Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phát huy các giá trị truyền thống cho đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh đồng tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.95 KB, 92 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN DƢƠNG

PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Đồng Tháp –12/2010


2

LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành cảm ơn Khoa Giáo dục Chính trị, Khoa Sau Đại học –
Trường Đại học Vinh, các Thầy giáo, Cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và
giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng,
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến q báu để tơi hồn
thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn: lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh Đồng Tháp và các
phòng, ban chức năng của Sở Nội vụ; Khoa Sau Đại học và Lãnh đạo Trường
Đại học Đồng Tháp; lãnh đạo và các Thầy giáo, Cô giáo Trường Chính trị tỉnh
Đồng Tháp; lãnh đạo và cán bộ, nhân viên Thư viện tỉnh Đồng Tháp; gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ giúp đỡ tơi trong suốt thời gian qua.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song những
hạn chế thiếu sót trong luận văn là khơng thể tránh khỏi. Rất mong nhận được ý
kiến đóng góp để luận văn hoàn thiện hơn.

Đồng Tháp, tháng 12 năm 2010
Tác giả


3

MỤC LỤC

A
1
2
3
4
5
6
7
B

1.1
1.2
1.3

2.1
2.2
2.3


C
D

Trang
1
1
3
6
6
7
7
7

Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Ý nghĩa của đề tài
Kết cấu của đề tài
Nội dung
Chương 1: PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA
DÂN TỘC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP XÃ HIỆN NAY LÀ
MỘT YÊU CẦU KHÁCH QUAN
Truyền thống, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Nguyên tắc phát huy các giá trị truyền thống
Những giá trị truyền thống chủ yếu của dân tộc Việt Nam cần được
kế thừa trong đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Kết luận chương 1

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ Ở
TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thực trạng vấn đề phát huy các giá trị truyền thống trong đội ngũ
cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Phương hướng phát huy giá trị truyền thống cho đội ngũ cán bộ xã ở
tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Một số giải pháp phát huy các giá trị truyền thống cho cán bộ xã ở
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay
Kết luận chương 2
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

8

8
20
22
56
58

58
62
63
84
85
87


4


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã tạo tiền đề thúc đẩy các nước trên thế giới tiến lên phía
trước nhằm chiếm lĩnh những tri thức khoa học tiên tiến, hiện đại nhất phục vụ
cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nếu như trước kia, để đánh giá sự
phát triển của một quốc gia được đánh giá chủ yếu về sức mạnh quân sự và sức
mạnh kinh tế, thì ngày nay, sự phát triển của một quốc gia được đánh giá bằng
sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, sự thành bại của một quốc gia, dân tộc phụ
thuộc vào việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất. Tuy
nhiên, sức mạnh tiềm tàng, to lớn tạo nên sức sống mãnh liệt cho dân tộc khơng
thể thiếu đó là các giá trị đạo đức truyền thống. Giá trị đạo đức truyền thống
được xem là thang giá trị tinh thần cao nhất, dòng chảy xuyên suốt trong tiềm
thức của con người, việc giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc luôn được đề cao. Hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về
mặt nhận thức cũng như thực tiễn, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống của dân tộc cịn có những thiếu sót, đặc biệt là trong q trình chuyển biến
kinh tế - xã hội của đất nước diễn ra mạnh mẽ. Đó là, chưa có một hệ thống các
biện pháp để kế thừa tư tưởng, đạo đức của cha ông và phát huy một cách hiệu
quả nhất trong tình hình mới của đất nước, mặt khác bước sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng giá trị
đạo đức nổi lên rõ rệt: khuynh hướng thứ nhất là đã tuyệt đối hoá những giá trị
và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Khuynh hướng thứ hai là coi
thường những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống, coi thường công tác
giáo dục đạo đức, coi đạo đức là giá trị đương nhiên, sẳn có ai cũng biết, khơng
cần bàn đến hoặc coi đạo đức là cái gì đó đã dành riêng cho giáo dục không phải


5

của mọi đối tượng. Đây là nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho xã hội nói chung, cho
cán bộ cấp xã nói riêng.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ phát triển như vũ bão,
q trình giao lưu quốc tế trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội được tăng
cường, phát triển với tốc độ nhanh. Khoảng cách giữa hoà nhập - hoà tan rất
mong manh, vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị đạo đức truyền thống được đặt ra
nóng bỏng, để văn hố đạo đức không phải là sự sao chép “lai căng”, khơng trở
thành bóng mờ của người khác, khơng đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc…là
vấn đề đang được nhiều nước quan tâm, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Đất nước ta đang tiến hành mở cửa, đổi mới hội nhập theo xu thế quốc tế
hóa, tồn cầu hóa, bên cạnh những thuận lợi thì những khó khăn, thời cơ, thách
thức đan xen lẫn nhau tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội của Nước ta. Trong đó nhân tố đạo đức - giá trị đời sống tinh thần trở thành
điểm nóng trong sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển nền kinh tế thị trường, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì
những tác động tiêu cực đang cản trở, loại trừ, huỷ hoại những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc đang phát sinh. Kinh tế thị trường là mãnh đất của chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức phát triển, điều đó đã biến mọi
quan hệ đạo đức trong sáng thành quan hệ mang tính chất vụ lợi trong xã hội.
Nguy cơ của chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức đã dần dần lấn át nền đạo đức
truyền thống của dân tộc. Các chuẩn mực đạo đức phù hợp với sự phát triển bản
tính nhân văn của con người xã hội chủ nghĩa sẽ bị coi là không thực tế, là ảo
tưởng. Thay vào đó là việc lấy đồng tiền làm thướt đo quan hệ đạo đức giữa
người với người. Sự lừa lọc, phản bội, bất chính, bạo lực..rất dễ được xem là thứ
đạo đức hiện đại, nó sẽ cản trở, thậm chí loại trừ những giá trị văn hoá, giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc. Tất cả những điều này sẽ dần làm cho những
giá trị văn hố nói chung, giá trị đạo đức của dân tộc bị phai nhạt, huỷ hoại.


6

Chịu sự tác động lớn của xu hướng đó là đội ngũ cán bộ cấp xã. Họ chưa
hiểu đúng những giá trị đạo đức truyền thống mà cha ông ta đã xây dựng được,
nhận thức về việc bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức còn hạn chế… điều
này ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như lý
tưởng sống của đội ngũ cán bộ cấp xã nói riêng và nhân dân nói chung.
Vấn đề giáo dục đạo đức, nắm bắt tính quy luật, đánh giá đúng thực trạng
về công tác phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, đạo đức của đội ngũ cán
bộ cấp xã, đề xuất những biện pháp nhằm phát huy các giá trị truyền thống quý
báo của dân tộc vào trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tư tưởng, đạo
đức cho đội ngũ cán bộ cấp xã vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc giúp cho việc lãnh đạo, quản lý giáo dục đào tạo được tốt hơn. Việc tìm
ra được những giải pháp đúng đắn, hữu hiệu để giải quyết vấn đề này là một
trong những việc làm hết sức có ý nghĩa hiện nay.
Vì vậy vấn đề “PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY” là vấn đề có ý nghĩa cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đạo đức truyền thống là vấn đề liên quan đến mọi gia đình, mọi ngành
nghề. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết “Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng, đào tạo phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức
sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Theo giáo sư Vũ khiêu: nói đến giá trị đạo đức truyền thống hay giá trị
truyền thống của dân tộc cũng chỉ là một mà thơi. Vì thế, trong phạm vi của đề
tài này tập trung nêu khái quát những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
cũng chính là các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đã có nhiều cơng


7
trình nghiên cứu khoa học viết về đề tài phát huy giá trị đạo đức truyền thống

dân tộc. Liên quan đến đề tài, có thể chia thành các nhóm vấn đề sau đây:
Nhóm vấn đề nghiên cứu lý luận chung về đạo đức, truyền thống đạo đức
của dân tộc bao gồm: Đạo đức mới của GS. Vũ Khiêu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1974; Giáo trình đạo đức học do GS. Nguyễn Ngọc Long chủ biên; Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay, GS. Nguyễn Chí Mì chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999; Chương trình giáo trình đạo đức trong sách giáo khoa các lớp 6,7,8,9,11
bậc THPT ở hệ thống giáo dục Việt Nam; Hồ Chí Minh: “Về giáo dục thanh
niên”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
Nhóm vấn đề nghiên cứu lý luận chung về truyền thống trong đó có đề
cập nhiều đến truyền thống đạo đức của dân tộc, bao gồm:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển của GS.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2/1998; Giá trị truyền thống – nhân
lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc của PGS. Nguyễn
Văn Hiên, Tạp chí Triết học, số 4/1998; Về truyền thống dân tộc của GS. Trần
Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 2/1982; Hồ Chí Minh với văn hố truyền
thống và tiếp xúc văn hố Đơng – Tây của Phan Văn Các, Tạp chí Cơng sản, số
13/1996; Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá
mới ở nước ta của Đổ Huy, Tạp chí Triết học, số 1/1985; Văn hố chính trị Việt
Nam, truyền thống và hiện đại của GS. Nguyễn Hồng Phong, Nxb Văn hố
Thơng tin, Hà Nội, 1998. Viện Thơng tin Khoa học và Xã hội đã sưu tầm và
dịch ra tiếng Việt tập hợp thành cơng trình Truyền thống và hiện đại trong văn
hố do Lại Văn Tồn chủ biên. Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam của Trần


8
Văn Giàu, Nxb Khoa học xã hội, 1980; Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại,

TS Nguyễn Ngọc Vân, Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội số 11/1995; Đến hiện
đại từ truyền thống của Trần Đình Hựu, Nxb Khoa học xã hội, 1994; Truyền
thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước của Phan Huy
Lê, Nxb Hà Nội, 1995; Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng
của nó đối với sinh viên hiện nay của TS. Nguyễn Lương Bằng, Tạp chí giáo
dục số 4/2006. Nhận thức về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và những
vấn đề đạo đức của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của TS. Nguyễn Lương Bằng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, tháng 1/2008. 103 – 110; Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
giáo viên THPT môn Giáo dục công dân của Bộ Giáo dục và Đào tạo có chuyên
đề: “Kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong việc giáo dục thế hệ
trẻ Việt Nam hiện nay”; Luận án Tiến sĩ của Đổ Tuyết Bảo: “giáo dục đạo đức
cho học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện
nay”; Luận văn tốt nghiệp của Lê Thanh Hà: “Phát huy những giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc trong quá trình giáo dục sinh viên hiện nay”; Vấn đề
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do GS.TS.
Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 .v.v.. Như vậy,
việc luận giải vấn đề giá trị, giá trị đạo đức, giá trị truyền thống đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc là một trong
những vấn đề quan trọng và cấp thiết, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên, cán bộ
các cấp trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế. Đây được xem là nhiệm vụ to lớn trong việc xây dựng con người mới,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Vì
vậy, vấn đề phát huy các giá trị truyền thống dân tộc là vấn đề cấp thiết và có ý
nghĩa to lớn trong xu thế tồn cầu hóa ngày nay.


9
Liên quan trực tiếp đến đề tài này có cơng trình của tập thể các tác giả TS.

Đồn Minh Duệ, TS. Nguyễn Lương Bằng, TS. Đinh Thế Định, TS. Nguyễn
Thái Sơn về: “Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho
thanh niên tỉnh Nghệ An”, Nxb Nghệ An, 2004. Tuy nhiên, đến nay chưa có
cơng trình nghiên cứu nào bàn về “Phát huy các giá trị truyền thống cho đội
ngũ cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”. Tuy nhiên, những
kết quả nghiên cứu trên là tư liệu quý giá để tác giả làm cơ sở, tiền đề thực hiện
đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu thực trạng, chỉ ra những bất cập, hạn chế còn tồn tại ảnh
hướng trực tiếp đến công tác phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Đồng
thời, góp phần đưa ra được những giải pháp hữu hiệu để phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp trong
giai đoạn hiện nay nhằm góp phần đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa cho đội ngũ
cán bộ xã về mọi mặt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và vai
trị của nó trong sự hình thành nhân cách con người.
Chỉ ra được thực trạng phát huy các giá trị truyền thống trong đội ngũ cán
bộ cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua.
Đề ra các giải pháp và phương hướng nhằm phát huy những giá trị truyền
thống cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm một số giá trị truyền
thống nổi bật, có tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm và đạo đức của cán bộ
nói chung và phù hợp với tính đặc thù của cán bộ cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp nói


10
riêng có thể phát huy trong giai đoạn hiện nay, gồm các giá trị truyền thống cơ

bản sau: truyền thống đoàn kết; truyền thống yêu nước; lao động cần cù, sáng
tạo; truyền thống nhân nghĩa; truyền thống lạc quan yêu đời, tin tưởng ở tương
lai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
Duy vật lịch sử, những quan điểm của Mác - Ăngghen - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức.
Các tư tưởng chỉ đạo trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các bài phát
biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơng trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đến nội dung đề tài.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu là phương pháp biện chứng
duy vật, các nguyên tắc của lôgic biện chứng như nguyên tắc lịch sử cụ thể,
nguyên tắc phát triển, nguyên tắt thống nhất giữa lôgic và lịch sử… kết hợp với
các phương pháp khảo sát, phương pháp so sánh, tổng hợp…
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần xây dựng, hun đúc, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn hiện nay nhằm hình thành những phẩm chất con người mới - con người xã
hội chủ nghĩa, góp phần chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cấp xã nhằm đáp ứng u cầu
của cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá của tỉnh Đồng Tháp trong thời gian
tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm có 2 chương 6 tiết.


11
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP XÃ HIỆN NAY

LÀ MỘT YÊU CẦU KHÁCH QUAN
1.1. Truyền thống, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
1.1.1. Khái niệm truyền thống
Thuật ngữ “truyền thống” được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến trong
ngôn ngữ tiếng Việt. Trong từ điển Tiếng Việt truyền thống được giải thích là
đức tính, tập quán, tư tưởng, lối sống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác [22; tr.812]
Tiếp cận truyền thống dưới góc độ triết học, trong Luận án tiến sĩ Triết
học “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo
ở Việt Nam hiện nay” TS. Nguyễn Lương Bằng đưa ra định nghĩa: “Truyền
thống là một khái niệm, dùng để chỉ những hiện tượng như tính cách, phẩm
chất, tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, tâm lý, lối ứng xử… được hình
thành trên cơ sở những điều kiện tự nhiên - địa lý, kinh tế - xã hội cũng như hoạt
động của con người trong quá trình lịch sử và được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác trong một cộng đồng người nhất định”.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về truyền thống, tuỳ theo cách tiếp cận với
mục đích nghiên cứu của mình mà đưa ra sự hiểu biết nhất định về truyền thống.
Từ các cách hiểu trên về truyền thống có thể nêu lên những đặc trưng cơ
bản của truyền thống là: tính tập thể, cộng đồng, lịch sử, tương đối ổn định
nhưng khơng vĩnh cửu, có tính năng động, có thể học được và truyền lại được.
Truyền thống là một hệ thống các tính cách, các phép ứng xử của một tập
thể (một cộng đồng) được hình thành, biến đổi và phát triển trong lịch sử, được


12
kết tinh, tích luỹ lại và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chi phối
suy nghĩ và hành động của con người ở hiện tại và tương lai.
Truyền thống là sản phẩm của cả cộng đồng, nó là cái tương đối ổn định,
tương đối bền vững, ít biến đổi nhưng như vậy khơng có nghĩa truyền thống là
cái bất biến, vĩnh hằng, mà có sự vận động, biến đổi và phát triển.

Tóm lại truyền thống có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Truyền thống là những giá trị tinh thần, tư tưởng, tâm lý, tập quán, thói
quen…thường là những giá trị tinh thần tốt có tác dụng củng cố, phát triển quan
hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn trong hiện tại
để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân cách trong tương lai.
+ Truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người
(thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, dịng họ, gia đình, làng xã…) là bản sắc của các
cộng đồng người.
+ Truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi trường
tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất và kết
cấu kinh tế - xã hội, tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của mơi
trường văn hố khu vực và trên thế giới.
+ Truyền thống được nhiều người thừa nhận là những giá trị tốt đẹp cần
giữ gìn, phát triển, được mọi người thực hiện như yêu cầu tất yếu và có tính kế
thừa từ lớp người trước sang lớp người sau, nó ăn sâu vào tâm lý, vào phong tục,
tập quán, nếp nghĩ… của con người.
1.1.2. Cơ sở hình thành, phát triển của các giá trị truyền thống
Truyền thống của bất cứ một dân tộc nào cũng đều được bắt nguồn trên
những cơ sở và điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội nhất định. Truyền thống không
phải là cái từ trên trời rơi xuống cũng không phải là sự ban ơn của một thế lực
siêu nhiên nào mà là một quá trình hình thành, tồn tại và phát triển lâu dài trong
cái nôi của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam với những điều kiện tự nhiên, kinh tế,


13
văn hố, xã hội mang đặc trưng riêng đã góp phần hình thành nên những giá trị
văn hố truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Nói đến dân tộc Việt Nam là
nói đến một dân tộc giàu truyền thống, đậm đà, tinh tuý, kết tinh bởi giá trị tinh
thần cao quý và lâu đời từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hơn 4000 năm dựng
nước và giữ nước.

Truyền thống của dân tộc được hình thành trên những cơ sở sau đây:
+ Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý
Con người Việt Nam cư trú trên một phần của bán đảo Đông Dương, nằm
ven biển Thái Bình Dương. Nước Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài
4.510km, tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, giáp với Lào và Campuchia ở
phía Tây; phía Đơng giáp biển Đơng.
Địa hình Việt Nam đa dạng: đồng bằng, núi đồi, bờ biển và thềm lục địa.
Địa hình thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đơng Nam. Diện tích đồi núi chiếm tới
¾ diện tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Đồng Bằng chiếm ¼ diện
tích trên đất liền và bị đồi núi ngăn cách thành nhiều khu vực. Hai đầu đất nước
có hai đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu, là hai vựa lúa lớn chủ yếu của cả nước
đó là đồng bằng Bắc bộ và đồng bằng Nam bộ.
Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và
độ ẩm lớn. Phía Bắc chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa. Biển Đơng ảnh hưởng
sâu sắc đến tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm của đất liền. Khí hậu nhiệt đới gió
mùa ẩm khơng thuần nhất trên tồn lãnh thổ nên hình thành nên các vùng và
miền có khí hậu khác nhau rõ rệt. Khí hậu Việt Nam thay đổi theo mùa.
Do khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm, nhiều mưa, nhiều ánh sáng nên con người
Việt Nam trong quá trình thích nghi vừa gặp những thuận lợi như sự đa dạng về
sinh học, sự phong phú về sản vật, cây xanh, sơng ngịi..., lại vừa đối mặt với
những khó khăn như thời tiết khắc nghiệt, thiên tai liên tiếp xảy ra. Lụt, bão, hạn
hán xảy ra thường xuyên khiến cho người Việt Nam sớm phải liên kết lại, tổ


14
chức nội bộ chặt chẽ, tạo thế ổn định để bám trụ, chống sự đe dọa của thiên
nhiên. Cũng từ yếu tố này hình thành nên tính tương trợ để cùng nhau vượt qua
khó khăn. Tính đa dạng của tự nhiên cũng góp phần khơng nhỏ tạo nên tính linh
hoạt, dễ thích nghi với mọi hồn cảnh của con người Việt Nam.
Về vị trí địa lý, Việt Nam có một vị trí đặc biệt. Nằm ở trung tâm khu vực

Đơng Nam Á là một trong những cầu nối quan trọng nối Đông Nam Á lục địa
với Đông Nam Á hải đảo. Điều này tạo cho Việt Nam có cả văn hóa đất liền và
văn hóa biển. Việt Nam cịn là vùng đất trung chuyển Bắc – Nam. Nên trong văn
hóa Việt Nam cịn thể hiện sâu đậm nét văn hóa phương Bắc và phương Nam.
Theo các nhà nghiên cứu, sự hình thành của người Việt cổ là từ các cuộc di
chuyển lớn của các tộc người trong quá trình đi tìm vùng đất mới. Do đó, người
Việt có sự đan xen về văn hóa.
Vị trí là cầu nối, nước Việt Nam đã tạo ra cho văn hóa Việt Nam sự thuận
lợi trong giao lưu văn hóa, dễ tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, trong
đó có các nền văn hóa lớn như Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp...tuy nhiên, do vị trí địa
lý đặc biệt đó khiến cho Việt Nam luôn phải đối mặt với âm mưu của các nước
lớn ln tìm cách chiếm ngả đường trung chuyển quan trọng trong khu vực. Vì
thế tâm hồn, trí tuệ, sức sáng tạo của ông cha ta xưa tập trung chủ yếu là vào giải
quyết những khó khăn do sự đe dọa xâm lược của các nước lớn. Ý chí kiên
cường và tinh thần đề cao cảnh giác của người Việt cũng bắt nguồn từ đó.
Tóm lại, với mơi trường địa lý từ nhiên như vậy, đã hình thành nên tính
cách cởi mở, hài hịa, dễ thích nghi, bản lĩnh của con người Việt Nam trong suốt
tiến trình lịch sử, đồng thời bắt nguồn cho sự hình thành các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta từ thuở xa xưa.
+ Hồn cảnh kinh tế - văn hố - lịch sử - xã hội
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, vào khoảng 5.000 năm
trước Công nguyên, nhiều làn sóng di cư liên tiếp của chủng người Mongoloid


15
xuống Nam Trung Hoa và Bắc Đơng Dương làm hình thành nên một chủng
người mới, khoa học gọi là chủng người Nam Á. Từ chủng người này chia tách
thành một loạt các dân tộc mà sử học gọi thời kỳ này là Bách Việt (100 dân tộc
Việt). Sau đó, các dân tộc này di cư đến những vùng đất khác nhau sinh sống và
sử dụng ngơn ngữ riêng, trong đó có người Việt cổ. Như vậy, lịch sử hình thành

của tộc người Việt cho thấy có sự pha trộn của nhiều dòng máu khác nhau trong
dòng máu Việt.
Trong lịch sử, Việt Nam là một trong những khu vực phát sinh nền sản
xuất nông nghiệp rất sớm với nền văn minh lúa nước. Người Việt từ thời Hùng
Vương đã liên tiếp mở rộng lãnh thổ và tập trung ở những vùng đồng bằng ven
các con sông lớn như sông Bắc Trung bộ và Bắc bộ. Do tập quán sống tập trung
nên các tộc người Việt sớm hình thành mơ hình quản lý đầu tiên trong lịch sử là
công xã.
Do phải thường xuyên đối phó với bão, lụt, hạn hán nên việc trị thủy và
chống xâm lược địi hỏi khơng chỉ những người trong một công xã liên kết với
nhau mà phải có nhiều cơng xã liên kết với nhau. Sự liên kết này ngày càng chặt
chẽ và quy mô ngày càng lớn dần, từ cơng xã liên kết với nhau hình thành bộ
lạc. Đến khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, nhà nước Văn Lang ra đời–
nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam, đánh dấu kỷ nguyên mới của dân tộc
Việt Nam.
Đây có thể được xem là giai đoạn hình thành lớp văn hóa bản địa của
người Việt Nam. Về sau, trong quá trình phát triển của lịch sử, mặc dù có giao
lưu với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới nhưng điều đó cũng chỉ đủ khả
năng tạo thành lớp phủ văn hóa, cịn gốc rễ văn hóa, những giá trị truyền thống
sâu nhất của dân tộc Việt Nam đã được hình thành trong giai đoạn đầu của lịch
sử Việt Nam.


16
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, kéo dài hơn 1000 năm, Việt Nam bị
các triều đại phong kiến Trung Quốc thay nhau đơ hộ. Có thể nói, đây là thời kì
khó khăn nhất của dân tộc Việt Nam, 1000 năm bị đô hộ là 1000 năm thử thách
sự tồn vong của dân tộc, tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo
tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc tinh hoa văn hóa của dân tộc, ý chí
quyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc cũng được nảy sinh từ đây.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam, kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, xây dựng và bảo vệ nền
độc lập dân tộc, chấm dứt 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm
1010, Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô về Thăng Long. Năm 1284, cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ I thắng lợi. Năm 1285 cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ II thắng lợi. Năm
1288 kháng chiến chống Nguyên – Mông xâm lược lần thứ III kết thúc với trận
thắng trên sông Bạch Đằng. Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm
lược thành công với chiến thắng vang dội ở Chi Lăng. Giai đoạn gần 100 năm
(1858 – 1954), nước ta bị thực dân Pháp cai trị, đã biến Việt Nam thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu
tháng 7 năm 1954 kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
Hơn 20 năm (1954 – 1975) trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 kết thúc thắng
lợi. Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ ngun của hịa bình, độc lập dân
tộc, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Năm 1979,
tiếp tục cuộc cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc phía Bắc và cuộc chiến tranh bảo
vệ biên giới Tây Nam.
Nhìn xuyên suốt lịch sử quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt, kiên
cường của dân tộc Việt Nam cho chúng thấy rõ bản lĩnh của con người Việt


17
Nam. Trong đó, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo
lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đồn kết
vì đại nghĩa của dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao
động cần cù, sáng tạo và kiên nhẩn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với
những khó khăn, thách thức tưởng chừng như có lúc khơng thể vượt qua đã tạo
ra sự gắn bó chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con

người trong quan hệ gia đình, cộng đồng, nhà nước, dân tộc. Lịch sử như thế
cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân, tương ái, sống có đạo lý,
trọng nhân nghĩa; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng, truyền
thống hiếu học, khoan dung. Ðây là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận của
dân tộc ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về văn hóa, do vị trí là trung tâm của khu vực Đơng Nam Á nên Việt
Nam từ xưa đã có điều kiện giao lưu, tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau trên
thế giới. Toàn bộ lịch sử Việt Nam có ba lớp văn hóa chồng lên nhau: lớp văn
hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao
lưu với phương Tây. Nhưng điểm đặc biệt là văn hóa bản địa trội hơn và vững
chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, khơng những cịn biết sử
dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Chiến
tranh liên tục, kéo dài hàng ngàn năm, vì thế tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi
bật của Việt Nam là tư tưởng yêu nước, thấm sâu và bao trùm tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Mặt khác, Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em cùng
chung sống trên một lãnh thổ, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa, truyền thống
đặc trưng khác nhau, vì thế dân tộc Việt Nam vừa có một nền văn hóa vừa đa
dạng, phong phú, lại vừa thống nhất trong đa dạng. Với một nền văn hóa nhiều
bản sắc độc đáo, phong phú đã tạo nên nhiều phong tục, tập quán khác nhau.
Người Việt thích ăn chắc mặc bền. Đơn giản trong ăn uống nhưng vẫn đảm bảo
các chất cần thiết cho cơ thể; giản dị trong ăn mặc, thường phụ nữ Việt chọn


18
chất liệu vải mỏng, nhẹ, thoáng, màu nâu, đen phù hợp với xứ nóng. Nhà ở của
người Việt gắn liền với thiên nhiên, sông nước, thường là nhà sàn, mái lợp lá
tranh, vị trí cất nhà gần sơng rạch; phương tiện di chuyển chủ yếu là đường thủy;
các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội gắn liền với tính cộng đồng làng
xã. Tín ngưỡng và tơn giáo của Việt Nam xuất hiện từ rất sớm. Ảnh hưởng của
nền văn minh lúa nước nên tín ngưỡng của Việt Nam là tín ngưỡng dân gian,

sùng bái tự nhiên và sùng bái con người, tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ
thần, thờ cả động vật và thực vật. Tín ngưỡng sùng bái con người ở Việt Nam
phổ biến nhất là thờ cúng tổ tiên, nó như trở thành một thứ tơn giáo phổ biến của
người Việt Nam. Ngồi ra cịn thờ Thành hồng, thờ vua tổ, thờ “Tứ bất tử”
(Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Chúa Liễu Hạnh). Mặc dù có
trường hợp mê tín dị đoan nhưng tín ngưỡng dân gian Việt Nam ln có sức
sống mạnh mẽ và hịa trộn vào các tơn giáo chính thống. Đây là điểm đặc biệt
của tín ngưỡng ở Việt Nam. Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo như:
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Kitô giáo...nét riêng trong tín ngưỡng tơn giáo ở
Việt Nam đó chính là việc thờ nhiều vị thần, thánh, phật, các con vật linh thiêng
và cả những vị anh hùng có cơng với nước chung trong một ngơi đình, chùa. Do
có đến 54 dân tộc anh em nên ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam cũng phong phú,
đa dạng với nhiều ngôn ngữ, chữ viết khác nhau. Về văn học, nghệ thuật, kiến
trúc, hội họa, điêu khắc đều có những nét rất đặc trưng thể hiện tính phong phú
của các dân tộc anh em cùng sống trên mãnh đất mang hình chữ S.
Ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Thiên chúa giáo đến việc hình
thành những giá trị truyền thống đạo đức, tinh thần của dân tộc. Trên đất nước
Việt Nam đã và đang có sự tồn tại của nhiều tơn giáo, đạo giáo khác nhau nhưng
xét về khía cạnh tác động ảnh hưởng đến lịch sử hình thành và phát triển của các
giá trị truyền thống dân tộc thì nổi lên có 3 tôn giáo lớn là Nho giáo, Phật giáo
và Thiên chúa giáo. Theo các nhà nghiên cứu, sự hình thành và phát triển của


19
các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam luôn có sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau, trong đó có sự ảnh hưởng nhất định của Nho giáo, Phật giáo và
Thiên chúa giáo.
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, Phật giáo du nhập vào nước ta rất sớm, bắt
đầu từ những ơng thầy người Ấn. trong q trình truyền bá vào nước ta, giáo lý
Phật giáo với những quan điểm tương đồng với phong tục, tập quán, tình cảm

của người dân nên nó bén rễ và phát triển rất nhanh. “Suốt hai triều đại lớn Lý,
Trần, đạo Phật là quốc đạo” [24, tr.70]. Trong giai đoạn phát triển cực thịnh của
Phật giáo trong xã hội vẫn khơng có tình trạng Phật giáo lấn át Nho giáo và Đạo
giáo, đó là điểm khác biệt làm cho Phật giáo ở Việt Nam mang màu sắc của dân
tộc Việt Nam. Đến thời nhà Lê, Nguyễn, đạo Phật khơng cịn là quốc đạo nữa,
Nho giáo trở thành quốc giáo. Suốt quá trình tồn tại trên đất nước ta, Phật giáo
đã in dấu ấn khá sâu sắc vào văn hóa dân tộc, phong tục nhân dân, nghĩa là đến
các giá trị tinh thần truyền thống của nhân dân Việt Nam. “Tịnh độ tông Phật
giáo đem lại tư tưởng vị tha trong sạch, tư tưởng từ bi cứu khổ cứu nạn, tinh
thần bình đẳng chất phát gốc ở nền tảng cơng xã nơng thơn, lịng yêu thương
người như thương thân mình, một tình thương bao la, tình thương đồng loại và
thương cả sinh vật nữa”[24, tr.70]. Đó là những điểm nổi bật của đạo Phật, tuy
nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì giáo lý Phật giáo cũng để lại
những hạn chế về tư tưởng an phận, vơ thường, mê tín là điều khơng tránh khỏi.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, phát triển cực thịnh dười triều
nhà Lê, Nguyễn. Tuy nhiên, kể từ đây Nho giáo phát triển rất chậm và khơng
đóng góp nhiều vào đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam, nếu so
với Phật giáo và Đạo giáo thì Nho giáo khơng có sự đóng góp gì đáng kể. Vì:
“thứ nhất, Nho giáo tự trình diện như cơng cụ chính thức và chủ yếu của nhà
cầm quyền độ hộ để cai trị dân Giao Chỉ…..thứ hai, điều này có lẽ quan trọng
nhất, là nho giáo chưa hề cung cấp được cho nhân dân một ý thức tư tưởng cần


20
thiết để khởi nghĩa chống chính quyền đơ hộ; trừ một trường hợp hạn hữu, nghìn
năm mới có, thì chưa thấy nhà nho nổi tiếng nào đứng đầu hay làm tham mưu
khởi nghĩa; ngược lại, Nho giáo dạy trung thành với hoàng đế Hán, Đường. Một
tư tưởng, một chủ nghĩa, một tơn giáo mà khơng đóng góp vào cuộc vận động
độc lập tự chủ, thì đừng mong bắt rễ sâu trong dân chúng nước Việt Nam”[24,
tr.75]. Trong bản chất của nó, Nho giáo là đạo trị quốc, nó thích hợp với bộ máy

thống trị của chế độ phong kiến, địa chủ. Trong thời kỳ độc lập nó vươn ra bành
trướng mạnh mẽ. Dưới thời Lý, Trần, trong triều đình khơng còn số tăng sư làm
quan nữa, Nho giáo thắng thế tuyệt đối. Các nhà nho ra sức cơng kích Phật giáo
gay gắt, họ xem Phật giáo, Đạo giáo và các tôn giao khác đều là tà giáo. Điều
này thật trái ngược so với thời Phật giáo phát triển cực thịnh dưới triều nhà Lý.
Tuy nhiên, xét cho cùng, trong hơn năm trăm năm tồn tại, Nho giáo cũng đã có
những đóng góp tích cực, bởi vì “Nho giáo chủ trương nhập thế rất mạnh, xem
việc tề gia trị quốc là việc của nhà nho, cho nên nó phải tổng kết những kinh
nghiệm sinh hoạt xã hội do đó phần đóng góp của nó cịn đa diện hơn so với
đóng góp của Phật giáo. Trong luân thường, Nho giáo có một số bộ phận được
xem là những giá trị phổ biến của con người”. Tiếp thu và phát triển tư tưởng
của Nho giáo về “trung quân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “trung với nước,
hiếu với dân”. Tóm lại, mặc dù Nho giáo là công cụ của chế độ phong kiến cai
trị nhưng nó vẫn có những đóng góp nhất định vào giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam và những dấu ấn của nó vẫn cịn tồn tại trong đời sống xã hội
người Việt Nam cho đến ngày nay.
Thiên chúa giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVII. Cũng như Nho
giáo, Thiên chúa giáo tự trình diện là công cụ xâm lược của thực dân Pháp. Khi
du nhập vào Việt Nam, Thiên chúa giáo không chịu sự dung hòa với các phong
tục, tập quán ngàn đời của người dân Việt mà trái lại, nó muốn đánh đổ nền văn
hóa bản địa của dân tộc, với tham vọng biến Thiên chúa giáo là quốc giáo của


21
người dân Việt Nam. Tuy nhiên, với cách thức hoạt động, cùng với những đặc
quyền, đặc lợi của chính quyền thực dân phong kiến dành cho nó, người dân
Việt Nam đã thấy rằng Thiên chúa giáo là “đạo của Tây”. “Vì nó là “đạo của
Tây”, đạo của kẻ xâm lược, kẻ thống trị nên khơng đáng tin tưởng như chính
bọn xâm lược, bọn thống trị” [24, tr.78]. Sau thực dân Pháp, đến đến quốc Mỹ
cũng sử dụng Thiên chúa giáo ở Việt Nam như một công cụ xâm lược. Theo

Giáo sư Trần Văn giàu: Thiên chúa giáo vào Việt Nam khơng tự trình diện như
một luồng văn hóa của lồi người. Các nhà truyền giáo Thiên chúa phương Tây
và học trị ở xứ ta chỉ biết truyền óc mê tín và tư tưởng nô lệ được che đậy dưới
màn tôn giáo. Chính vì thế, Thiên chúa giáo đã tồn tại ở Việt Nam gần 300 năm
mà không phát triển và cũng khơng đóng góp được gì đáng kể cho lịch sử phát
triển của nền văn hóa Việt Nam.
Tác động của Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với những giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, Việt Nam
bước vào thời kỳ sôi động, chế độ phong kiến khủng hoảng sâu sắc, kéo theo
nền đạo đức được xây dựng trên nền tảng của Nho giáo cũng khủng hoảng nặng
nề. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân xâm lược nổ ra liên tiếp nhưng
kết thúc đều thất bại. Hỗn loạn quân sự, chính trị, xã hội, đạo đức, luân thường
bị chà đạp, đảo lộn. Trong tình hình đó, có một số ý kiến địi phục cổ theo Nho
giáo, có ý kiến đòi hẳn theo đạo đức phương Tây. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi ở
đây không phải là giải quyết vấn đề đạo đức bằng lý thuyết, bằng báo chí, mà
phải xuất phát từ thực tiễn của đời sống nhân dân, thơng qua phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Khi xét vấn đề này, giai cấp tư sản
không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, họ chủ trương “đề huề” với Pháp nhằm
bảo vệ quyền lợi của họ hơn là quyền lợi của giai cấp cơng nhân và nhân dân
Việt Nam. Vì thế, vấn đề phải có một lý luận khoa học dẫn đường để soi sáng
con đường cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, chấn hưng nền


22
đạo đức truyền thống của Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết. Kinh nghiệm từ sự
thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sau hơn 50 năm kể từ
sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho thấy, những người cộng sản theo
chủ nghĩa Mác – Lênin chính là những người ở trung tâm của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Một điểm cần lưu ý là, các tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật
giáo, Thiên chúa giáo đều do người ngoài mang vào Việt Nam. Cịn Chủ nghĩa

Mác – Lênin thì do chính người Việt Nam lĩnh hội và mang về Việt Nam truyền
bá, phổ biến – đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các tôn giáo kia vào Việt
Nam do ngẫu nhiên, tức do nguyên nhân bên ngoài xã hội Việt Nam là chủ yếu,
chứ không phải do nhu cầu của xã hội Việt Nam lúc ấy cần. Chủ nghĩa Mác –
Lênin thì vào Việt nam do nhu cầu của cuộc vận động giải phóng dân tộc, khi
mà hệ ý thức phong kiến đã thất bại, còn các màu sắc của hệ ý thức tư sản thì bất
lực hồn tồn. “Chủ nghĩa Mác – Lênin tự trình diện trước quốc dân ta như một
phương lược cứu quốc đầy đủ nhất; cho nên quốc dân ta vốn yêu nước rất dễ
tiếp đón Chủ nghĩa Mác – Lênin” [24, tr.83]. Với những giá trị to lớn của mình,
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chinh phục được trí tuệ và tâm hồn Việt Nam. Với trí
tuệ tuyệt vời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng các học
thuyết, nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, dẫn dắt phong trào cách mạng Việt Nam đến con
đường vinh quang, đưa dân tộc Việt Nam thốt khỏi kiếp người nơ lệ, bị đàn áp,
bóc lột, trở thành người dân độc lập, tự do. Ngun Tổng Bí thư Lê Duẫn đã
nói: đành rằng phải có sự lãnh đạo của Đảng, phải có Chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhưng cũng cần phải nhận rõ rằng Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đi vào dân tộc
Việt Nam một cách sâu sắc, tư tưởng cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
đạo lý làm người của dân tộc ta đã kết hợp làm một. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã
hòa với truyền thống cách mạng sẳn có của dân tộc ta và trở thành sức mạnh của
dân tộc nên cách mạng mới có điều kiện dễ dàng thắng lợi hơn.


23
1.2. Nguyên tắc phát huy các giá trị truyền thống
1.2.1. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống là một yêu cầu khách quan
của sự phát triển xã hội
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế của các hình thái
kinh tế - xã hội, đó là một q trình lịch sử tự nhiên với sự vận động từ xã hội
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ

nghĩa. Thực tế đã chứng minh rằng: hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng kế
thừa và phát triển hơn hình thái kinh tế xã hội trước và là giai đoạn phát triển
cao hơn, tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn. Vì thế, việc phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong xã hội hiện đại là một yêu cầu khách quan, tuân theo đúng quy luật
của sự phát triển.
Thế kỷ XX và đầu thế kỷ thứ XXI, dân tộc Việt Nam đang đối mặt với
nhiều sự biến động lớn trong đời sống xã hội. Sự thay đổi, biến động đó khơng
chỉ được nhận thấy rõ ở sự biến mất hay xuất hiện mới của các yếu tố, các lĩnh
vực trong đời sống kinh tế - văn hóa – chính trị- xã hội mà cịn ở nhịp độ và tốc
động vận động, thay đổi. Q trình quốc tế hóa, tồn cầu hóa đang diễn ra ngày
càng nhanh chóng, bên cạnh mặt tích cực của nó là kéo giảm khoảng cách về
thời gian, không gian giữa các quốc gia, dân tộc với nhau; tạo điều kiện thuận
lợi trong việc giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
mặt tiêu cực của nó về sự xâm nhập dễ dàng của các nền văn hóa ngoại lai, phản
động, khơng phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc làm ảnh hưởng mạnh mẽ
đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc là một vấn đề cấp thiết đặt
ra đối với nhiều nước trên thế giới. Con người Việt Nam không chỉ là một dân
tộc của một quốc gia mà là cơng dân tồn cầu. Tất nhiên, cùng với hóa trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì khơng có nghĩa là mọi gía trị truyền thống
dân tộc cũng bị phai nhạt, hịa tan. Phát huy nội lực con người, khẳng định được


24
bản sắc và bản lĩnh Việt Nam thực sự trở thành một vấn đề có tính cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Nguyên tắc để đảm bảo phát huy các giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam
- Phát huy truyền thống dân tộc không phải là bê nguyên xi cái cũ đặt bên
cạnh cái mới một cách tuỳ tiện, chung chung mà phải có cái nhìn biện chứng, có
quan điểm lịch sử cụ thể nhằm phát huy truyền thống dân tộc một cách khoa học

và hiệu quả.
- Phát huy truyền thống là dựa trên cơ sở có kế thừa, chọn lọc những giá
trị truyền thống tốt đẹp và phù hợp với điều kiện mới.
- Phát huy truyền thống đạo đức dân tộc là làm cho những truyền thống đó
phát triển, tiến bộ nhưng không làm mất đi giá trị của nó. Trên cơ sở những gì
đã có, gọt giũa, đúc kết nên những truyền thống tốt đẹp hơn.
Cần phải tránh hai khuynh hướng sau
+ Khuynh hướng thứ nhất: đề cao q mức truyền thống, tuyệt đối hố vai
trị của đạo đức truyền thống, từ đó đi đến phủ nhận, coi nhẹ đạo đức mới.
+ Khuynh hướng thứ hai: phủ nhận mọi giá trị cũ, quay lưng lại với
truyền thống đạo đức của dân tộc. Lãng quên, thờ ơ, xem nhẹ các giá trị đạo đức
của dân tộc, coi thường di sản văn hoá và bản sắc của dân tộc.
1.2.3. Mối quan hệ giữa giá trị truyền thống và đạo đức hiện nay
- Truyền thống là sản phẩm của cả cộng đồng và được lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Nó là cái tương đối ổn định, bền vững, ít biến đổi nhưng khơng có
nghĩa là bất biến, vĩnh hằng mà nó có sự vận động, biến đổi, ln được bổ sung
bởi những yếu tố mới. Hay nói cách khác, truyền thống có mối quan hệ với hiện
tại.
- Giá trị truyền thống và hiện nay có quan hệ vận động liên tục, gối tiếp
nhau, trên cơ sở kế thừa và phát triển. Ranh giới giữa truyền thống và hiện tại


25
mang tính tương đối, truyền thống lấn dần vào hiện tại, thúc đẩy hiện tại đi tới
tương lai, và hiện tại đi tới tương lai nhờ năng lượng của truyền thống và nâng
cao truyền thống. Khơng có cái đạo đức hiện tại nào không bắt đầu từ đạo đức
truyền thống, và cũng khơng có cái truyền thống nào lại cắt đứt mối liên hệ với
hiện tại. Đạo đức truyền thống là cội nguồn của đạo đức hiện tại, là sức mạnh
tiếp sức cho đạo đức hiện nay. Chính vì vậy, chúng ta cần trân trọng, bảo tồn
những giá trị truyền thống, đồng thời phát huy những giá trị truyền thống đó

trong thời đại ngày nay.
1.3. Những giá trị truyền thống chủ yếu của dân tộc Việt Nam cần
đƣợc kế thừa trong đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay
GS. Vũ Khiêu đã khẳng định truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
gồm: “Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo, tinh thần
nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người”, trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nước cũng khẳng định: “Những giá trị văn hoá truyền thống bền
vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu
sắc, đạo lý thương người như thể thương thân, đức tính cần cù…”. Xét về ý
nghĩa giáo dục, giá trị của các truyền thống và tình hình thực tiễn, trong việc
giáo dục truyền thống đạo đức cho đội ngũ cán bộ xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện
nay, cần phát huy tốt một số truyền thống chủ yếu sau:
1.3.1. Truyền thống yêu nước
Trong các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, yêu nước là
giá trị cao nhất, “là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến
đương đại”, “tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất
của nhân dân, của dân tộc Việt Nam” [24, tr.100].
Khi xem xét lịch sử hình thành và phát triển của truyền thống yêu nước,
chúng ta cần xem xét qua các giai đoạn lớn như sau:


×