BAN CƠ YẾU CHÍNH PHỦ
HỌC VIỆN KỸ THUẬT MẬT MÃ
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
BÁO CÁO
Tìm hiểu về thực trạng áp dụng thương mại điện tử trên Thế giới.
Cơ sở pháp lý cho phát triển thương mại điện tử tại Thế giới
Học phần: An toàn internet và thương mại điện tử
Hà Nội, 2020
Nhận xét của giảng viên
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
............................................................................................
MỤC LỤC
Chương I. Tổng quan về thương mại điện tử........................................................1
1.1. Khái niệm ........................................................................................................1
1.2. Các mơ hình thương mại điện tử phổ biến ..................................................1
1.2.1. Mơ hình thương mại điện tử B2B (Business to Business) ....................1
1.2.2. Mơ hình thương mại điện tử B2C (Business to Customer) .................2
1.2.3. Mơ hình thương mại điện tử C2C (Customer to Customer) ...............2
Chương II. Thực trạng thương mại điện tử trên thế giới. ...................................4
1.1 Thực trạng thương mại điện tử trên thế giới ...............................................4
1.2. Thực trạng thương mại điện tử tại 1 số nước và khu vực .........................5
1.3. Một số hiệp định được ký liên quan về thương mại điện tử ......................9
Chương III. Cơ sở pháp lý của thương mại điện tử trên thế giới. ....................11
3.1. Một số vấn đề pháp lí trong thương mại điện tử ......................................11
3.1.1. Vấn đề pháp lý trong đảm bảo an toàn và độ tin cậy cho các giao
dịch TMĐT. ......................................................................................................11
3.1.2. Vấn đề bảo đảm tính riêng tư: .............................................................11
3.1.3. Bảo vệ người tiêu dùng: ........................................................................12
3.1.4. Các vấn đề về hợp đồng ........................................................................12
3.1.5. Các yêu cầu hình thức văn bản, chữ ký, văn bản gốc ........................13
3.1.6. Thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử .............................13
3.2. Pháp luật về thương mại điện tử trên thế giới ..........................................14
3.2.1. Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử ............................14
3.2.2. . Luật thương mại điện tử của một số nước trên thế giới ..................15
3.3. Cơ sở pháp lý của thương mại điện tử trên thế giới. ................................17
3.3.1. Giá trị pháp lý của các trang thương mại điện tử .............................17
3.3.2. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử .......................................................17
3.3.3.Văn bản gốc .............................................................................................18
3.3.4. Luật Bảo vệ sự riêng tư trong thương mại điện tử ............................18
3.3.5.Luật Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ..........................................................19
Chương IV Tổng kết ..............................................................................................20
Danh mục bảng
Bảng 1.Doanh thu ước tính từ thương mại điện tử ....................................................4
Bảng 2. Khung pháp lý cho các hoạt động TMĐT của một số nước trên thế giới ..17
Danh mục hình vẽ
Hình 1.Mơ hình B2B..................................................................................................1
Hình 2 Mơ hình B2C..................................................................................................2
Hình 3 Mơ hình C2C..................................................................................................2
Lời nói đầu
Vào cuối thế kỷ XX, sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã được áp
dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các lĩnh vực khác (điện thoại di
động, thẻ tín dụng ...). Số hoá và mạng hoá đã là tiền đề cho sự ra đời của nền kinh
tế mới - nền kinh tế số (còn gọi là nền kinh tế tri thức, nền kinh tế dựa trên tri thức,...).
Việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thơng qua các phương tiện điện tử, Internet và
các mạng viễn thông khác đã xuất hiện, đó chính là “Thương mại điện tử” (TMĐT).
Thương mại Điện tử là tồn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh liên
quan đến các tổ chức hay cá nhân tiến hành hoạt động thương mại có sử dụng các
phương tiện điện tử và công nghệ xử lý thông tin số hoá, bao gồm cả sản xuất, phân
phối, marketing, mua – bán, giao hàng hoá và dịch vụ bằng các phương tiện điện tử.
Tuy mới xuất hiện và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thương mại song
TMĐT đã mang lại những lợi ích to lớn cho doanh nghiệp, chính phủ, người tiêu
dùng và xã hội. Thương mại điện tử đã vượt ra khỏi lĩnh vực thương mại, ngày càng
tác động đến các lĩnh vực khác và hứa hẹn mang lại những thay đổi to lớn và sâu sắc
mọi mặt đời sống xã hội loài người. Thương mại điện tử ngày càng được sự quan
tâm của Chính phủ, Doanh nghiệp và người tiêu dùng và đang trở thành một cơng
cụ hữu hiệu trong q trình tồn cầu hố và trong xây dựng nền kinh tế số. Thât khó
mà hình dung ra xã hội tương lai nếu khơng có TMĐT.
Bên cạnh đó, TMĐT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết để khai thác
các lợi ích của TMĐT như vấn đề an toàn, an ninh cho các giao dịch trên mạng, các
vấn đề về bảo vệ bí mật, tính riêng tư, các vấn đề về CNTT và truyền thông, cơ sở
hạ tầng, các vấn đề về nhân lực, chuyển đổi mơ hình kinh doanh, các vấn đề về quản
lý, thay đổi tập quán, thói quen trong kinh doanh…
Để làm rõ các vấn đề trên trong bài báo cáo này nhóm em xin được trình bày
về đề tài “Tìm hiểu về thực trạng áp dụng thương mại điện tử trên Thế giới. Cơ sở
pháp lý cho phát triển thương mại điện tử tại Thế giới.”
Chương I. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1. Khái niệm
Thương mại điện tử là các hoạt động kinh doanh: sản xuất, giao dịch, mua
bán, thanh toán, đặt hàng, quảng cáo và kể cả giao hàng sử dụng các phương tiện
công nghệ điện tử như điện thoại, máy FAX, truyền hình và mạng máy tính, chủ yếu
là qua máy tính và điện thoại có kết nối internet.
Thương mại điện tử thơng thường được xem ở các khía cạnh của kinh doanh
điện tử (e-business). Nó cũng bao gồm việc trao đổi dữ liệu tạo điều kiện thuận lợi
cho các nguồn tài chính và các khía cạnh thanh tốn của việc giao dịch kinh doanh.
E-commerce có thể được dùng theo một vài hoặc tồn bộ những nghĩa như
sau:
•
•
•
•
•
•
E-tailing (bán lẻ trực tuyến) hoặc "cửa hàng ảo" trên trang web với các danh mục
trực tuyến, đôi khi được gom thành các "trung tâm mua sắm ảo".
Việc thu thập và sử dụng dữ liệu cá nhân thông qua các địa chỉ liên lạc web
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), trao đổi dữ liệu giữa Doanh nghiệp với Doanh
nghiệp
Email, fax và cách sử dụng chúng như là phương tiện cho việc tiếp cận và thiếp
lập mối quan hệ với khách hàng (ví dụ như bản tin - newsletters)
Việc mua và bán giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp
Bảo mật các giao dịch kinh doanh
1.2. Các mơ hình thương mại điện tử phổ biến
1.2.1. Mơ hình thương mại điện tử B2B (Business to Business)
Hình 1.Mơ hình B2B
1
Đây là mơ hình thương mại điện tử dựa trên mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
với nhau. Một bên cung cấp các giải pháp thương mại điện tử một bên sử dụng ứng
dụng đó để kinh doanh sản phẩm. Điển hình của mơ hình này chính là Alibaba. Với
2 website là alibaba.com, Taobao.com Alibaba của Jack Ma tạo ra những chợ điện
tử và cho các doanh nghiệp thuê các gian hàng để bán sản phẩm của họ.
1.2.2. Mơ hình thương mại điện tử B2C (Business to Customer)
Đây là mô hình thương mại điện tử giữa doanh nghiệp trực tiếp với khách hàng.
Nghĩa là doanh nghiệp đưa hàng hóa của mình lên mạng internet, khách hàng xem
thơng tin sản phẩm, đặt mua, nhận hàng hóa qua mạng với các sản phẩm số, qua việc
giao hàng thực tế nếu đó là một sản phẩm hữu hình.
Hình 2 Mơ hình B2C
Điển hình của mơ hình B2C là Amazon. Một trong 2 cơng ty thương mại điện tử lớn
nhất Mỹ. Amazon đưa thông tin hàng hóa của mình lên internet, khách hàng đặt hàng,
Amazon giao hàng đến tận nơi cho khách hàng.
1.2.3. Mô hình thương mại điện tử C2C (Customer to Customer)
Hình 3 Mơ hình C2C
Hoạt động như hình thức đấu giá trực tuyến: người bán đưa các mặt hàng cần bán
của mình lên website và người mua sẽ trả giá để mua sản phẩm đó. Điển hình của mơ
2
hình này chính là eBay.com – Cùng với Amazon là 2 công ty thương mại điện tử lớn
nhất Mỹ. eBay tạo ra một chợ “trời” để người mua, người bán thương thảo, mua bán.
3
Chương II. Thực trạng thương mại điện tử trên thế
giới.
1.1 Thực trạng thương mại điện tử trên thế giới
Thương mại điện tử hiện nay vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ kể cả ở các
nước phát triển vì vậy có nhiều cách nhìn nhận đánh giá dưới nhiều góc độ khác
nhau và khơng có sự thống nhất trong các số liệu đánh giá về thương mại điện tử.
Năm
1997
1998
2002
2002
2003
Con số doanh thu ước tính(tỉ đơ)
18
31
300
1300
4400
Bảng 1.Doanh thu ước tính từ thương mại điện tử
Có thể nói, thương mại điện tử đang có một tốc độ phát triển rất cao trong
những năm gần đây. Mọi dự đoán đưa ra ngày hơm nay có thể nhanh chóng trở
nên lạc hậu trong thời gian ngắn sau đó. Tình hình phát triển thương mại điện tử
trên thế giới trong thời gian qua có thể tóm tắt bằng những nét khái quát như sau:
Thương mại điện tử tuy phát triển rất nhanh nhưng quy mơ cịn rất nhỏ:
tổng doanh số thương mại điện tử trên thế giới năm 1999 là 111 tỉ USD, chỉ
tương đương 0,37% tổng doanh số giao dịch thương mại bằng mọi phương tiện
(khoảng 30000 tỉ USD). Tuy nhiên cũng phải thấy rằng sự phát triển của thương
mại điện tử không biểu hiện ở quy mơ hiện tại của nó mà ở tốc độ gia tăng cực kỳ
nhanh chóng, báo hiệu cả một xu thế.Hoạt động thương mại điện tử phát triển mạnh
ở một số nước phát triển.Trong đó riêng Mỹ chiếm một nửa, nhưng chủ yếu trong
lĩnh vực thương mại nội địa.
Mặc dù số người sử dụng Internet thông tin tăng nhanh trong những năm
gần đây, điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho thương mại điện tử phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới. Tuy nhiên, hiểu biết và nhận thức đầy đủ về
thương mại điện tử đối với đông đảo con người và doanh nghiệp vẫn cịn là một
vấn đề đáng quan tâm, khơng chỉ ở các nước chậm phát triển mà cịn ở các nước
cơng nghiệp phát triển.
Do tính chất tồn cầu của thương mại điện tử qua mạng Internet nên có
nhiều định chế, tổ chức quốc tế quan tâm đến việc xây dựng khung toàn cầu cho
4
thương mại điện tử phát triển bao gồm các luật định, các định chế để thúc đẩy sự
phát triển của thương mại điện tử cho đúng với ý nghĩa của nó.
1.2. Thực trạng thương mại điện tử tại 1 số nước và khu vực
a) Hoa Kỳ
Công nghệ thông tin ở Mỹ đã phát triển cao, trong các năm 1995 - 1997 đã
đóng góp 28 - 41% tổng số gia tăng của GDP. Riêng về máy tính điện tử, hiện
nay cứ 100 gia đình người Mỹ thì có 38 gia đình có máy, đạt tỉ lệ cao nhất thế
giới. Theo các số liệu ước tính gần đúng, Mỹ đang chiếm tỉ trọng trên 70% trong
tổng doanh số thương mại điện tử của toàn thế giới.Theo số liệu nghiên cứu của
Douglass C.North, nhà kinh tế giải thưởng Nobel, thì vì nước Mỹ đã chuyển
mạnh sang “kinh tế tri thức” nên chi phí giao dịch trong nền kinh tế Mỹ (gọi
chung các chi phí giao dịch thương mại và bảo vệ sở hữu cả vật thể và trí tuệ)
chiếm tới 45% GDP. Trong tình huống đó, thương mại điện tử có ý nghĩa sống
cịn đối với nước Mỹ. Nhờ nó chi phí giao dịch có thể giảm đi nhiều chục, thậm
chí hàng trăm lần. Đó là lý do vì sao Mỹ là nước đi tiên phong trong lĩnh vực
thương mại điện tử. Tới tháng 7.1997 số lĩnh vực kinh doanh sử dụng thương mại
điện tử ở Mỹ đã lên tới hàng nghìn. Hiện nay Mỹ chiếm trên một nửa tổng doanh
số thương mại điện tử toàn thế giới (chủ yếu trong nội địa nước Mỹ).
Mặc dù thương mại điện tử đã phát triển cao ở nước này, nhưng các cá nhân
và các doanh nghiệp trong nước Mỹ vẫn còn tiếp tục nêu ra ba vấn đề có thể gây
trở
ngại
cho
hình
thức
bn
bán
đó:
- Thiếu một mơi trường pháp lý có thể tiên liệu được (predictable legal
environment)
- Lo ngại rằng Chính phủ sẽ đánh thuế quá mức, hoặc kiểm duyệt Internet.
- Có các lo ngại về năng lực hoạt động, độ tin cậy và tính an tồn của
Internet.
Xem xét các vấn đề trên, tháng 7.1997 Chính phủ Mỹ cơng bố bản “khn
khổ cho thương mại điện tử tồn cầu (Framework for Global Electronic
Commerce) - Chữ “khuôn khổ ở đây dùng với nghĩa là các nguyên tắc chỉ đạo.
Trong đó nêu ra quan điểm của Mỹ về 05 nguyên tắc cơ bản của thương mại điện
tử
thường
được
coi
là
“thách
thức
của
Mỹ”:
- Internet là vũ đài hoàn toàn chịu sự chi phối của thị trường (với nghĩa là
khơng chịu sự điều chỉnh, kiểm sốt của Chính phủ), khu vực tư nhân giữ vai trị
tiên
phong.
- Chính phủ khơng có các hạn chế khơng cần thiết đối với thương mại điện
tử.
- Nếu Chính phủ cần phải tham gia thì chỉ là tạo mơi trường pháp lý giản dị
và nhất quán cho thương mại điện tử mà không phải là điều tiết nó.
5
- Chính phủ cơng nhận các tính chất đặc thù của Internet và không cho rằng
Internet phải theo các khuôn khổ điều tiết đã xác lập cho liên lạc, truyền thanh và
truyền
hình.
- Thương mại điện tử trên Internet cần phải mang tính tồn cầu, khơng phân
biệt đối xử giữa những người mua và người bán ở các quốc gia khác nhau.
Chính phủ Mỹ cũng khuyến nghị với thế giới 03 nguyên tắc sau đây đối với
thương
mại
điện
tử:
- Thương mại điện tử trên Internet cần phải được tự do, phi quan thuế.
- Thế giới cần có một luật chung để điêu tiết hình thức thương mại điện tử.
Luật ấy phải đơn giản, bền vững và mang tính có thể tiên liệu được.
- Sở hữu trí tuệ và bí mật riêng tư phải được tôn trọng và bảo vệ trong khi
tiến
hành
thương
mại
điện
tử.
Trong khuôn khổ Liên hợp quốc và trong APEC, Mỹ hoạt động rất tích cực
để thúc đẩy thương mại điện tử, chính bởi việc áp dụng rộng rãi quốc tế hình thức
này sẽ đem lại lợi ích đa dạng thiết thân và mang tính chiến lược cho Mỹ (như đã
đề cập ở trên).
b) Trung Quốc
Nhu cầu sử dụng máy tính điện tử trong dân chúng tăng cao, năm 1996 số
máy tính điện tử bán ra trên thị trường nội địa Trung Quốc là 1,8 triệu cái, năm
1997 lên 3 triệu cái, năm 1998 là 4,5 triệu. Nhưng lực lượng sử dụng chủ yếu là ở
các thành phố lớn (vào cuối năm 1997, tỷ trọng số gia đình có máy tính điện tử
tính trên 100 gia đình là 6 ở Thượng Hải, 3 ở Bắc Kinh và 1 trung bình trên tồn
quốc). Trung Quốc bước vào thương mại điện tử rất chậm. Cuối năm 1997 mới
chính thức vào mạng Internet (trước đó đã có truy nhập nhưng khơng chính thức,
vào năm 1996 mới có khoảng 100 nghìn máy nối vào Internet). Ngay sau đó tốc
độ phát triển tăng rất cao. Tháng 3/1998 Internet đã phủ trên 30 thành phố, số
thuê bao Internet là 0,6 triệu, tới cuối tháng 06 lên 1,17 triệu, cuối năm lên 2,1
triệu (có một dự báo cao hơn: có thể gân 10 triệu).
Tuy đã và đang tiến hành một số dịch vụ qua mạng như dịch vụ quảng cáo
và giao dịch thông qua Trade Point, dịch vụ đặt mua vé tàu, vé máy bay qua
mạng nhưng chưa thấy công bố chiến lược hay chương trình tổng thể nào về
thương mại điện tử. Mãi tới quý II năm 1999, Bộ công nghệ thông tin mới chỉ
công bố dự kiến tới cuối năm 2000 sẽ hồ mạng Internet cho ít nhất 80% chính
quyền địa phương, năm 2001 hồ mạng Internet cho 80% các cơng ty.
Hiện nay, Trung Quốc cịn đang lo xử lý 4 vấn đề bao trùm:
- Một là, chi phí sử dụng Internet còn quá cao, chiếm tới 10% thu nhập của
người sử dụng ở mức vừa phải (so với 1% ở Mỹ).
6
- Hai là, người sử dụng Internet hiện nay hiện nay chủ yếu mới chỉ là một
nhóm trí thức mà chưa phổ cập rộng rãi. Dân chúng nhìn chung vẫn chưa có kỹ
năng
cần
thiết
để
làm
việc
trên
mạng.
- Ba là, các thói quen sinh hoạt và kinh doanh truyền thống vẫn còn rất
mạnh.
- Bốn là, ảnh hưởng tiêu cực về xã hội - chính trị của Internet. Các lực lượng
chống đối đang lợi dụng Internet tổ chức nhiều diễn đàn ngôn luận, tuyên truyền
chống Đảng và Nhà nước. Lãnh đạo Trung Quốc phải ra lệnh cho Bộ công an áp
dụng các biện pháp nghiêm ngặt. Bắt đầu từ 1/2/1999 theo dõi giám sát Internet
24 trên 24 giờ, kịp thời huỷ bỏ các diễn đàn này và truy bắt những người tham
gia.
Các cơ quan nghiên cứu quốc tế về thương mại điện tử cho rằng với tình
hình đó triển vọng phát triển thương mại điện tử ở Trung Quốc cịn chưa rõ ràng
vì một trong những địi hỏi của thương mại điện tử là Internet khơng bị theo dõi
và kiểm duyệt.
c) Các nước châu Á- Thái Bình Dương
Tháng 2.1998 tại cuộc gặp ở Penang, các quan chức cấp cao của APEC đã
thành lập một Lực lượng đặc nhiệm (do Singapore và Australia làm đồng chủ
tịch) để lo các công việc về thương mại điện tử trong APEC. Lực lượng đặc
nhiệm đã vạch ra và thực hiện chương trình cơng tác gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn một: tập trung vào việc làm cho các nước thành viên hiểu rõ các
vấn đề chủ chốt sẽ phát sinh ra do việc tăng cường áp dụng thương mại điện tử và
tác động của nó tới quyền lợi kinh tế và thương mại của từng nước (giai đoạn này
đã kết thúc sau 4 tháng hành động).
Giai đoạn hai: vừa tiếp tục trao đổi thông tin liên quan đến thương mại điện
tử, vừa tiến hành các công tác mới nhằm vào việc hình thành các ngun tắc chỉ
đạo cơng tác thương mại điện tử của APEC trong tương lai; thúc đẩy cho khu vực
dịch vụ chính phủ chuyển sang số hố làm chất xúc tác cho thương mại điện tử;
đặc định các cản trở hiện tồn đối với thương mại điện tử trong khu vực APEC;
đắc định các lĩnh vực có thể hợp tác với nhau để xây dựng cơ sở cho thương mại
điện tử; xem xét khả năng phối hợp giữa Chính phủ và giới doanh nghiệp về
thương mại điện tử (bao gồm cả việc huấn luyện); đặc định các lĩnh vực hợp tác
cụ thể về thương mại điện tử. Các phân diễn đàn (sub-forum) đã bảo trợ cho các
dự án thử nghiệm thương mại điện tử trong các lĩnh vực: vận tải, bảo mật dữ liệu,
trao đổi dữ liệu điện tử v v
Tại cuộc gặp thượng đỉnh tháng 11.1998, APEC cơng bố bản “Chương trình
hành động APEC về thương mại điện tử” nhìn nhận rằng thương mại điện tử có
7
tiềm năng to lớn, đồng thời nhìn nhân rằng các nước thành viên đang ở các trình
độ phát triển khác nhau về kinh tế, văn hoá, xã hội và cách điều hành, và để cho
các thành viên đã phát triển có thể tiến hành thương mại điện tử vào năm 2005,
các thành viên đang phát triển vào năm 2010 hoặc muộn hơn chút ít thì cần có sự
hợp tác và nâng cao năng lực áp dụng thương mại điện tử theo hướng Chính phủ
tạo mơi trường thuận lợi về pháp lý, điều hành, về lòng tin và gương mẫu đi đầu
trong việc số hố các dịch vụ chính phủ. Cịn vai trị đầu tàu thì dành cho giới
doanh nghiệp. Giao cho Lực lượng đặc nhiệm tiếp tục nghiên cứu chuyên điểm
(case study), và dự kiến sẽ thành lập thêm các lực lượng đặc nhiệm ngắn hạn để
giải
quyết
từng
vấn
đề
nhỏ
có
liên
quan.
Bản “Chương trình hành động” này mang tính lạc qua, khơng chỉ ra khó
khăn hay nguy cơ tiềm ẩn nào của thương mại điện tử đối với các nước cịn ít
phát triển.
d) Các nước Đơng Nam Á(ASEAN)
Các nước ASEAN bắt đầu có các hoạt động tập thể về thương mại điện tử
từ năm 1997, mở đầu bằng hội nghị bàn tròn ASEAN về thương mại điện tử tổ chứcở
Malaysia vào tháng 10 với nội dung xoay quanh việc xây dựng một kế hoạch hợp
tác trong lĩnh vực này nhằm đáp lại tuyên bố của Tổng thống Mỹ B. Clinton về một
khn
khổ
thương
mại
điện
tử
tồn
cầu.
Để xúc tiến hợp tác về thương mại điện tử, ASEAN đã lập ra “Tiều ban điều
phố về thương mại điện tử” (Coordinating Committee on Electronic Commerce CCEC). Tháng 7/1998 Tiểu ban này họp Hội nghị lần thứ nhất. Tháng 9/1998
họp Hội nghị lần thứ hai. Tại Hội nghị này CCEC đã thông qua bản “Các nguyên
tắc
chỉ
đạo
thương
mại
điện
tư”.
Khác với bản “Chương trình hành động của APEC về thương mại điện tử”,
bản “Các nguyên tắc chỉ đạo về thương mại điện tử” của các nước ASEAN (hầu
hết là thành viên APEC) bộc lộ sự lo ngại của các nước thành viên trước tình
trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng pháp lý, tài
chính của mình trước xu thế phát triển của Thương mại điện tử. Sự dè dặt khơng
giấu giếm trước các rủi ro, tổn thất có thể phát sinh khi buộc phải tham gia trong
lúc một mơi trường thích hợp chưa được tạo dựng, và giữa các nước chưa có khả
năng liên nối kết và liên thao tác. Bản “Các nguyên tắc chỉ đạo” cho thấy một
đánh giá đúng mức của các nước ASEAN. Đó có lẽ nhờ cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính Châu á đã giúp các nước này thấy được sự bất cập của hệ thống tổ
chức kinh tế xã hội và của nền cơng nghệ ASEAN so với địi hỏi của thương mại
điện tử. Bản này cũng cho thấy: đánh giá tập thể của cả hiệp hội khác với đánh
giá của một số nước thành viên riêng lẻ ít nhiều có thể vẫn cịn mang tính “phơ
diễn”.
8
Theo bản “Các nguyên tắc chỉ đạo” này, các nước ASEAN sẽ tiếp cận
thương mại điện tử một cách thận trọng, hướng nhiều về việc hình thành mơi
trường cơng nghệ pháp lý, và phải có nhiều thử nghiệp, mà thử nghiệm chủ yếu
sẽ do các doanh nghiệp tư nhân tiến hành.
Chương trình cơng tác tiếp theo của CCEC cho thấy ASEAN đang còn
trong giai đoạn “nghiên cứu” về thương mại điện tử, tìm đường phối hợp chuyển
giao cơng nghệ và hợp tác kỹ thuật với nhau trước khi có thề thực sự tham gia vào
thương mại điện tử với nhau và với các nước khác.
1.3. Một số hiệp định được ký liên quan về thương mại điện tử
Tháng 12.1995: Đại hội đồng Liên hiệp quốc ra Nghị quyết yêu cầu các
Chính phủ và tổ chức quốc tế áp dụng các biện pháp để đảm bảo an toàn pháp lý
của các giao dịch điện tử nên cơ sở khuyến nghị của Uỷ ban Liên hiệp quốc tế về
luật thương mại quốc tế (United Nations Comission on International Trade Law:
UNCITRAL) về giá trị pháp lý của các dữ liệu chuyển giao điện tử.
Tháng 12.1992:Hội nghị của tổ chức “Hội nghị Liên hợp quốc về thương
mại và phát triển” (UNCTAD) họp tại Cartagena (Colombia) đề xuất sáng kiến
về hiệu quả thương mại nhằm giúp các doanh nghiệp nhở và vừa tham gia vào
sâu hơn buôn bán quốc tế.
Tháng 10.1994 tại Colombus (Ohio, Mỹ), UNCTAD chính thức đề xướng
chương trình “tâm điểm mậu dịch” (Trade point) ở các nước đề cung cấp dịch vụ
giao dịch buôn bán, cung cấp thông tin kinh tế thương mại làm cửa ngõ dẫn các
doanh nghiệp gia nhập vào mạng điện tử toàn cầu. Như vậy, tuy Trade Point là một
chương trình khác nhưng một trong ba chức năng của Trade Point có liên quan tới
thương mại điện tử. Các Trade Point có liên kết với nhau thành một “mạng toàn cầu
các tâm điểm mậu dịch” (Global Trade Point Network, gọi tắt là GTPNet), mạng
này dùng để “hỗ trợ các nước đang phát triển rong nỗ lực tìm cách thư được lợi ích
trong việc tham gia vào liên lạc điện tử toàn cầu”. Tháng 10.1994, Hội nghị Bộ
trưởng các nước thành viên UNCTAD tuyên bố ủng hộ chương trình đó. Vào tháng
9.1998 mạng Trade Point có 167 điểm, trong đó 44 đã hoạt động, 21 đang trong giai
đoạn khởi phát, 84 còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Sự gắn bó giữa chương
trình Trade Point với thương mại điện tử đang tăng dần.
9
Tháng 12.1996:Đại hội đồng Liên hiệp quốc ra nghị quyết yêu cầu các
chính phủ và tổ chức quốc tế áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhằm phát hành và
phổ biến rộng rãi nội dung Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban liên
hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITAD) thảo ra.
Tháng 4.1997: Uỷ ban châu Âu phát hành một tài liệu mang tính chính sách,
vạch khuôn khổ cho thương mại điện tử ở Châu Âu.
Tháng 7.1997: Liên minh châu Âu ra tuyên bố cấp Bộ trưởng tại Bonn ủng hộ
thương mại điện tử.
Tháng 11.1997: Tại cuộc họp ở Vancouver, các nước tổ chức APEC đã
vạch ra một chương trình cơng tác về thương mại điên tử trong khu vực APEC và
thành lập một tổ chức gọi tên là “lực lượng đặc nhiệm của APEC về thương mại
điện tử” (APEC Electronic Commerce Task Force) do Singapore và Australia
làm đồng chủ tịch với chương trình hoạt động hai bước (làm cho các nước thành
viên hiểu rõ về thương mại điện tử và các tác động của nó.
10
Chương III. Cơ sở pháp lý của thương mại điện tử
trên thế giới.
3.1. Một số vấn đề pháp lí trong thương mại điện tử
Các vấn đề pháp lý trong TMĐT liên quan đến nhiều chế định pháp luật thuộc
các lĩnh vực khác nhau. Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp nhau
trực tiếp để tiến hành giao dịch hoặc là những người đã quen biết nhau từ trước. Còn
trong TMĐT, các chủ thể không tiếp xúc trực tiếp với nhau và khơng địi hỏi phải
biết nhau từ trước. Các giao dịch thương mại truyền thống được phân định rõ ràng
về ranh giới quốc gia, trong khi đó TMĐT lại được thực hiện trong môi trường hay
thị trường phi biên giới. Tuy nhiên TMĐT không thể thực hiện được nếu khơng có
người thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nếu như trong thương mại truyền
thống mạng lưới là phương tiện để trao đổi thơng tin thì trong TMĐT mạng Internet
chính là một thị trường. Do vậy các vấn đề pháp lý nảy sinh trong thị trường ảo là
hoàn toàn khác.
3.1.1. Vấn đề pháp lý trong đảm bảo an toàn và độ tin cậy cho các giao
dịch TMĐT.
An toàn và tin cậy là các yếu tố mà người tham gia TMĐT phải cân nhắc trước
khi quyết định tham gia. Nếu người sử dụng cảm thấy thông tin về giao dịch của họ
khơng được đảm bảo an tồn, có thể bị sửa đổi, có thể bị khám phá trái phép họ sẽ
khơng tham gia TMĐT. Do đó, cần phải có hạ tầng viễn thơng an tồn, trên đó có
các phương tiện để bảo vệ thông tin, tránh khám phá, sử dụng trái phép và một hành
lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể tham gia TMĐT
ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương mại mà tính an tồn, độ tin cậy bị đe
doạ như máy trạm, máy chủ, đường truyền. Mặt khác người sử dụng cũng phải học
cách tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kỹ thuật.
Mã hố là một cơng cụ hữu hiệu đảm bảo an tồn cho các giao dịch trong
TMĐT. Nó cho phép người sử dụng bảo vệ được thơng tin của mình một cách an
tồn, đảm bảo nguồn gốc thơng tin và tính tồn vẹn của thơng tin. Tuy nhiên khi sử
dụng mã hố có thể xảy ra trường hợp như bọn tội phạm có thể sử dụng biện pháp
mã hoá để mã hoá các thơng tin. Đồng thời, mã hố nhiều khi cũng gây khó khăn
cho Giám đốc doanh nghiệp kiểm sốt hoạt động của cán bộ dưới quyền.
3.1.2. Vấn đề bảo đảm tính riêng tư:
11
Thông tin cá nhân được luật pháp tôn trọng. Cá nhân được quyền đảm bảo bí
mật các thơng tin về đời tư. Khi thực hiện các giao dịch trong môi trường Internet,
các chủ thể tham gia giao dịch thường được u cầu phải khai báo các thơng tin cá
nhân ví dụ như số thẻ tín dụng, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số
điện thoại cá nhân để phục vụ cho mục đích xác nhận, kiểm tra. Sở dĩ có điều đó là
do các bên tham gia giao dịch không quen biết nhau. Các thông tin về đời tư này dễ
bị bên thứ ba lấy cắp và sử dụng vào mục đích khác, gây phương hại đến người tham
gia giao dịch TMĐT. Do đó, trong TMĐT cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý của
các bên tham gia giao dịch đối với các thông tin của các chủ thể.
3.1.3. Bảo vệ người tiêu dùng:
Do trong TMĐT cả người mua lẫn người bán không cần gặp nhau, biết nhau
nên dễ xảy ra các rủi ro và người bị thiệt thường là người tiêu dùng bởi vì họ phải
trả tiền trước cho các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua qua mạng song lại chưa biết
được chất lượng sản phẩm và việc giao hàng có diễn ra đúng như người bán đã cam
kết không. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn khi hai chủ thể ở hai quốc gia khác nhau,
chịu các luật điều chỉnh khác nhau, thẩm quyền tài phán khác nhau. Do vậy trong
quy định pháp lý cho các bên tham gia TMĐT, các quốc gia đều bảo vệ người tiêu
dùng. Tuy nhiên, do luật pháp các nước là không giống nhau nên nếu hai chủ thể
thuộc hai quốc gia khác nhau thì hai bên cần thoả thuận trước về luật sẽ áp dụng.
3.1.4. Các vấn đề về hợp đồng
Theo pháp luật, hợp đồng được xác lập khi các bên đạt được sự nhất trí về các
điều kiện ghi trong hợp đồng bất kể là thoả thuận miệng hay bằng văn bản. Vấn đề
nảy sinh là xác định nơi giao kết hợp đồng để xác định luật giải quyết khi có tranh
chấp. Trong hầu hết các trường hợp thì quốc gia nơi đặt webserver khơng hề được
quan tâm và khơng phải lúc nào vị trí của webserver cũng rõ ràng. Domain name
cũng không phải là căn cứ để xác định nơi giao kết hợp đồng. Có nhiều doanh nghiệp
Việt Nam buôn bán qua domain name nước ngồi và ngược lại.
Nói chung các loại hợp đồng đều có thể giao kết qua mạng, tuy nhiên cũng có
một số loại hợp đồng theo quy định của pháp luật phải thể hiện bằng văn bản, có
cơng chứng, đăng ký. Luật pháp các nước đều không phủ nhận giá trị pháp lý của
hợp đồng ảo chỉ vì nó là dạng dữ liệu (bản ghi điện tử).
Có nhiều loại hợp đồng trong khơng gian ảo, đó là hợp đồng hàng hố, dịch
vụ và các dịch vụ số hoá. Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm bảo chất lượng.
phù hợp với mục đích sử dụng, an tồn và khơng có khuyết điểm nhỏ. Sẽ khơng
được coi là có khuyết điểm nhỏ nếu như người bán chỉ ra cho người mua trước khi
12
ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ chính là cung cấp sức lao động, kỹ năng. Việc
mua một phần mềm tại cửa hàng thì phần mềm là hàng hố, cịn hợp đồng với một
cơng ty tin học th viết một phần mềm thì đó là hợp đồng cung cấp dịch vụ. Dịch
vụ số hố là người bán có thể gửi cho người mua các loại sản phẩm như băng video,
âm nhạc, sách báo, phần mềm… qua mạng Internet.
3.1.5. Các yêu cầu hình thức văn bản, chữ ký, văn bản gốc
Có một số loại giao dịch pháp luật quy định phải thực hiện bằng văn bản. Các
loại giao dịch này thường là giao dịch về tài sản có đăng ký. Các loại giao dịch mà
pháp luật địi hỏi hình thức văn bản phải là văn bản trên giấy sẽ không tiến hành qua
mạng. Giống như các văn bản trên giấy, các giao dịch TMĐT khi cần phải có chữ
ký để ràng buộc chủ thể với nội dung tài liệu. Chữ ký điện tử sẽ được sử dụng trong
những trường hợp như vậy. UNCITRAL đã nêu luật khung về chữ ký điện tử để các
nước tham chiếu khi xây dựng luật của mình.
Đảm bảo tính ngun vẹn (bản gốc) của tài liệu trong TMĐT là một nhu cầu.
Đối với những tài liệu về quyền sở hữu hay giấy tờ có giá (như vận đơn) khi quyền
đi liền với việc chiếm hữu tài sản đó, thì điều cơ bản là đảm bảo rằng bản gốc phải
ở trong tay người có quyền sở hữu tài sản mà giấy tờ thể hiện. Trong TMĐT con
người có thể tạo được các bản sao giống hệt như bản gốc một cách dễ dàng. Điều
quan trọng là tập dữ liệu do một người khởi tạo không bị thay đổi về nội dung, hay
nói cách khác là đảm bảo sự nguyên vẹn của dữ liệu.
3.1.6. Thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử
Thời gian giao kết rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của
các bên. Do các bên trong TMĐT không quen biết nhau, ở xa nhau, liên lạc với nhau
qua mạng nên xác định thời điểm giao kết thương mại là khó khăn và các bên rất dễ
hiểu khác nhau về thời điểm giao dịch. Điều đó dễ dẫn đến các tranh chấp.
Người được chào hàng có thể chấp nhận lời chào hàng và theo đó tạo ra một
hợp đồng trực tiếp. Sự phản hồi của khách hàng chấp nhận đơn chào hàng là sự trả
giá. Trường hợp này người mua là người trả giá, người bán là người chấp nhận hợp
đồng. Việc xác lập hợp đồng không nhất thiết phải do con người thực hiện, mà có
thể chấp nhận tự động bằng hệ thống máy móc. Ví dụ, khi người chủ đặt máy bán
nước giải khát tự động, được coi là chấp nhận trả giá khi khách bỏ tiền vào máy. Khi
tiến hành TMĐT, người chào hàng có thể quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận,
khi đó thời điểm chấp nhận hợp đồng là thời điểm thông tin chấp nhận của khách
hàng nhập vào hệ thống của người chào hàng.
13
Thời gian nhận được thông điệp điện tử được xác định theo nguyên tắc sau:
a) Nếu người nhận chỉ định một hệ thống thơng tin để nhận thì thời gian nhận là khi
thông điệp điện tử nhập vào hệ thống thơng tin đó hoặc khi nhập vào hệ thống thơng
tin khác nhưng người nhận đang làm việc để truy lục thông điệp điện tử.
b) Nếu người nhận không chỉ định hệ thống thơng tin thì tính thời điểm nhận là thời
điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống thông tin của người nhận.
3.2. Pháp luật về thương mại điện tử trên thế giới
* Các tổ chức Quốc tế
•
•
•
•
•
UNCITRAL - Ủy ban của LHQ về Luật Thương mại Quốc tế: đưa ra Luật
mẫu về Thương mại điện tử vào năm 1996 làm khung hướng dẫn cho các nước
xây dựng các đạo luật về thương mại điện tử.
OECD - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế: nghiên cứu, điều tra một số
lĩnh vực của Thương mại điện tử như thuế, bảo vệ người tiêu dùng và riêng tư
cá nhân, tác động của ICT đến tăng trưởng kinh tế
WIPO - Tổ chức Bảo vệ Sở hữu trí tuệ: về các lĩnh vực bản quyền, nhãn hiệu
thương mại và các vấn đề liên quan đến tên miền
ICANN - giải quyết các tranh chấp về tên miền quốc tế
WTO - giải quyết các vấn đề liên quan đến rào cản thương mại điện tử quốc
tế
* Các nước trên thế giới và khu vực
•
•
•
•
•
EU: Năm 2000 đưa ra hướng dẫn chung về thương mại điện tử “Directive on
electronic commerce”
US: UETA - Luật giao dịch điện tử thống nhất (Uniform Electronic
Transactions Act)
Canada: Luật giao dịch điện tử
Australia: Luật giao dịch điện tử các bang
Singapore: Luật giao dịch điện tử, năm 1998
3.2.1. Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử, năm 1996 Uỷ ban
Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo một luật
14
mẫu về thương mại điện tử, hình thành những quy định mẫu về thừa nhận giá trị
pháp lý của các thông điệp dữ liệu nhằm bảo vệ về mặt pháp lý cho những tổ chức,
cá nhân mong muốn tham gia thương mại điện tử. Luật mẫu có thể được sử dụng
như một tài liệu tham khảo cho các nước trong quá trình xây dựng pháp luật về
thương mại điện tử của mình. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch
thương mại điện tử được thừa nhận giá trị pháp lý và nếu cần thiết thì sẽ có những
hành động thích hợp để tăng cường khả năng thi hành cho những giao dịch bằng
phương tiện điện tử. Luật mẫu được soạn thảo dựa trên những nguyên tắc cơ bản
sau:
•
•
•
•
•
•
Tài liệu điện tử có thể được coi là có giá trị pháp lý như tài liệu ở dạng văn
bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất định;
Tự do thoả thuận hợp đồng;
Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức truyền thông điện tử;
Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về
hình thức hợp đồng; những địi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và
khả năng được thi hành phải được tôn trọng;
Áp dụng về mặt hình thức hơn là quan tâm tới nội dung : luật chỉ áp dụng đối
với hình thức hợp đồng mà không đề cập nội dung, trên cơ sở phải thoả mãn
những đòi hỏi pháp lý nhất định;
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng phải đi trước. Nhiều quốc gia đã thể hiện
các nguyên tắc và nội dung của luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật
quốc gia của nước mình.
3.2.2. . Luật thương mại điện tử của một số nước trên thế giới
Xây dựng khung pháp lý cho TMĐT là việc rất cấp thiết. Để hỗ trợ các hoạt
động TMĐT, nhiều nước trên thế giới đều đã xây dựng khung pháp lý riêng, dựa
trên những khái niệm và những nguyên tắc cơ bản của bộ luật mẫu về Thương mại
điện tử của Uỷ Ban Pháp luật thương mại quốc tế - Liên hợp quốc (UN Commision
on International Trade Law - UNCITRAL) soạn thảo năm 1996. Bộ luật mẫu này
cung cấp các ngun tắc có tính quốc tế, giải quyết một số trở ngại, nhằm tạo ra môi
trường an toàn về pháp lý cho các hoạt động thương mại điện tử.
Nước
Một số văn bản pháp lý
Australia
Luật giao dịch điện tử năm 1999 (căn cứ trên luật mẫu về TMĐT
của UNCITRAL) quy định các nghĩa vụ pháp lý với việc phát
hành đối với phương tiện điện tử
15
Nhật Bản
Hàng loạt luật liên quan đến công nghệ thông tin ban hành trong
năm 2000 cơng nhận tính hiệu lực của việc chuyển các văn bản
bằng phương tiện điện tử. Luật về chữ ký điện tử và tổ chức
chứng thực điện tử của Nhật Bản cũng được ban hành ngày
25/5/2000.
Trung Quốc
Luật hợp đồng thừa nhận tính hiệu lực của các hợp đồng điện tử
Đặc
khu Ngày 7/1/2000, Hồng Kông đã ban hành pháp lệnh giao dịch
Hongkong
điện tử. Văn bản này có quy định về chữ ký điện tử, bản ghi điện
tử và được áp dụng rộng rãi cho mọi hoạt động truyền thơng,
cơng nhận tính pháp lý của các giao dịch điện tử.
Hàn Quốc
Hàn Quốc có Luật Chữ ký điện tử vào năm 1999 và sửa đổi vào
năm 2001
Mehico
Nghị định về TMĐT được thông qua năm 2000
New Zealand Luật Giao dịch điện tử (căn cứ vào luật mẫu về TMĐT của
UNCITRAL) ban hành năm 1998, xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào một giao dịch điện tử. Luật cũng quy
định việc cấp phép qua thiết bị điện tử đối với khu vực công
cộng và trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ thuộc bên thứ
ba. Cơ chế giải quyết tranh chấp điện tử qua Internet được sử
dụng để giải quyết tranh chấp
Thái Lan
Luật Giao dịch điện tử của Thái Lan được thông qua vào tháng
10/2000 đã bao quát cả chữ ký điện tử.
Mỹ
Áp dụng Luật thương mại chung
Áp dụng Luật Chuyển tiền điện tử đối với các sản phẩm lưu trữ
giá trị dưới sự kiểm soát của Cục Dự trữ Liên bang.
Malaysia
Singapore
Philipines
Luật Giao dịch điện tử thống nhất thơng qua năm 1999 thừa nhận
tính bình đẳng của chữ ký điện tử và chữ ký viết tay. Các bang
ban hành luật riêng dựa trên luật giao dịch điện tử thống nhất.
Ngày 1/10/1998, Luật về chữ ký điện tử của Malaysia đã có hiệu
lực.
Ngày 29/6/1998, Luật giao dịch điện tử của Singapore đã ra đời
quy định về chữ ký điện tử, chữ ký số cũng như bản ghi điện tử.
Luật Thương mại điện tử của Philipines ban hành ngày
14/6/2000 đã điều chỉnh về chữ ký điện tử, giao dịch điện tử và
tội phạm liên quan tới thương mại điện tử.
16
Luật Giao dịch điện tử của Brunei được ban hành tháng 11/2000
bao quát đến vấn đề hợp đồng điện tử cũng như chữ ký điện tử
và chữ ký số.
Ấn Độ
Luật về công nghệ thông tin của Ấn Độ được thi hành từ tháng
10/2000 quy định về chữ ký số và bản ghi điện tử.
Bảng 2. Khung pháp lý cho các hoạt động TMĐT của một số nước trên thế giới
Brunei
3.3. Cơ sở pháp lý của thương mại điện tử trên thế giới.
3.3.1. Giá trị pháp lý của các trang thương mại điện tử
Hiện nay theo các quy định hình thức văn bản được sử dụng như là một trong
những hình thức chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương mại và đặc biệt là trong
các hợp đồng kinh tế nó là một yếu tố bắt buộc. Thương mại điện tử đặt ra vấn đề
phải cơng nhận tính pháp lý của các giao dịch điện tử, các chứng từ điện tử. Nhà
nước phải công nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch thông qua
phương tiện điện tử. Pháp lệnh TMĐT đang được soạn thảo để giải quyết vấn đề
này. Nó phải đưa ra khái niệm văn bản điện tử và có những quy định riêng đối với
loại văn bản này. No phải coi các hình thức thơng tin điện tử như là các văn bản có
giá trị tương đương với văn bản viết nếu như chúng đảm bảo được các yếu tố:
+ Khả năng chứa thơng tin, các thơng tin có thể được lưu giữ và tham chiếu lại khi
cần thiết
+ Ðảm bảo được tính xác thực của thơng tin
+ Đảm bảo được tính tồn vẹn của thơng tin
3.3.2. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác thực
của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Chữ ký có một số đặc trưng cơ bản của
là:
1. Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản
2. Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa đựng trong
văn bản. Trong thương mại điện tử, người ta cũng dùng hình thức chữ ký điện tử.
17
Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Một
trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt công nghệ và pháp lý thì chữ ký điện
tử phải đáp ứng được sự an tồn và thể hiện ý chí rõ ràng của các bên về thông tin
chứa đựng trong văn bản điện tử.
Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu và đã được ứng
dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân. Luật pháp điều chỉnh lĩnh
vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử cho
phép các bên khơng liên quan hoặc có ít thơng tin về nhau có thể xác định được
chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp này để xác định
được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù liệu hình thành một cơ quan trung
gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ
quan này hình thành nhằm cung cấp một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp
lý hơn là về mặt công nghệ.
3.3.3.Văn bản gốc
Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản"
trong môi truờng kinh doanh điện tử. Bản gốc thể hiện sự tồn vẹn của thơng tin
chứa đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng thì vấn đề bản gốc
được đặt gắn liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện tử khơng
những chỉ xác định người ký mà cịn nhằm xác minh cho tính tồn vẹn của nội dung
thơng tin chứa trong văn bản. Việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã
hoá tài liệu được ký kết.
Về mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang
nhau về mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị
chứng cứ của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử
đóng m ột vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá
trị của văn bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các
chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn
bản điện tử thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản điện tử
cũng chỉ được xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được nêu ở phần
trên.
Có thể nói vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho thương mại điện tử
phát triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Dẫu là còn nhiều vấn đề mà chúng ta
phải bàn về nó song một thực tế là thương mại điện tử khơng thể phát triển mạnh và
hồn thiện nếu như khơng có mơi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động.
3.3.4. Luật Bảo vệ sự riêng tư trong thương mại điện tử
18