tạo và
NCKH của học viên, sinh viên trong các trường đại học nói chung. Vì thế, luôn
thu hút sự quan tâm đầu tư nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài quân
đội. Liên quan trực tiếp đến mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài có thể kể
đến một số cơng trình tiêu biểu sau:

Bàn về quản lý giáo dục với tư cách là một khoa học quản lý nói chung có
một số cơng trình của các tác giả tiêu biểu như: Tác giả Trần Kiểm (2004),
“Khoa học quản lý giáo dục - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; tác giả Đặng
Bá Lãm đã có cơng trình nghiên cứu cơ bản “Quản lý nhà nước về giáo dục, lý
luận và thực tiễn”; Phạm Viết Vượng “Quản lý hành chính nhà nước và quản lý
ngành giáo dục”. Các cơng trình trên đã chỉ ra các khái niệm, chức năng cũng
như nội dung, cách thức tổ chức, phương pháp quản lý giáo dục một cách khoa
học và cho rằng, đổi mới công tác quản lý giáo dục là một tất yếu khách quan.
Đây là những cơng trình cung cấp những cơ sở lý luận quan trọng cho triển khai
nghiên cứu quản lý xây dựng KLTN cho học viên đào tạo giáo viên với tư cách
quản lý một hình thức dạy học và tự học trong quá trình đào tạo.
Trong quân đội, hiện có một số giáo trình có liên quan đến quản lý giáo
dục, và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên trong nhà trường
quân đội như: Giáo trình “Quản lý giáo dục đại học quân sự” của tập thể giảng
viên khoa Sư phạm quân sự, Học viện Chính trị do PGS. TS Đặng Đức Thắng
chủ biên; Giáo trình “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” (2008), do PGS.
TS Trần Đình Tuấn chủ biên có đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quản
lý giáo dục và quản lý nghiên cứu khoa học của học viên.
Ngồi ra cịn một số đề tài, luận văn có đề cập đến những vấn đề liên quan
đến đề tài như: “Bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu khoa học cho học viên Trường Sĩ
quan Lục quân 1 hiện nay” của tác giả Bùi Ngọc Hoàng; “Rèn luyện kỹ năng
nghiên cứu khoa học cho học viên Học viện Biên phòng” (2008), của Hồng
Phổ Thơng; “Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên

5


ở Học viện Chính trị” (2010) của Nguyễn Quốc Hưng; “Quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường SQCT hiện nay” (2013), của
Nguyễn Đức Hiếu. Các công trình trên tuy khơng trực tiếp đề cập đến quản

lý xây dựng KLTN cho học viên đào tạo giáo viên, nhưng có đề cập đến
những vấn đề có liên quan đến quản lý chất lượng, quy trình NCKH của học
viên đào tạo giáo viên.
Ở một khía cạnh khác, tác giả Mai Văn Hóa (2012) có cơng trình, “Đổi
mới, nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
Học viện Chính trị thời kỳ mới”. Đề cập đến các vấn phẩm chất, năng lực của
người giáo viên khoa học xã hội và nhân văn trong đó có bàn đến chức năng
giảng dạy và NCKH; hệ thống và khái quát hóa lý luận đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn; cung cấp những thơng tin
chính xác về thực trạng đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Học viện Chính trị, từ
đó đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Chính
trị.
Liên quan trực tiếp đến xây dựng khóa luận tốt nghiệp và quản lý xây
dựng khóa luận tốt nghiệp có các cơng trình tiêu biểu như:
Cơng trình “Làm thế nào để viết tốt một luận văn khoa học” của GS.TS
Hoàng Văn Châu. Trong cơng trình, tác giả quan niệm KLTN của sinh viên
các trường đại học là một dạng của luận văn khoa học. Tuy không trực tiếp đề
cập đến việc quản lý xây dựng luận văn khoa học hay KLTN nhưng tác giả đã
chỉ ra các khâu các bước, các yêu cầu về nội dung, hình thức, sử dụng ngơn
ngữ, trích dẫn tài liệu; cách thức kiểm tra, đánh giá... Đó là những vấn đề
quan trọng, cung cấp cơ sở khoa học cho quản lý xây dựng KLTN của học
viên đào tạo giáo viên.
Đề tài, “Nâng cao chất lượng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” (2013)
của Ban đề tài do ThS Nguyễn Xuân Quang làm Chủ nhiệm. Đề tài đã phân
tích, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về chất lượng và nâng cao chất lượng

6



KLTN của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Trường SQCT.
Đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng KLTN của học viên
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Trường SQCT hiện nay. Đây cũng là
những cơ sở quan trọng mà trong nghiên cứu quản lý xây dựng KLTN cần
phải nắm để thực hiện tốt việc quản lý kế hoạch, chất lượng xây dựng KLTN
của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã khẳng định quản lý NCKH và tổ chức
xây dựng KLTN của sinh viên, học viên có vai trị quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo của các trường đại học. Tuy không trực tiếp đi sâu nghiên cứu
về quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên nói chung, giáo viên ở
Trường SQCT nói riêng nhưng các cơng trình trên đã đề cập đến những vấn đề
chung về lý luận quản lý, quản lý GDĐT; quy trình, nội dung, cách thức, biện
pháp và những yêu cầu cơ bản về xây dựng KLTN. Đó là những cơ sở lý luận,
thực tiễn quan trọng cho quá trình triển khai nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp cơ bản
quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT,
nhằm hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực NCKH cho học viên, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo
giáo viên ở Trường SQCT.
Phân tích cơ sở thực tiễn, làm rõ nguyên nhân quản lý xây dựng KLTN
của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT hiện nay.
Xác định các yêu cầu và đề xuất các biện pháp quản lý xây dựng KLTN
của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

7



Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động học tập của học viên đào tạo giáo
viên ở Trường SQCT.
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo
giáo viên ở Trường SQCT.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT, với tư
cách là quản lý quá trình học tập của học viên. Các số liệu điều tra, khảo sát,
báo cáo, thống kê, tài liệu tham khảo tính từ năm 2009 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên phụ thuộc
vào nhiều nhân tố, trong đó, quản lý xây dựng KLTN giữ vai trò trực tiếp
quyết định. Nếu các chủ thể quản lý khoa học, chặt chẽ, đồng bộ trên những
vấn đề cơ bản như: quản lý kế hoạch; quản lý tổ chức, chỉ đạo; quản lý môi
trường và các điều kiện vật chất bảo đảm; quản lý kiểm tra, đánh giá xây
dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên thì, chất lượng quản lý xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo viên sẽ được nâng lên, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo giáo viên của Nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về GDĐT; vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc,
lơgíc - lịch sử và quan điểm thực tiễn để phân tích đánh giá, xem xét các vấn đề
nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Bao gồm, phương pháp phân tích,

tổng hợp, tra cứu tài liệu nhằm nghiên cứu khái quát các tài liệu, văn bản quản

8


lý giáo dục của Nhà nước, Quân đội; Quy chế GDĐT, các quy định, chỉ thị,
hướng dẫn và báo cáo, tổng kết, đánh giá về quản lý xây dựng KLTN ở Trường
SQCT; sách báo, cơng trình khoa học trong và ngồi qn đội có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu để xác định cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra bằng phiếu hỏi đối với 50 cán bộ quản lý và giảng viên các khoa
chuyên ngành và 80 học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT nhằm thu
thập thông tin về các vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Trao đổi, trò chuyện trực tiếp đối với cán bộ quản lý các cơ quan chức
năng, các khoa chuyên ngành đào tạo giáo viên; người hướng dẫn; và học
viên đào tạo giáo viên đã và đang xây dựng KLTN về các vấn đề liên quan
như: kinh nghiệm, đánh giá, ưu, nhược điểm, thuận lợi, khó khăn trong quản
lý xây dựng KLTN của học viên.
Thống kê, tổng hợp các kết quả học tập, rèn luyện của 3 khóa GV8,
GV9, GV10; kết quả phân loại KLTN của 2 khóa GV8, GV9 và thu thập các
số liệu có liên quan đến quản lý xây dựng KLTN của học viên.
Lấy ý kiến chuyên gia của 50 người là cán bộ quản lý ở các cơ quan chuyên
môn, các khoa giáo viên; cán bộ quản lý học viên để kiểm nghiệm tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp quản lý.
Sử dụng phương pháp tốn học để tổng hợp, tính tốn các số liệu điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần bổ sung lý luận về quản lý xây dựng KLTN của học viên và
cung cấp luận cứ khoa học cho lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, khoa giáo viên, đơn
vị quản lý học viên trong quản lý xây dựng KLTN, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên ở Trường SQCT hiện nay.

Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các Nhà trường trong và
ngoài quân đội.
8. Cấu trúc của đề tài

9


Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương, 8 tiết, kết luận, kiến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
Học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT là những thí sinh đã trúng
tuyển vào đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, sau một năm đào tạo được
tuyển chọn vào đào tạo giáo viên các môn KHXH&NV (Triết học Mác Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị, Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Tâm lý học quân sự, Giáo dục học quân sự) theo chương trình đào
tạo trình độ đại học. Khi tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân, giảng dạy các
môn thuộc chuyên ngành đào tạo trong các trường sĩ quan, trường qn chính
ở các qn khu, qn đồn trong tồn qn. Mục tiêu, yêu cầu đào tạo giáo
viên được Nhà trường xác định là: “Đào tạo giáo viên có trình độ tri thức rộng
và sâu về chuyên ngành đào tạo, chú trọng vào phát triển những kỹ năng sư
phạm và trình độ NCKH và năng lực quản lý dạy học” [9, tr.1]. Mục tiêu trên,
địi hỏi trong q trình đào tạo, học viên đào tạo giáo viên phải có đủ phẩm
chất, năng lực của người sĩ quan, người giáo viên trong các nhà trường quân
đội. Về năng lực, họ không những phải nắm vững kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng
thực hành hoạt động của người sĩ quan, hoạt động chuyên môn nghiệp vụ sư

phạm theo chuyên ngành đào tạo, mà còn phải có khả năng nghiên cứu khoa
học để giải quyết độc lập, sáng tạo những vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra trong
quá trình thực hành nghề nghiệp. Vì vậy, trong quá trình học tập, học viên đào
tạo giáo viên phải được trang bị về phẩm chất, năng lực của một nhà quân sự,
nhà giáo, nhà khoa học. Trong đó, tập sự nghiên cứu khoa học thơng qua tham
gia viết các bài tham luận, các chuyên đề, đề tài, bài báo khoa học tiến tới xây

10


dựng KLTN là hình thức học tập khơng thể thiếu để hình thành cho học viên
có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Liên quan trực tiếp đến quan niệm xây dựng KLTN là quan niệm về “Xây
dựng” và “Khóa luận tốt nghiệp”. Đây là vấn đề hiện vẫn cịn có những quan
niệm khác nhau.
“Xây dựng”, Theo từ điển tiếng Việt bao hàm nhiều nghĩa: “1. Làm nên
một cơng trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định; 2. Làm cho hình thành
một tổ chức hay một chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một
phương hướng nhất định; 3. Tạo ra, sáng tạo ra cái có giá trị tinh thần, có ý
nghĩa trừu tượng; 4. Xây dựng gia đình; 5. (Thái độ, ý kiến) có thiện ý, nhằm
mục đích làm tốt hơn” [44, tr.1105]. Theo cách định nghĩa trên vận dụng vào
nghiên cứu đề tài cho thấy, xây dựng KLTN là q trình tạo ra cơng trình có
giá trị về mặt tinh thần.
Bàn về “Khóa luận tốt nghiệp” hiện cịn có những quan niệm khác nhau.
Theo GS.TS Hồng Văn Châu: Khóa luận tốt nghiệp hay Đồ án tốt
nghiệp là chuyên khảo mang tính chất tổng hợp, thể nghiệm kết quả sau một
khóa đào tạo đại học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hay khoa
học kỹ thuật, được chấm hay bảo vệ để lấy bằng cử nhân hay kỹ sư, có độ dài
khoảng 80 trang.
Với quan niệm trên, KLTN hay Đồ án tốt nghiệp là một công trình tập sự

nghiên cứu khoa học của học viên, sinh viên sau một khóa đào tạo đại học,
phản ánh kết quả tổng hợp của việc nắm tri thức, kỹ xảo, kỹ năng thực hành
nghề nghiệp gắn với một vấn đề mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn đang đặt ra
thuộc các lĩnh vực trong chuyên ngành đào tạo. Đối với các chun ngành đào
tạo thuộc lĩnh vực KHXH&NV, cơng trình đó được gọi là KLTN, đối với các
chuyên ngành thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật được gọi là Đồ án tốt nghiệp.
Đối với học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT theo Quy chế đào tạo
Đại học, Cao đẳng của Nhà trường xác định: 100% học viên đào tạo giáo viên

11


phải tham gia viết KLTN và lấy kết quả bảo vệ làm cơ sở để đánh giá tốt
nghiệp cuối khóa môn chuyên ngành.
Tại Điều 2, “Quy định tổ chức viết, bảo vệ khóa luận tốt nghiệp”, Ban
hành kèm theo Quyết định số 1481/QĐ-SQCT ngày 15 tháng 8 năm 2014 của
Hiệu trưởng Trường SQCT quan niệm: “Khóa luận tốt nghiệp là một cơng
trình tập sự nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học; là một bộ
phận quan trọng của chương trình đào tạo đại học, được tiến hành ở giai đoạn
cuối khóa, dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học và được bảo vệ
trong kỳ thi tốt nghiệp” [37, tr.1].
Theo quan niệm trên, KLTN của học viên ở Trường SQCT nói chung, học
viên đào tạo giáo viên nói riêng được xác định là một cơng trình tập sự nghiên
cứu khoa học; là một hình thức học tập bắt buộc trong chương trình đào tạo;
được tiến hành ở giai đoạn cuối khóa nhằm đánh giá kết quả tổng hợp về học
tập, rèn luyện tri thức, kỹ xảo, kỹ năng hoạt động nghề nghiệp sư phạm của học
viên theo các chuyên ngành đào tạo. Quá trình xây dựng KLTN của học viên có
sự hướng dẫn, giúp đỡ của người hướng dẫn khoa học đó là đội ngũ cán bộ,
giảng viên chính, giảng viên ở các khoa chuyên ngành. Kết quả bảo vệ KLTN
được lấy làm cơ sở để đánh giá môn chuyên ngành trong kỳ thi tốt nghiệp.

Khóa luận tốt nghiệp, khác hẳn với các bài thi, các chuyên đề, các bài
báo khoa học ở chỗ đây là một cơng trình mang tính chất chun khảo. Cơng
trình đó được xây dựng một cách cơng phu, nghiêm túc, có tính khoa học chặt
chẽ, liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực thuộc chuyên ngành đào tạo; phản
ánh tổng hợp kết quả học tập, rèn luyện tri thức, tay nghề của người học trong
cả quá trình đào tạo; thể hiện ở khả năng phát hiện, lựa chọn vấn đề; xác định
cơ sở, lý luận, thực tiễn, phương pháp, phương tiện; thiết lập, chứng minh giả
thuyết và kỹ năng thuyết phục Tiểu ban chấm khóa luận trong phiên bảo vệ.
Từ những phân tích trên, gắn với mục tiêu, yêu cầu đào tạo giáo viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị, đề tài quan niệm:

12


Khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên là cơng trình tập sự
nghiên cứu khoa học, một nội dung quan trọng trong tiến trình đào tạo được
tiến hành ở giai đoạn cuối khóa dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học nhằm hoàn thiện những phẩm chất cần có của người giáo viên,
được bảo vệ trong kỳ thi tốt nghiệp và làm căn cứ để đánh giá kết quả tốt
nghiệp môn chuyên ngành của học viên.
Tuy là cơng trình tập sự NCKH nhưng KLTN của học viên đào tạo giáo
viên được bảo vệ trong kỳ thi tốt nghiệp và lấy kết quả để đánh giá kết quả tốt
nghiệp mơn chun ngành. Vì vậy, đây là nội dung học tập có ý nghĩa rất
quan trọng đối với người học. Nó phản ánh kết quả học tập, rèn luyện về cả
về phẩm chất, năng lực, trình độ khoa học chuyên ngành của người học trong
cả khóa đào tạo. Muốn có kết quả tốt học viên phải phối hợp chặt chẽ với cán
bộ hướng dẫn khoa học nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là người học phải
phát huy tính độc lập, sáng tạo; nắm vững các quy chế, quy định, quy trình
xây dựng KLTN; biết vận dụng tổng hợp tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, kinh
nghiệm được tích lũy để phát hiện và giải quyết những vấn đề lý luận, thực

tiễn đang đặt ra thuộc phạm vi chuyên ngành đào tạo một cách khoa học; đủ
sức thuyết phục Tiểu ban đánh giá do Nhà trường tổ chức.
Từ quan niệm về xây dựng và KLTN, đề tài quan niệm về xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT như sau:
Xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo viên ở Trường
Sĩ quan Chính trị là q trình tìm tịi, phát hiện, giải quyết một vấn đề lý
luận, thực tiễn đang đặt ra thuộc chuyên ngành đào tạo dưới sự hướng dẫn
của người hướng dẫn khoa học, tuân theo các quy chế, quy định và quy trình
tổ chức chặt chẽ, khoa học nhằm hồn thiện những phẩm chất cần có của
người giáo viên, được bảo vệ trong kỳ thi tốt nghiệp và làm căn cứ để đánh
giá kết quả tốt nghiệp môn chuyên ngành.

13


Xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT là quá
trình học viên lựa chọn, giải quyết một vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan
đến các mơn KHXH&NV thuộc chun ngành đào tạo. Đó là nhiệm vụ bắt
buộc trong chương trình, nội dung đào tạo nhằm “tạo ra, sáng tạo ra cái có giá
trị tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng”.
Mục tiêu của xây dựng KLTN là giúp học viên củng cố, hệ thống, mở
rộng, nâng cao kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng hoạt động nghề nghiệp sư phạm và
năng lực NCKH theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chuẩn bị cho người học có đủ
phẩm chất, năng lực của người sĩ quan, người giáo viên KHXH&NV trong
các nhà trường quân đội.
Quá trình xây dựng KLTN được xác định cụ thể trong kế hoạch học tập
tồn khóa của học viên đào tạo giáo viên. Trước khi xây dựng KLTN học viên đã
được trang bị cơ bản, toàn diện, chuyên sâu kiến thức của khoa học chuyên
ngành; phương pháp NCKH và tham gia các hoạt động có có tính chất tập dượt
cho xây dựng KLTN như: viết các chuyên đề, tiểu luận; các bài tham luận hội

thảo, bài báo khoa học, làm chuyên đề, đề tài khoa học của học viên…
Xây dựng KLTN là bước tập sự để hình thành cho người học kỹ năng
NCKH đáp ứng yêu cầu hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên tương lai.
Đó là một q trình kể từ khi học viên nghiên cứu phát hiện vấn đề; xây dựng
ý tưởng nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn; phương pháp, phương tiện
nghiên cứu; tranh thủ ý kiến của người hướng dẫn khoa học; hoàn chỉnh đề
cương; xây dựng kế hoạch, quy trình, tiến độ thực hiện khóa luận; thu thập,
xử lý thông tin, triển khai viết và bảo vệ khóa luận trước Tiểu ban chấm khóa
luận của Nhà trường.
Kết quả KLTN là sản phẩm tinh thần liên quan trực tiếp đến những vấn
đề lý luận, thực tiễn nẩy sinh thuộc các lĩnh vực của khoa học thuộc chuyên
ngành. Đó là một vấn đề mới, có thể do Khoa, Bộ môn, các giảng viên thuộc
khoa chuyên ngành gợi ý hoặc do bản thân học viên đề xuất nhưng không

14


được trùng lặp với các đề tài đã được nghiên cứu trước đó. Đề tài được chọn
phải có ý nghĩa khoa học, có giá trị thực tiễn, có tính khả thi, phù hợp với
chuyên ngành đào tạo và sở thích, sở trường của học viên.
Để KLTN có chất lượng tốt học viên phải vận dụng tổng hợp các kiến
thức, kỹ xảo, kỹ năng, kinh nghiệm được trang bị trong quá trình đào tạo; phải
có đủ phẩm chất, năng lực NCKH để thực hiện tốt mục tiêu, nội dung nghiên
cứu của KLTN. Qua đó, giúp học viên hồn thiện phẩm chất năng lực đáp ứng
mục tiêu, yêu cầu đào tạo của tồn khóa học.
Từ những phân tích trên cho thấy, muốn nâng cao chất lượng xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị, bên cạnh
việc nâng cao chất lượng đào tạo còn phải nâng cao chất lượng quản lý xây
dựng KLTN của học viên.
1.1.2. Quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo

giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT
là yêu cầu khách quan, một bộ phận không thể tách rời trong hoạt động quản
lý GDĐT của các chủ thể quản lý ở Nhà trường.
Theo quan niệm chung nhất, quản lý là những tác động có tính hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm tạo sự phối hợp nhịp
nhàng, thống nhất, huy động nỗ lực của các cá nhân, tổ chức thực hiện mục
tiêu, nội dung quản lý đã xác định. Xét về bản chất, quản lý vừa là khoa học,
vừa là nghệ thuật trong tổ chức, điều khiển và phối, kết hợp sự nỗ lực của mọi
người trong tổ chức nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu chung của tổ chức.
Mục tiêu của hoạt động quản lý là phối hợp tất cả các nguồn lực phát triển của
tổ chức (nhân lực, tài lực, vật lực và thông tin) thành một chỉnh thể, tạo ra tính
chất mới của các nguồn lực với ưu thế (sức mạnh) lớn hơn tổng sức mạnh của
các nguồn lực này để thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Ngày nay quản lý

15


đã trở thành nhân tố của sự phát triển và là một nghề trong xã hội. Ở đâu có tổ
chức thì ở đó có hoạt động quản lý.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của khoa học quản lý bao gồm từ quản
lý hệ thống giáo dục quốc dân đến quản lý trường học và chương trình, nội
dung GDĐT theo một hệ thống, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Quản lý giáo dục phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với toàn bộ
hệ thống giáo dục và phải tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển của nhà
trường. Theo tác giả Trần Kiểm, “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm việc
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn
diện, hoàn hảo” [22, tr.87].

Nhà trường là một tổ chức cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân. Theo
tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức
hoạt động dạy học,… Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các
tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý
được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối
đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” [13, tr.12].
Như vậy, quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội trong đó diễn
ra quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực
hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động
để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý được thực hiện trong lĩnh vực GDĐT
nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển của giáo
dục trong việc đáp ứng các yêu cầu mà xã hội đặt ra đối với giáo dục.
Trong các nhà trường, quản lý giáo dục là q trình có mục tiêu, có kế
hoạch, có hệ thống, trong một tổ chức sư phạm cụ thể của chủ thể quản lý,
đến tập thể giáo viên và học sinh, sinh viên, đến mọi lực lượng trong và ngoài
nhà trường nhằm huy động họ cùng hợp tác tham gia vào mọi hoạt động của

16


nhà trường để làm cho quá trình này vận hành hiệu quả nhất, hoàn thành
những mục tiêu dự kiến.
Chủ thể quản lý là một cá nhân người chủ trì nhà trường có thể là Giám
đốc hoặc Hiệu trưởng, cũng có thể là một tập thể: các cơ quan chức năng,
khoa chuyên ngành…
Đối tượng của quản lý giáo dục ở nhà trường là những nhân tố mà chủ
thể tác động đến bao gồm: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện,
nhân lực, tài chính, thời gian, khơng gian, tiến độ, logic, quản lý, mơi
trường…. Đó là q trình hoạch định và tổ chức thực tế bằng các công cụ
pháp lý, động viên, kích thích tạo động lực và có cấu trúc chặt chẽ.

Các trường đại học quân sự là một bộ phận trong hệ thống nhà trường
đại học của quốc gia, có chức năng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho các lĩnh vực hoạt động quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu của
quân đội, yêu cầu của xã hội. Nội dung quản lý học viên đào tạo giáo viên đại
học quân sự là quản lý toàn bộ các hoạt động của họ trong quá trình GDĐT, bao
gồm: hoạt động học tập, xây dựng KLTN; hoạt động giáo dục (bao hàm cả tự
giáo dục), rèn luyện nhân cách; hoạt động chính trị, giao lưu xã hội.... Trong đó,
quản lý xây dựng KLTN của học viên là một nội dung quan trọng của quản lý
giáo dục trong các trường đại học quân sự.
Từ quan niệm chung về quản lý, quản lý GDĐT gắn với mục tiêu, yêu
cầu xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT có thể
quan niệm: Quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên đào tạo giáo
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là tổng thể những cách thức, phương pháp
tác động có mục tiêu, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến q trình xây dựng
khóa luận của học viên, bảo đảm cho q trình đó đạt chất lượng, hiệu quả,
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Thực chất quản lý xây dựng KLTN là những tác động quản lý có tổ chức,
có mục tiêu, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm huy
động tối đa tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của người học để tìm tịi,

17


nghiên cứu, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành, phát triển, hồn
thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu yêu cầu đào tạo.
Mục tiêu quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường
SQCT là phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ, sự năng động, sáng tạo của chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý và các điều kiện, phương tiện bảo đảm nhằm nâng
cao chất lượng xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên, góp phần nâng
cao chất lượng GDĐT, xây dựng Nhà trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực.

Chủ thể quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở
Trường SQCT là những tổ chức và cá nhân trong hệ thống chỉ huy quản lý
giáo dục của nhà trường bao gồm: Ban giám hiệu Nhà trường; Thủ trưởng các
Phòng, Ban chức năng, các khoa giáo viên, người hướng dẫn khoa học, đơn vị
quản lý học viên. Trong đó, chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo tồn bộ hoạt động xây
dựng KLTN của học viên thuộc về Ban Giám hiệu mà người đứng đầu là Hiệu
trưởng Nhà trường.
Thủ trưởng các Phòng, Ban chức năng, các khoa giáo viên, người hướng
dẫn khoa học, các đơn vị quản lý học viên là chủ thể mưu và trực tiếp quản lý
xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên. Tuy có chức năng nhiệm vụ
khác nhau nhưng các lực lượng quản lý trên đều trực tiếp tham gia vào quá
trình quản lý xây dựng KLTN của học viên. Cụ thể là:
Thủ trưởng Phòng Đào tạo và Phòng Khoa học quân sự là chủ thể trong
tham mưu, phối hợp với các khoa chuyên ngành đào tạo giáo viên, các đơn vị
quản lý học viên giúp Ban Giám hiệu Nhà trường xây dựng, ban hành các quy
chế, quy định, chỉ thị, hướng dẫn; xác định kế hoạch, tiến trình, quy trình, các
tiêu chí đánh giá chất lượng KLTN của học viên.
Chủ nhiệm các khoa chuyên ngành đào tạo giáo viên, người hướng dẫn
khoa học là chủ thể quản lý, bồi dưỡng về chuyên môn, trực tiếp điều khiển,
tổ chức hướng dẫn học viên xây dựng KLTN từ khâu tìm kiếm, xác định vấn
đề nghiên cứu đến xây dựng kế hoạch, viết và bảo vệ khóa luận.

18


Thủ trưởng đơn vị quản lý học viên đào tạo giáo viên là chủ thể kiểm tra
đôn đốc học viên và phối hợp các lực lượng và tạo môi trường thuận lợi cho
q trình học viên xây dựng KLTN thơng qua các hệ thống kế hoạch, các văn
bản có tính pháp quy và các phương pháp hành chính, giáo dục, thuyết phục.
Trong các chủ thể trên thì người hướng dẫn khoa học chịu trách nhiệm

chính về chất lượng xây dựng KLTN của học viên. Nhưng đồng thời lại là đối
tượng quản lý của Hiệu trưởng Nhà trường và Chủ nhiệm khoa chuyên ngành
đào tạo giáo viên.
Đối tượng quản lý xây dựng KLTN là học viên đào tạo giáo viên. Họ vừa
là đối tượng vừa là chủ thể trực tiếp quản lý tồn bộ q trình xây dựng và
chất lượng KLTN của bản thân. Với tư cách là đối tượng, học viên phải tuân
thủ các quy chế, quy định, kế hoạch, quy trình, cách thức, biện pháp tổ chức
xây dựng, đánh giá chất lượng KLTN do các chủ thể quản lý xác định. Với tư
cách là chủ thể, học viên phải tự quản lý quá trình tự học, tự nghiên cứu tìm
kiếm, phát hiện vấn đề; thu thập, xử lý thơng tin, viết, bảo vệ và trực tiếp chịu
trách nhiệm về chất lượng khóa luận của mình.
Nội dung quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở
Trường SQCT là: quản lý kế hoạch xây dựng KLTN; quản lý việc tổ chức, chỉ
đạo hoạt động xây dựng KLTN; quản lý môi trường và các điều kiện bảo đảm;
quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả KLTN của học viên.
Phương pháp quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở
Trường SQCT rất phong phú, đa dạng. Trong đó, sử dụng tổng hợp các phương
pháp quản lý giáo dục như: quản lý hành chính quân sự, giáo dục, tâm lý; kích
thích, nêu gương là những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến.
Phương tiện quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên là các
quy chế, quy định; kế hoạch, quy trình các văn bản có tính pháp quy được Hiệu
trưởng ban hành. Cùng với đó là những cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho
học viên, người hướng dẫn và các khoa chuyên ngành đào tạo giáo viên quản lý
quá trình xây dựng KLTN của học viên.

19


Quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT là
quản lý một bộ phận trong quá trình sư phạm tổng thể của Nhà trường. Trong đó,

ln diễn ra các tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Sự
tác động đó được thực hiện thơng qua hệ thống nội dung, phương pháp, phương
tiện quản lý và tạo nên mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý tuân theo một quy trình tổ chức khoa học, chặt chẽ hướng tới nâng
cao chất lượng xây dựng KLTN, góp phần thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu đào
tạo của Nhà trường.
1.2. Đặc điểm quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học viên
đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của học viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị
Học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT là đối tượng tác động của các
chủ thể quản lý xây dựng KLTN. Họ là những thí sinh đã trúng tuyển vào đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội, sau một năm học tập, rèn luyện tại trường có kết
quả học tập khá trở lên, có nguyện vọng và được Nhà trường tổ chức tuyển chọn
về: tâm lý, hình thể; khả năng sư phạm; khả năng chuyên ngành, nếu đủ điều kiện
sẽ chuyển sang đào tạo giáo viên. Thời gian tồn khóa là 5 năm, trong đó có 4
năm do tiểu đồn quản lý học viên đào tạo giáo viên quản lý. So với các đối tượng
học viên đào tạo trong Nhà trường, học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT có
những đặc điểm nổi bật sau:
Tuyệt đại đa số học viên, có xu hướng nghề nghiệp giáo viên. Bởi lẽ, họ
tự nguyện đăng ký nguyện vọng, trải qua kỳ thi tuyển, kỹ càng về mặt tâm lý,
thể chất, khả năng sư phạm, khả năng theo học các chuyên ngành đào tạo.
Trước khi thi tuyển họ có sự tìm hiểu các thầy cơ giáo, gia đình, bạn bè,
những người đang học ở các lớp đào tạo giáo viên để khẳng định sự lựa chọn
nghề nghiệp tương lai của mình. Đây là điều kiện thuận lợi tạo động lực phấn
đấu vươn lên của học viên trong q trình đào tạo nói chung, xây dựng KLTN nói
riêng. Theo đó, giúp học viên phát huy vai trị chủ thể trong quá trình tìm kiếm, phát

20



hiện vấn đề nghiên cứu, cũng như thu thập tài liệu, tìm kiếm phương pháp, phương
tiện để nâng cao chất lượng xây dựng KLTN. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những
học viên do q trình tìm hiểu trước khi đăng ký dự tuyển vào đào tạo giáo viên thiếu
đầy đủ, chính xác; chưa thấy hết những khó khăn, phức tạp do đặc trưng hoạt động
nghề nghiệp giáo viên quy định, dẫn đến khi gặp phải những yêu cầu khắt khe trong
q trình đào tạo đã khơng tránh khỏi những phân vân, lo lắng cho khả năng bản
thân, thậm chí không giữ vững được xu hướng hoạt động nghề nghiệp mà bản thân
đã lựa chọn, làm ảnh hưởng đến sự nỗ lực vươn lên trong học tập.
Học viên đào tạo giáo viên hầu hết đang ở độ tuổi từ 19 đến 25. Đây là lứa tuổi
đã có sự phát triển hoàn thiện về mặt thể chất, hệ thần kinh, sức khỏe đang ở độ sung
sức nhất. Về mặt tâm lý, họ là những nhân cách đã và đang trưởng thành, chịu sự chi
phối mạnh mẽ của những đặc điểm tâm lý lứa tuổi thành niên. Vì thế, đại đa số học
viên rất năng động, nhạy bén trong học tập, thích tìm tịi, khám phá, thích thử sức
trước những khó khăn, phức tạp đặt ra trong quá trình học tập. Tuy nhiên, do nhận
thức còn phiến diện, kinh nghiệm trong học tập, NCKH và cuộc sống còn hạn chế
cho nên trong q trình xây dựng KLTN vẫn cịn một số học viên lựa chọn vấn đề
nghiên cứu quá lớn so với khả năng của bản thân, chưa phù hợp với chuyên ngành.
Đặc biệt, nhiều học viên còn lúng túng trong triển khai các khâu, các bước trong xây
dựng KLTN.
Thành phần học viên đào tạo giáo viên có tính đa dạng, phong phú. Là một
Nhà trường đào tạo cán bộ chính trị và giáo viên KHXH&NV quân sự cấp phân đội
cho toàn quân và yêu cầu phải đảm bảo cơ cấu vùng miền trong quá trình đào tạo.
Cho nên, đối tượng đào tạo giáo viên ở Trường SQCT có tính đa dạng, phong phú cả
về thành phần xuất thân, dân tộc, vùng miền, lứa tuổi, phong tục, tập quán… Đặc
điểm này vừa tạo nên những thuận lợi nhưng cũng gây nên những khó khăn nhất
định đến q trình quản lý xây dựng KLTN của học viên. Thuận lợi cơ bản do đặc
điểm này tạo nên, đó là các học viên có điều kiện bổ sung, giúp đỡ lẫn nhau trong quá
trình xây dựng KLTN nhưng khó khăn đặt ra là tâm lý vùng miền, dân tộc, sự chênh


21


lệch về trình độ nhận thức, phương pháp nghiên cứu của học viên rất khác nhau dẫn
đến trong quá trình quản lý xây dựng KLTN, phải kết hợp nhiều phương pháp tác
động khác nhau cho phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng.
Học viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị phải học tập, rèn luyện
để trở thành người sĩ quan, người giáo viên, người nghiên cứu khoa học. Đây là đặc
điểm bao trùm, chi phối tồn diện q trình đào tạo nói chung, quản lý xây dựng
KLTN của học viên nói riêng. Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo, học viên đào
tạo giáo viên phải đồng thời học tập, rèn luyện toàn diện các tri thức, kỹ xảo,
kỹ năng hoạt động của người sĩ quan, người chỉ huy trong quân đội; các tri
thức cơ bản, toàn diện về khoa học cơ sở, khoa học chuyên ngành đặc biệt là
tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động sư phạm phù hợp với
chuyên ngành đào tạo. Khi tốt nghiệp phải trải qua kỳ thi với các môn Chiến
thuật binh chủng hợp thành, môn nghiệp vụ sư phạm và KLTN (lấy kết quả
đánh giá tốt nghiệp mơn chun ngành). Vì vậy, cùng với q trình xây dựng
KLTN học viên phải ơn luyện, củng cố mở rộng kiến thức các môn chiến
thuật, nghiệp vụ sư phạm để đáp ứng yêu cầu của kỳ thi tốt nghiệp. Đặc điểm
này đặt ra yêu cầu rất cao đối với các chủ thể quản lý cũng như học viên trong
q trình xây dựng KLTN. Nó địi hỏi các chủ thể quản lý cũng như học viên
phải huy động nỗ lực cao cả về tinh thần, thể lực để thực hiện đúng chương
trình, kế hoạch; quy chế, quy trình; có phương pháp linh hoạt, sáng tạo, phù
hợp với từng đối tượng.
Tuyệt đại đa số học viên chưa có kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học độc
lập và viết KLTN. Quá trình học tập, học viên đã từng bước làm quen với hoạt
động NCKH thơng qua các hình thức khác nhau. Nhưng đó mới chỉ là những
hình thức giúp học viên hình thành kỹ năng ban đầu trong nghiên cứu khoa
học như viết tiểu luận, chuyên đề, thu hoạch. Một số ít tham gia viết tham
luận hội thảo khoa học cấp Tiểu đoàn hoặc liên khoa, tiểu đoàn và tham gia

nghiên cứu đề tài hàng năm do Nhà trường tổ chức. Đó là những hoạt động

22


giúp học viên từng bước hình thành phương pháp, kỹ năng ban đầu trong
nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, để độc lập tìm kiếm những vấn đề nẩy sinh
liên quan trực tiếp đến khoa học chuyên ngành và trực tiếp đi sâu nghiên cứu,
giải quyết vấn đề đặt ra theo đúng yêu cầu của một KLTN thì đây là lần đầu
tiên đối với học viên. Vì vậy, quá trình xây dựng KLTN của học viên khơng
tránh khỏi khó khăn, lúng túng; thiếu kiến thức và kinh nghiệm, thiếu những
kỹ năng NCKH cần thiết để luận giải những vấn đề mới, khó về lý luận và
thực tiễn khi viết khóa luận. Do đó, để nâng cao chất lượng xây dựng KLTN
các chủ thể quản lý phải dành sự quan tâm đến đặc điểm này.
1.2.2. Đặc điểm về chủ thể quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của học
viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Trường SQCT được tái lập từ năm 2008. Tuy thời gian tái lập chưa dài
nhưng từ năm học 2009 Nhà trường đã thực hiện nhiệm vụ đào tạo giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội cho toàn quân. Trong những năm qua, với quyết
tâm xây dựng Nhà trường “chính quy, tiên tiến, mẫu mực” xứng đáng là
trường trọng điểm của Quân đội, hướng tới khẳng định vị thế trong hệ thống
đào tạo đại học của Nhà nước. Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã có
nhiều chủ trương, biện pháp quan tâm kiện tồn, phát triển đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý ở các cơ quan, đơn vị từng bước đảm bảo số lượng và
nâng cao chất lượng. Trong đó, đặc biệt, coi trọng bồi dưỡng về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn và năng lực quản lý cho đội ngũ cán
bộ, giảng viên trong Nhà trường. Nhờ đó, cơng tác tham mưu, tổ chức quản
lý, thực hiện kế hoạch GDĐT được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, đảm bảo đúng
tiến trình, sát thực tế, chất lượng ngày càng được nâng lên. Quản lý, duy trì
nghiêm các hoạt động dạy và học. Cơng tác thanh tra, kiểm tra GDĐT tiến

hành có nền nếp, đúng quy định.
Tuy nhiên, quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên đến
nay vẫn là một nhiệm vụ mới, các chủ thể quản lý chưa có nhiều kinh nghiệm.

23


Kể từ khi tái lập đến nay, Nhà trường mới có 2 khóa giáo viên đào tạo giáo
viên tốt nghiệp ra trường, hiện đang chuẩn bị cho khóa thứ 3 ra trường vào
năm 2015. Do đặc thù mới được tái lập và thời gian đào tạo chưa dài nên về
phía chủ thể quản lý có những đặc điểm nổi bật sau:
- Chủ thể quản lý có thành phần đa dạng, phong phú. Chủ thể quản lý
xây dựng KLTN của học viên là một hệ thống từ Ban Giám hiệu Nhà trường,
đến thủ trưởng các cơ quan chức năng, các khoa chuyên ngành, người hướng
dẫn, thủ trưởng đơn vị quản lý học viên đào tạo giáo viên. Tuy chức năng,
nhiệm vụ khác nhau nhưng với tính chất đa dạng, phong phú trên địi hỏi
trong q trình quản lý xây dựng KLTN của học viên phải có sự hiệp đồng
chặt chẽ, ăn khớp, phải phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể để bảo
đảm cho quá trình quản lý tuân thủ đúng quy chế, quy trình, góp phần nâng
cao chất lượng quản lý xây dựng KLTN của học viên.
Đội ngũ người hướng dẫn học viên làm KLTN có trình độ, kinh nghiệm
không đồng đều. Trong những năm qua do mới được tái lập, Trường SQCT
phải tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đáp
ứng yêu cầu phát triển của Nhà trường. Vì vậy, lực lượng giảng viên ở các
khoa được cử đi đào tạo Cao học và Nghiên cứu sinh lớn, lực lượng giảng
viên ở các khoa còn thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng. Số giảng viên có
kinh nghiệm, có trình độ cao cịn ít. Trong khi số lượng học viên đào tạo giáo
viên của mỗi khoa chuyên ngành mỗi khóa thường có từ 15 -20 học viên. Do
đó, đội ngũ người hướng dẫn học viên xây dựng KLTN có trình độ, kinh
nghiệm khơng đều. Trong đội ngũ hướng dẫn có cả: Phó Giáo sư, Tiến sĩ,

Thạc sĩ, Cử nhân. Tình hình trên, dẫn đến chất lượng hướng dẫn và quản lý
chất lượng KLTN của học viên không đồng đều. Đặc điểm này đòi hỏi các
khoa đào tạo giáo viên theo các chun ngành phải tính đến trình độ, kinh
nghiệm của người hướng dẫn và đặc điểm, năng lực nghiên cứu của học viên

24


để phân cơng bố trí người hướng dẫn phù hợp nhằm nâng cao chất lượng xây
dựng và quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên.
Các chủ thể quản lý KLTN cùng lúc phải đảm nhiệm nhiều cơng việc,
cường độ lao động cao. Xây dựng KLTN có vị trí, vai trị rất quan trọng trong
nội dung, chương trình đào tạo giáo viên. Nhưng quản lý hoạt động này chỉ là
một nội dung, một khâu trong toàn bộ chương trình đào tạo. Cùng với quá
trình quản lý xây dựng KLTN, các chủ thể quản lý cùng lúc phải quản lý toàn
bộ mọi hoạt động liên quan đến GDĐT của Nhà trường. Trong khi, bước vào
giai đoạn xây dựng KLTN cũng là giai đoạn các chủ thể quản lý phải tập trung
vào rất nhiều hoạt động cho thi tốt nghiệp ra trường, tổng kết năm học, khóa
học. Đặc biệt đội ngũ người hướng dẫn có kinh nghiệm, có trình độ cao,
thường phải đảm nhiệm từ 3- 4 học viên; số giảng viên chưa qua đào tạo cao
học cũng phải tham gia hướng dẫn 1-2 học viên làm KLTN. Bên cạnh đó họ
phải tham gia giảng dạy với cường độ cao và giai đoạn học viên chuẩn bị
hoàn thành KLTN cũng là giai đoạn người hướng dẫn phải hoàn thành rất nhiều
cơng việc cho kết thúc năm học. Vì vậy, khơng tránh khỏi tình trạng dồn nén, dễ
ảnh hưởng đến chất lượng quản lý xây dựng KLTN của học viên. Điều này đòi
hỏi người hướng dẫn, học viên và các chủ thể quản lý phải có sự phối hợp chặt
chẽ, khoa học, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng.
1.2.3. Đặc điểm về môi trường quản lý xây dựng khóa luận tốt nghiệp của
học viên đào tạo giáo viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên ở Trường SQCT diễn ra

trong môi trường GDĐT của xã hội, quân đội, Nhà trường và luôn chịu sự tác
động to lớn của các mơi trường đó. Vì vậy, quản lý xây dựng KLTN của học
viên các chủ thể và đối tượng quản lý cần tính đến những thuận lợi và khó
khăn do môi trường xã hội, quân đội và Nhà trường đặt ra.
Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước, sự nghiệp xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; sự

25


phát triển của tình hình giáo dục thế giới, khu vực và yêu cầu “đổi mới căn
bản, toàn diện, giáo dục đào tạo” của Đảng, Nhà nước đã và đang đặt ra
những thuận lợi rất to lớn, tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực,
cố gắng vươn lên của mọi lực lượng tham gia giáo dục của Nhà trường, thúc
đẩy tính tích cực học tập, rèn luyện của người học. Đồng thời, cũng tạo điều
kiện tăng cường cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật hiện đại, bảo đảm cho quá
trình dạy và học trong các nhà trường nói chung, xây dựng KLTN của học
viên ở trường SQCT nói riêng.
Ở Trường SQCT quản lý xây dựng KLTN của học viên đào tạo giáo viên
diễn ra trong môi trường sư phạm quân sự. Đây là môi trường vừa mang tính
nhân văn của mơi trường sư phạm đại học; vừa được tổ chức chặt chẽ tuân
theo các yêu cầu của một tổ chức quân sự. Vì vậy, mọi hoạt động của nhà
trường nói chung, quản lý xây dựng KLTN của học viên nói riêng ln được
tổ chức một cách khoa học theo phân cấp quản lý và tuân thủ theo các yêu cầu
của kỷ luật quân đội. Trong môi trường đó quan hệ giữa các chủ thể quản lý
với đối tượng quản lý vừa là quan hệ cấp trên, cấp dưới, vừa là quan hệ thầy,
trò; quan hệ đồng chí, đồng đội. Tuy mới được thành lập, nhưng được sự quan
tâm của thủ trưởng Bộ Quốc phòng và các cơ quan chức năng những năm qua
Nhà trường đã có đủ những điều kiện bảo đảm về giáo khoa, giáo trình, thơng
tin, tài liệu phục vụ học viên xây dựng KLTN. Nhà trường có mơi trường

xanh, sạch, đẹp.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên, môi trường xây dựng KLTN
của học viên đào tạo giáo viên ở trường SQCT cũng cịn có những khó khăn
khơng nhỏ đó là: Nhà trường mới tái lập, kinh nghiệm trong quản lý xây dựng
KLTN của học viên đào tạo giáo chưa nhiều; đội ngũ cán bộ hướng dẫn có
thành phần đa dạng; học viên tuyệt đại đa số là học sinh phổ thông tuyển vào
đào tạo giáo viên nên chưa có nhiều kinh nghiệm, vốn sống trong môi trường sư
phạm quân sự; chưa được làm quen nhiều với hoạt động nghiên cứu khoa học.

26


×