Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn lớp 12, đề tài rèn kĩ năng làm bài nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 52 trang )

ĐỀ TÀI: “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học
cho học sinh lớp 12”
TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Cùng với các bộ môn khác góp phần hình thành nhân cách học sinh,
mơn văn trong trường phổ thơng có tầm quan trọng đặc biệt, tác động trực
tiếp đến phẩm chất, tư tưởng tình cảm của người học. Một bài thơ hay, một
trích đoạn đặc sắc khắc họa sinh động hình tượng nhân vật, sẽ tác động đến
tâm hồn và thái độ sống của học sinh. Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm
trù nghệ thuật, khám phá và chuyển tải cái hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học
sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể loại, được tuyển chọn trong chương trình sách
giáo khoa đều tốt lên vẻ đẹp riêng. Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học
gắn liền với tầm đón nhận của người đọc.
Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, học sinh còn phải viết các bài
làm văn theo quy định của phân phối chương trình. Việc viết bài của học sinh
khơng chỉ kiểm tra xem các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn
chương mà còn rèn khả năng sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt, cách giao tiếp
ứng xử. Qua đó giúp giáo viên đánh giá tồn diện hơn năng lực của từng học
sinh và đưa ra cách giảng dạy phù hợp.
Thế nhưng hiện nay tình trạng học sinh ngại học văn, sợ làm văn đang
diễn ra rất phổ biến. Dù biết rằng môn Ngữ văn là một mơn thi bắt buộc trong
kì thi THPTQG, câu hỏi nghị luận văn học chiếm 5/10 điểm toàn bài nhưng
phần lớn học sinh khơng có thói quen tìm hiểu, khám phá bài học. Khi kiểm
tra thì dựa vào sách tham khảo, hoặc đọc đề bài xong là đặt bút viết ngay,
nghĩ đến đâu viết đến đấy vì thế có những bài văn ý tưởng nghèo nàn, lặp ý
hoặc hết sức ngô nghê, dở khóc, dở cười. Hạn chế đó thể hiện rõ trong kì thi
THPTQG. Theo kết quả thống kê, điểm trung bình mơn thi Ngữ văn của cả
khối 12 của nhà trường năm 2015 - 2016 là 5,18; năm học 2016 - 2017 là
5,64, năm học 2017 - 2018 là 5,95 . Kết quả đó rất thấp so với nhiều trường
THPT trong tỉnh.
Xuất phát từ những quan điểm nêu trên, năm học 2018 - 2019, tôi đã lên


kế hoạch nghiên cứu, vận dụng một số giải pháp để nâng cao kĩ năng làm văn
nghị luận văn học cho học sinh lớp 12. Qua một thời gian áp dụng sáng kiến,
bước đầu tôi nhận thấy tương đối khả quan.
1


2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
2.1. Điều kiện:
- Các cấp quản lý: Tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về phương pháp
dạy làm văn ở bậc THPT một các rộng rãi và thường xuyên hơn.
- Cấp cơ sở: Đây là một nội dung quan trọng trong dạy học Ngữ văn hiện
nay, đó cũng là một nội dung khơ khan và khó vì vậy đề nghị nhà trường tăng
cường thêm nhiều đầu sách hướng dẫn kĩ năng làm các dạng làm văn để giáo
viên chúng tơi có thêm nhiều tài liệu để nghiên cứu phục vụ giảng dạy.

2.2. Thời gian áp dụng thử nghiệm sáng kiến:
Tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến cho đối tượng học sinh lớp 12 từ
tháng 9 năm học 2018 - 2019
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến :
- Lớp thực nghiệm: 12G, 12H
- Lớp đối chứng : 12K
3. Nội dung sáng kiến :
Sáng kiến tập trung vào các vấn đề sau:
3.1. Thực trạng làm bài văn nghị luận văn học của học sinh lớp 12 hiện nay.
3.2 Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận văn học cho học
sinh lóp 12
- Nắm chắc kiến thức cơ bản về văn bản văn học
- Rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học : tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết
đoạn văn, bài văn, trình bày dẫn chứng, chuyển ý, hành văn
- Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để tạo hứng thú cho học sinh

4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Qua kiểm chứng, người viết nhận thấy sáng kiến “Rèn luyện kĩ năng làm
văn nghị luận văn học cho học sinh lớp 12” rất phù hợp với đối tượng học
sinh hiện nay. Nó mang lại cho học sinh những kĩ năng cơ bản trong quá trình
làm bài văn nghị luận văn học, giúp các em không cịn lúng túng khi tiếp nhận
đề bài, biết trình bày những ý kiến, quan điểm của bản thân về một vấn đề, một
tác phẩm văn học.
2


Sáng kiến cũng đã phần nào kích thích sự sáng tạo, tìm tịi của học sinh
,giúp các em cảm thấy thích thú với tác phẩm văn chương, từ đó tạo động lực
giúp các em thêm say mê và tăng cường khả năng tích lũy kiến thức đối với mơn
học này hơn. Đồng thời đây cũng là cách để giáo viên trau dồi kiến thức, tăng
cường học hỏi, trao đồi kinh nghiệm chuyên môn.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
5.1. Đối với Sở : nên tổ chức các cuộc thi sáng kiến kinh nghiệm theo chủ đề
gợi ý từng năm cho các bộ mơn và có trao giải. Đây cũng là dịp để mỗi giáo
viên có cơ hội học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn.
5.2. Đối với trường: nên đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho sinh hoạt các chuyên đề.
Nên đánh giá thật chính xác các SKKN và ưu tiên, cộng điểm thi đua cho
những sáng kiến có chất lượng tốt, tính ứng dụng cao, dễ phổ biến.
5.3. Đối với tổ bộ môn: nên ra đề kiểm tra, khảo sát chất lượng mang tính
sáng tạo. Ngồi ra, nên thường xun tổ chức hội thảo chuyên đề theo tháng
để tích lũy kiến thức và học hỏi lẫn nhau.

MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh và tính mới của sáng kiến.
Nghị luận văn học là một kiểu bài làm văn cơ bản, chiếm vị trí quan
trọng trong chương trình Ngữ Văn ở bậc THPT. Theo phân phối chương trình

mơn Ngữ văn lớp 12 có 4/6 bài kiểm tra thuộc nghị luận văn học. Trong kì
thi THPT QG, đề thi mơn Ngữ văn có 5/10 điểm thuộc nghị luận văn học.
Bởi thế cho nên, sáng kiến này nhằm mục đích giúp cho giáo viên có thêm
những định hướng đúng đắn trong việc dạy học môn Ngữ văn , coi chất lượng
và kết quả của học đạt được lên hàng đầu.
Văn học vốn là một mơn học có đặc thù riêng. Bằng những hình tượng và
ngơn từ phong phú sinh động của mình, nó cung cấp cho người đọc những
kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con người,
khơi gợi tâm tư tình cảm, cảm xúc và góp phần quan trọng trong việc hình
thành, phát triển nhân cách của mỗi người học sinh. Thế nhưng hiện nay tình
trạng học sinh đặc biệt học sinh 12 lười học và nhất là lười học các môn xã
3


hội trong đó có mơn văn đang diễn ra rất phổ biến, phần lớn các em ngán ngại
học môn Ngữ văn, ít đầu tư cho mơn này.Thực trạng đó u cầu giáo viên
phải thực sự tâm huyết, phải say sưa với các bài giảng của mình và phải trăn
trở, suy nghĩ cách để các em có thể xử lý tốt các đề văn, có như thế mới nâng
cao chất lượng dạy và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Một thực tế cho thấy trong những năm vừa qua, dạy học chủ yếu theo
phương pháp truyền thống, nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và truyền
thụ tri thức một chiều. Số giáo viên thường xuyên chủ động sáng tạo trong
việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp
phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học chưa nhiều. Giờ học văn
chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, tiếp thu và ghi nhớ một cách máy móc. Đặc
biệt là những giờ làm văn, bản thân phân môn này đã khó và khơ hơn so với
việc học tác phẩm văn học, giáo viên lại khơng để ý đến vai trị quan trọng
của nó, nhiều khi dạy ào ào cho qua nên dẫn đến việc các em không biết vận
dụng những kiến thức lí thuyết vào giải quyết những đề nghị luận văn học.
Với mục đích đề ra, sáng kiến đã bám sát chương trình và các đề thi

THPTQG gần đây để xây dựng được hệ thống lí thuyết giải quyết đề nghị
luận văn học phù hợp với từng kiểu bài nhỏ và phù hợp với xu hướng ra đề
thi mới hiện nay. Mặt khác sáng kiến cũng áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực và ứng dụng cơng nghệ thông tin nhằm tạo hứng thú học tập cho học
sinh như phương pháp thảo luận, trao đổi nhóm.. . Phương pháp này sẽ giúp
các thành viên trong lớp chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân, cùng
nhau xây dựng nhận thức mới, khơng học theo kiểu “thầy đọc trị chép” như
trước.
Sáng kiến được áp dụng lần đầu thực tiễn tại đơn vị trường THPT ... từ
tháng 9 năm 2018. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến là:
- Giúp học sinh THPT nhất là học sinh lớp 12 có kĩ năng trong việc xác
định đề, tìm ý, tạo lập dàn ý, dựa vào dàn ý để viết cho đúng với yêu cầu nội
dung và hình thức của một bài văn nghị luận văn học.
- Giúp giáo viên có cái nhìn toàn diện hơn khi hướng dẫn học sinh
triển khai đề nghị luận văn học, đồng thời xác định được hướng dạy, hướng
khai thác tác phẩm và hướng ra đề kiểm tra, đề thi theo cấu trúc của Bộ giáo
dục hiện nay.
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn, đồng thời
đáp ứng được yêu cầu của các kì thi, nhất là kì thi THPT QG.
4


- SKKN này sẽ là nguồn tư liệu phong phú, bổ ích để thầy cơ dạy Văn
trao đổi, làm tư liệu sinh hoạt chuyên đề ở tổ bộ môn.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Nghề dạy học là nghề
cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Đặc biệt người giáo viên dạy Văn
càng thấm thía hơn sự “cao quý” ấy. Được mang tri thức, mang niềm vui,
được dạy “lễ”, dạy “văn”, được khơi gợi trí tuệ, niềm yêu thích say mê…ở
mỗi thế hệ học sinh thì cịn gì cao q, hạnh phúc hơn đối với người thầy.

Quả thực, chẳng gì có thể diễn tả hết niềm vui sướng và tự hào của
người giáo viên khi thành quả lao động của mình đạt kết quả cao, nhất là kết
quả của kì thi THPT Quốc gia. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy học sinh nói
chung, dạy ơn thi nói riêng, giáo viên ln dày cơng, dốc sức tìm tịi sáng tạo
khơng ngừng để có phương pháp và cách thức ơn luyện hiệu quả nhất. Sự
gian nan ấy được khẳng định bằng kết quả của mỗi kì thi, mỗi điểm cao mà
các em đạt được.
Nghị luận văn học là một kiểu bài làm văn cơ bản, chiếm vị trí quan
trọng trong chương trình Ngữ Văn ở bậc THPT. Theo phân phối chương trình
mơn Ngữ văn lớp 12 có 4/6 bài kiểm tra thuộc nghị luận văn học. Trong kì
thi THPT QG, đề thi mơn Ngữ văn có 5/10 điểm thuộc nghị luận văn học.
Điều này hồn tồn phù hợp với vai trị, vị trí mơn học. Kĩ năng viết các kiểu
bài nghị luận văn học đã được bàn luận đến rất nhiều trong các hội thảo, trên
nhiều diễn đàn. Song qua thực tế trải nghiêm tôi thấy trong kĩ năng viết bài
nghị luận văn học các em cịn nhiều hạn chế. Vì vậy trong sáng kiến kinh
nghiệm này, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp vấn đề “Rèn kĩ năng viết
kiểu bài nghị luận văn học cho học sinh lớp12” để mong tìm được giải pháp
chung giúp học sinh viết bài tốt nhất, hiệu quả nhất trong mỗi kì thi.
3. Thực trạng của vấn đề.
Như đã nói ở trên văn học vốn là một mơn học có đặc thù riêng. Bằng
những hình tượng và ngơn từ phong phú sinh động của mình, nó cung cấp
cho người đọc những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn
trong tâm hồn con người, khơi gợi tâm tư tình cảm, cảm xúc và góp phần
quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách của mỗi người học
sinh.
Thế nhưng hiện nay tình trạng học sinh đặc biệt học sinh 12 lười học
và nhất là lười học các mơn xã hội trong đó có môn văn đang diễn ra rất phổ
biến, phần đông các em ngán ngại học mơn Ngữ văn, ít đầu tư cho môn này.
5



Mặt khác do đặc thù lớp 12 các em chỉ lo ôn học những môn thi theo khối
nên trong lớp các em ngồi học thờ ơ, với tác phẩm truyện nói riêng và bộ mơn
Ngữ văn nói chung, nhiều khi tỏ ra lãnh đạm với số phận nhân vật, với tiếng
nói tâm tình của nhà thơ ,nhà văn, khơng có thói quen chủ động khám phá,
tìm hiểu bài học. Nếu được hỏi những truyện ngắn hay, hay những bài thơ mà
các em u thích, thường thì hiểu biết của các em chỉ quanh quẩn ở những bài
trong sách giáo khoa. Cá biệt có những em cịn khơng kể được tên những tác
phẩm đã học trong chương trình, khơng nhớ tên tác giả hay nhầm tên nhân
vật ở tác phẩm này với tác phẩm kia,hiểu sai nội dung các chi tiết, xuyên tạc
chi tiết, sự kiện….
Đặc biệt một thực tế mà giáo viên nào cũng nhận thấy là sách tham
khảo, sách hướng dẫn học tốt, sách chuẩn kiến thức và những bài văn mẫu
q nhiều, vơ hình chung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, nhiều
em còn đối phó bằng cách soạn bài hồn tồn dựa vào sách tham khảo mà
chưa một lần đọc văn bản trong sách giáo khoa. Khi kiểm tra thì chép văn
mẫu hay sách để học tốt . Vì thế đơi khi cái nhìn của các em về tác phẩm cịn
lệch lạc, thậm chí sai kiến thức cơ bản.
Một thực trạng nữa là học sinh không học bài, không soạn bài, không
đọc văn bản, lên lớp học thụ động, chép bài một cách máy móc, đây là điều
rất đáng lưu tâm, làm ảnh hưởng đến hiệu quả và yêu cầu đổi mới giáo dục
hiện nay. Những thực trạng này dẫn đến kết quả là học sinh hạn chế tư duy
sáng tạo, chưa có tinh thần thái độ học tập đúng đắn, không hiểu hoặc không
hứng thú khi tiếp nhận tác phẩm văn chương; không có kĩ năng vận dụng kiến
thức để viết một bài nghị luận văn học cho đúng.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy kĩ năng làm kiểu bài nghị luận văn
học của nhiều em học sinh lớp 12 còn rất yếu. Thông thường khi viết bài văn
nghị luận văn học, các em hay mắc phải những lỗi cơ bản sau:
3.1. Học sinh khơng có thói quen phân tích đề, lập dàn ý trước khi viết bài
Khi bắt gặp một đề bài các em hay đặt bút viết ngay mà không có thời

gian suy nghĩ tìm hiểu đề xem đề u cầu viết cái gì, viết như thế nào, và viết
cái gì là chủ yếu. Bình thường nếu xác định đúng yêu cầu đề thì học sinh sẽ
làm bài đúng, ngược lại xác định sai sẽ dẫn đến lạc đề.Tương tự dàn ý cũng
rất quan trọng, nó được coi là bộ khung, bộ xương của bài viết. Có dàn ý
người viết sẽ tránh được lạc đề, thừa, thiếu hay lặp ý. Hơn nữa có dàn ý người
viết sẽ chủ động và bình tĩnh hơn. Một bài văn tốt phải có một dàn ý tốt.
Chính vì khơng ý thức được tầm quan trọng của phân tích đề và lập dàn ý
6


nên các em hay bỏ qua bước này và vì thế nên khi bắt tay vào viết rất lúng
túng, viết không trúng yêu cầu của đề bài, và điểm số khơng cao.

Ví dụ:
Đề thi khảo sát chất lượng lớp 11, năm 2016 - 2017 của trường tơi có câu
2 (5,0 điểm) như sau:
Có ý kiến cho rằng, Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một truyện ngắn hiện
thực. Lại có ý kiến khẳng định, Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một truyện
ngắn lãng mạn. Anh/ chị hãy trình bày quan điểm của mình về vấn đề trên
dựa vào những hiểu biết về tác phẩm Hai đứa trẻ( Thạch Lam) trong sách
giáo khoa Ngữ Văn 11 nâng cao.
Với đề bài trên nhiều em không đọc kĩ đề dễ lầm sang khẳng định một ý
kiến mà phủ định một ý kiến kia, chẳng hạn khẳng định đây là truyện ngắn
hiện thực hoặc lãng mạn và chứng minh theo quan điểm đó mà không biết
rằng cần phải kết hợp cả hai. Từ đó dẫn đến bài viết của nhiều em thiếu ý,
điểm thấp.
3.2. Học sinh không xác định được dạng bài, không xác định được luận
điểm, luận cứ của bài văn nghị luận văn học
Trong nhà trường phổ thông, các em được rèn làm các dạng bài cơ bản
như: miêu tả, biểu cảm, tự sự, thuyết minh, nghị luận... trong đó nghị luận là

dạng bài cơ bản chiếm tỉ lệ các bài kiểm tra cao nhất .
Văn nghị luận là dùng ý kiến lý lẽ của mình đề bàn bạc, để thuyết phục
người khác về một vấn đề nào đó. Cho nên nói đến văn nghị luận là nói đến
hệ thống luận điểm luận cứ, vì nó là sản phẩm của tư duy lo-gic, nó tác động
vào trí tuệ, lí trí của người đọc nhiều hơn là tác động vào cảm xúc, tình cảm,
hay tưởng tượng.
Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị
luận. Luận điểm cần được nêu khái quát, diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu.
Luận cứ là lí lẽ và dẫn chứng đưa ra làm sáng tỏ cho luận điểm, làm
cho người đọc hiểu, tin vào tính đúng đắn của nó.Luận cứ u cầu phải chân
thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm thêm sức thuyết phục.
Ngoài ra cần phải biết cách lập luận tức là tổ chức, sắp xếp các luận cứ
để làm sáng rõ luận điểm, sắp xếp các luận điểm theo trình tự hợp lý, chặt chẽ
7


để thành văn bản hoàn chỉnh. Văn nghị luận yêu cầu phải đúng hướng, phải
trật tự, phải mạch lạc, phải trong sáng, hấp dẫn và sáng tạo.
Các thao tác được sử dụng chính trong văn nghị luận là: giải thích,
chứng minh, phân tích, bình luận, so sánh, bác bỏ.
Nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn bạc
là các vấn đề văn học như : tác phẩm, tác giả, thời đại văn học....
Trong chương trình Ngữ văn cơ bản, Nghị luận văn học gồm các dạng
đề như sau:
Phân tích giá trị nội dung của tác phẩm
Phân tích đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm
Phân tích một khía cạnh của nội dung/nghệ
Dạng 1: Phân tích/cảm thuật
nhận
Phân tích nhân vật/diễn biến tâm lí của nhân

vật.
Phân tích tình huống truyện
Cảm nhận về một bài thơ/đoạn thơ
Cảm nhận về một đoạn trích văn xi
Dạng 2: So sánh

Hai tác phẩm cùng chủ đề
Hai hay một nhóm nhân vật
Hai chi tiêt, hai cách kết thúc trong hai tác
phẩm,...

Dạng 3: Nghị luận về một ý Nghị luận về một ý kiến bàn về nhân vật, tác
kiến bàn về văn học.
phẩm, phong cách nghệ thuật, giai đoạn văn
học.
Đánh giá về hai ý kiến khác nhau hoặc bổ sung
cho nhau về tác phẩm, nhân vật.
Chính vì các em khơng xác định được dạng bài, không xác định được
luận điểm, luận cứ,viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy khơng cần biết có đúng
u cầu hay khơng cho nên có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà
không hiểu được học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì.
8


Ví dụ: Anh( chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn

Bước chân nát đá mn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
(Trích Việt Bắc - Tố Hữu)
Ở phần thân bài học sinh không xác định được trọng tâm luận đề,
không xác định được luận điểm, luận cứ nên viết:
"Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết trong những năm kháng chiến
chống Pháp, những chiến thắng ở Điện Biên Phủ là chiến thắng ác liệt nhất
làm cho quân giặc tan tành mây khói. Quân ta đi từ chiến thắng này sang
chiến thắng khác. Đội quân ngày càng hùng mạnh. Đọc đoạn thơ chúng ta
tự hào về lòng dũng cảm của cha anh chúng ta. Bài thơ Việt Bắc đã ca ngợi
chiến thắng của quân đội ta, nhân dân ta.diễn tả niềm vui của nhân dân ta...."
(Vũ Ngọc Quang – 12H)
3.3. Học sinh chưa biết phân tích làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận
3.3.1. Học sinh chủ yếu diễn xuôi đoạn thơ (khi làm đề Nghị luận về một
bài thơ, đoạn thơ)
Ví dụ: Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm,
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
9


Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Học sinh viết: "Đồn qn Tây Tiến của Quang Dũng có hình dáng kì
lạ, bị sốt rét rụng hết tóc, da xanh như tàu lá chuối nhưng vẫn sáng ngời một
vẻ đẹp như dáng dữ dằn của những con hổ trong rừng sâu khiến kẻ thù phải
khiếp sợ. Mặc dù gian khổ nhưng họ vẫn lạc quan yêu đời vẫn mơ màng gửi
giấc mơ về Hà Nội, mơ về những cô gái đẹp ở Hà Nội. Mặc dù cái chết ln
đe dọa,rình rập, những nấm mồ vô danh nơi biên giới xa xơi cũng khơng làm
những người lính Tây Tiến chùn bước. Họ vẫn đi không tiếc tuổi xuân,vẫn coi
cái chết nhẹ như lông hồng......"
(Nguyễn Quang Tuấn – 12H)
3.3.2. Học sinh thường sa vào kể lể tác phẩm (khi làm bài Nghị luận về
một tác phẩm, một đoạn trích văn xi)
Ví dụ: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng
A Phủ của Tơ Hồi.
Học sinh viết: " Vợ chồng A Phủ kể về số phận bất hạnh của cô Mị. Mị
là một cô gái Hmông trẻ trung xinh đẹp, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra.Ở nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc rồi Mị cầm nắm
lá ngón về khóc lóc với cha định chết. Cha Mị nói "Mày về chào tao mà đi
chết à?. Không được đâu. Mày chết rồi ai trả nợ cho tao...." Thế là Mị không
dám chết nữa, Mị lại quay trở về nhà Thống lí. Mấy năm sau bố Mị chết Mị
cũng khơng buồn chết nữa, sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị lùi
lũi như con rùa ni trong xó cửa, đêm tình mùa xuân Mị cũng uống rượu,
định đi chơi, nhưng bị A Sử trói vào cột...."
(Ngơ Bá Phương – 12H)
3.4. Các lỗi khác
Ngồi các lỗi cơ bản nói trên , trong q trình làm bài NLVH, học sinh
cịn hay mắc phải những lỗi như :
- Bài làm chỉ có chi tiết, dẫn chứng, phân tích đơn lẻ từng câu, từng

hình ảnh mà khơng khái qt thành luận điểm.
10


- Bài viết lan man khơng có bố cục, hệ thống ý rối, lặp ý, thừa ý.
- Diễn đạt lủng củng, sai chính tả, dùng từ, đặt câu.
- Lựa chọn dẫn chứng không phù hợp với nội dung luận điểm.
- Dùng nhiều cách diễn đạt và ngôn từ sáo rỗng
- Hiểu sai lệch , xuyên tạc nội dung các chi tiết trong tác phẩm
Còn rất nhiều lỗi khác song yêu cầu khuôn khổ, dung luợng bài viết
không cho phép nên tơi chỉ đề cập đến một số lỗi chính khi viết bài văn nghị
luận văn học ở trên.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4. 1. Giải pháp 1: Nắm chắc văn bản văn học
Để thực hiện được đề tài, yếu tố đầu tiên mà tơi quan tâm đó là đối
tượng học sinh. Học sinh đa số học văn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là năng
lực cảm thụ văn học kém, lại khơng thích đọc các tác phẩm văn học. Vì vậy,
muốn học sinh làm tốt các bài nghị luận văn học trước hết cần các em phải
nắm được tác phẩm . Muốn vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
4.1.1. Hướng dẫn các em cách đọc - hiểu văn bản
Nghị luận văn học là kiểu bài văn hướng tới các vấn đề đặt ra trong các
tác phẩm văn học: nội dung, nghệ thuật, hoặc các khía cạnh khác như tình
huống, diễn biến tâm lí của nhân vật.... Cho nên người viết phải hiểu biết kĩ
về tác phẩm văn học: từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đặc trưng thể loại đến nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Vì vậy, cần hình thành kĩ năng đọc cho học sinh, tạo cho các em có thói
quen đọc sách, hướng dẫn các em đọc theo quy trình: Đọc chậm để hiểu
thơng suốt tồn văn bản → Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật → đọc hiểu tư
tưởng tình cảm của tác giả → đọc hiểu để thưởng thức văn học.
4.1.2. Khuyến khích học sinh khi đọc phải có thói quen ghi chép

Ví dụ: Sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, học sinh có thể ghi chép:
- Tóm tắt tác phẩm.
- Những chi tiết, hình ảnh chọn lọc.
- Những câu văn, thơ hay; những hình ảnh đẹp
- Có những nhận xét, đánh giá ban đầu về tác phẩm văn học đó.
4. 2. Giải pháp 2: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học
11


4. 2.1. Bước 1: Rèn kĩ năng tìm hiểu đề
Đây là thao tác được thực hiện đầu tiên khi làm bài văn nghị luận. Để thực
hiện tốt được thao tác này học sinh cần đọc kĩ đề, tìm và gạch chân các cụm từ
quan trọng (cụm từ chứa thông tin căn bản của vấn đề: vấn đề cần nghị luận, thao
tác nghị luận,...). Học sinh phải xác định đầy đủ, chính xác các yêu cầu sau :
- Yêu cầu về hình thức: Thuộc kiểu bài nào? Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; hay nghị luận về một ý kiến bàn về văn học ?.....
- Yêu cầu về nội dung: Vấn đề cần nghị luận là gì?
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ những tác
phẩm văn học nào?
Ví dụ:
Đề bài: Có ý kiến cho rằng : Sơng Hương là bản tình ca ca ngợi về thiên
nhiên và văn hóa xứ Huế. Qua bút kí "Ai đã đặt tên cho dịng sơng ?"
của Hồng Phủ Ngọc Tường, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Với đề bài này hướng dẫn học sinh thực hiện các bước xác định đề như
sau :
- Kiểu bài nghị luận : Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
- Xác định trọng tâm bài viết :Vẻ đẹp của hình tượng sơng Hương .
- Phạm vi dẫn chứng : Tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dịng sơng "
- Xác định các thao tác chính cho bài viết : Phân tích, kết hợp chứng minh,
bình luận…

4.2.2. Bước 2: Rèn kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
Tìm ý là tái hiện lại kiến thức đã học về những giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm đang bàn đến, từ đó suy nghĩ và trả lời các câu hỏi :
- Tác phẩm đó chứa đựng những nội dung gì ?
- Qua mỗi nội dung, tác giả thể hiện thái độ, tình cảm gì ?
- Thơng điệp gì được tác giả gửi đến người đọc ?
- Để làm nổi bật giá trị nội dung, nhà văn đã sử dụng những hình thức
nghệ thuật nào?
- Thủ pháp nghệ thuật quan trọng nhất mà tác giả sử dụng để gây ấn
tượng cho người đọc là gì ?
- Chi tiết, hình ảnh nào làm em thích nhất, vì sao ?...
12


Lập dàn ý là một khâu quan trọng. Dàn ý giúp người viết khơng bỏ sót
những ý cơ bản, trọng tâm, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết.
Lập dàn ý tốt, có thể sẽ viết dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn.
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý từng kiểu bài, tôi đưa ra mơ
hình tổng qt của một bài văn nghị luận cho học sinh tham khảo:
Mơ hình tổng qt một bài văn nghị luận:
Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề):

Mở bài

Dẫn dắt từ vấn đề rộng hơn thu hẹp
dần đến việc giới thiệu luận đề.
Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn
đề):

Luận điểm 1


Bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi
đoạn văn là một luận điểm. Các luận
điểm đều tập trung làm nổi bật luận bài
đề ở phần mở bài.

Luận điểm 2

Thân

Luận điểm 3

Kết bài (còn gọi là kết thúc vấn đề):
Tổng hợp lại từ các luận điểm đã
trình bày, đánh giá và gợi mở.

Kết bài

Từ mơ hình tổng qt đó, tơi hướng dẫn các em lập dàn ý của từng kiểu
bài.
Để lập được dàn ý tôi yêu cầu học sinh:
- Nắm vững cách làm bài của từng kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi…
- Xác định được các luận điểm, luận cứ. Sắp xếp các luận điểm, luận cứ
theo một trật tự lôgic, chặt chẽ.
4.2.2.1. Cách lập dàn ý từng kiểu bài, dạng bài nghị luận văn học
thường gặp:
a. Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
Ví dụ:
Đề bài : Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:

13


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay
kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)

Mở bài :
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và chương Đất nước
(trích trường ca Mặt đường khát vọng).
- Khái quát nội dung, nghệ thuật và vị trí của đoạn trích ở đề bài.
Thân bài :
Luận điểm 1 :Hình tượng đất nước được thể hiện qua đoạn thơ:
14


Nguồn gốc và sự hình thành của đất nước
Đất nước có từ rất xa xưa và là một giá trị bền vững, vĩnh hằng, được
tạo dựng, bồi đắp qua nhiều thế hệ và truyền nối từ đời này sang đời khác
(Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, Đất Nước có …..ngày xửa, ngày
xưa….).
Luận điểm 2 : Sự cảm nhận của nhà thơ về Đất Nước

- Đất nước được cảm nhận rất cụ thể, bình dị, gần gũi, thân thiết với
cuộc sống hằng ngày của mỗi người (câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà
ăn, ngơi nhà mình ở, tình nghĩa vợ chồng hạt lúa ta trồng…).
- Đất nước gắn liền với nền văn hóa lâu đời của dân tộc:
+ Gắn với những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa…mẹ thường
hay kể”.
+ Gắn với truyền thống văn hóa, phong tục (miếng trầu, tóc bới sau
đầu) của người Việt.
- Đất nước lớn lên trong đau thương vất vả :
+ Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm (dân mình biết trồng
tre mà đánh giặc).
+ Gian nan vất vả trong lao động để tồn tại và phát triển (một nắng hai
sương).
- Đất nước gắn với những con người sống ân tình, thủy chung trong
tình nghĩa vợ chồng (thương nhau bằng gừng cay muối mặn).
Luận điểm 3: Nhận xét, đánh giá chung về nghệ thuật biểu hiện
+ Đất nước: hiện lên vừa thiêng liêng vừa thân thương gần gũi. Cách
cảm nhận độc đáo, mới mẻ dưới chiều sâu văn hóa và giàu giá trị nhân văn.
+ Ngơn ngữ bình dị, dân dã nhưng giàu sức gợi.
+ Giọng thơ tâm tình thiết tha, suy tư trầm lắng.
+ Sức truyền cảm lớn từ sự hịa quyện của chất chính luận và chất trữ
tình.
Kết luận :
- Sử dụng phong phú các chất liệu văn hóa dân gian.
=> Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện
về Đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, tồn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân
15


dân, sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách

sáng tạo
b. Kiểu bài: Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi
Kiểu bài này có nhiều dạng khác nhau, chủ yếu là phân tích các khía
cạnh của tác phẩm văn xi như: Phân tích nhân vật, phân tích giá trị nhân
đạo, phân tích giá trị hiện thực, phân tích tình huống,....
Tơi tập trung hướng dẫn và rèn kĩ năng cho học sinh cách làm các dạng
bài thường gặp như sau:
* Phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học
Ví dụ :
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tơ Hồi

Mở bài :
- Giới thiệu về Tơ Hồi và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
- Vị trí, giá trị , ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị
trong tác phẩm
Thân bài:
Luận điểm1. Lai lịch nhân vật
16


- Mị là một thiếu nữ dân tộc H’Mông xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu
đời, hiếu thảo, chăm chỉ làm lụng.
- Là niềm mơ ước của bao chàng trai trong bản "trai đến đứng nhẵn cả
chân vách đầu buồng Mị " , có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo
Mị
- Là con nhà nghèo .Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ để lại, Mị bị
thống lý Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ.
Luận điểm 2 : Số phận nhân vật Mị trong nhà Pá Tra : Mị bị đày đọa cả về
thể xác lẫn tinh thần:

- Danh nghĩa là con dâu thống lý, vợ của con quan nhưng Mị lại bị đối
xử như một nô lệ.
- Mị ở nhà chồng mà như ở địa ngục với công việc triền miên. Mị sống
khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống
như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm.
- Trong cuộc sống tù hãm, Mị vô cùng buồn tủi, uất ức. Cơ muốn sống
cũng chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong, dường như
Mị bắt đầu chấp nhận thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như "con rùa
ni trong xó cửa".
- Mị bị tê liệt ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận
Luận điểm 3. Vẻ đẹp của nhân vật Mị: Sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ
a. Sức sống của Mị trong những ngày hội xuân ở Hồng Ngài
- Bên trong hình ảnh "con rùa ni trong xó cửa" vẫn đang cịn một con
người khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn
được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm
hồn Mị. Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái, Mị
sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. Trong khi đó tiếng sáo (biểu
tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi
sâu vào tâm tư Mị.
- Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị
chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại; tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng
và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi.
b. Sức sống của Mị trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra

17


- Mới đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng đêm ấy, Mị thấy
dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ của mình trong đêm mùa
xuân năm trước, Mị đồng cảm, thương xót cho A Phủ.

- Phân tích nét tâm lý: Mị thấy cái chết sắp tới với A Phủ là oan ức, phi lý;
Mị khơng sợ hình phạt của Pá Tra; ý thức căm thù và lòng nhân ái giúp Mị
thắng nỗi sợ hãi, biến Mị thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây
trói cứu A Phủ.
- Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng.
Nhưng rồi khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ,
đến với tự do.
Luận điểm 4 : Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật: cách giới thiệu,
khắc hoạ tính cách, diễn tả nội tâm nhân vật một cách tinh tế…
Kết bài :
- Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn đã gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến miền núi
cổ hủ, lạc hậu và tàn ác.
- Ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng và con đường đi đến với cách mạng của
người dân miền núi Tây Bắc
- Tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Tương tự tôi giới thiệu với học sinh dàn ý các dạng bài khác như :

* Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học

18


* Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm

* Phân tích tình huống trong tác phẩm

19


c. Kiểu bài: nghị luận về một ý kiến bàn về văn học


20


Ví dụ :Về hình tượng sơng Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dịng
sơng ? của Hồng Phủ Ngọc Tường, có ý kiến cho rằng : Sơng Hương
mang vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình. Bằng hiểu biết về tác phẩm,
anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Sáng tác của ơng là sự kết
hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy
tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa,
lịch sử, địa lí...
- Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
bút kí của Hồng Phủ Ngọc Tường. Đến với tác phẩm người đọc sẽ gặp ở đó
dịng sơng Hương với vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình
Thân bài :
* Giải thích ý kiến :
- Vẻ đẹp nữ tính : Có những vẻ đẹp, phẩm chất của giới nữ (như: xinh đẹp,
dịu dàng, mềm mại, kín đáo...)
- rất mực đa tình : Rất giàu tình cảm.
Ý kiến đề cập đến những vẻ đẹp khác nhau của hình tượng sơng Hương
trong sự miêu tả của Hồng Phủ Ngọc Tường.
* Phân tích vẻ đẹp sơng Hương
- Vẻ đẹp nữ tính
+ Khi là một cơ gái Digan phóng khống và man dại với bản lĩnh gan dạ,
tâm hồn tự do và trong sáng. Khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ.
+ Khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng. Khi là người tài nữ đánh đàn

lúc đêm khuya. Khi được ví như là Kiều, rất Kiều. Khi là người con gái Huế
với sắc màu áo cưới vẫn mặc sau tiết sương giáng.
=> Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sơng Hương trong cảm nhận của Hồng
Phủ Ngọc Tường vẫn đầy nữ tính, xinh đẹp, hiền hịa, dịu dàng, kín đáo
nhưng khơng kém phần mãnh liệt...
- Rất mực đa tình

21


+ Cuộc hành trình của sơng Hương là cuộc hành trình tìm kiếm người tình
mong đợi. Trong cuộc hành trình ấy, sơng Hương có lúc trầm mặc, có lúc dịu
dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh mẽ…Song nó chỉ thực vui tươi khi đến
ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần trên nền trời.
+ Gặp được thành phố, người tình mong đợi, con sông trở nên duyên dáng ý
nhị uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến, cái đường cong ấy như một
tiếng vâng khơng nói ra của tình u.
+ Sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở như những
vấn vương của một nỗi lịng.
+ Sơng Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang
hướng Đơng - Tây để gặp lại thành phố một lần cuối. Nó là nỗi vương vấn,
chút lẳng lơ kín đáo của tình u. Như nàng Kiều trong đêm tình tự, sơng
Hương chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó...
- Vài nét về nghệ thuật
Phối hợp kể và tả; biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh; ngơn ngữ giàu chất
trữ tình, chất triết luận.
Kết bài:
- Miêu tả sơng Hương, Hồng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết
phong phú, một trí tưởng tưởng bay bổng.

- Đằng sau những dòng văn tài hoa, đậm chất trữ tình là một tấm lịng tha
thiết với q hương, đất nước.
d. Kiểu bài so sánh
* Các loại đề so sánh văn học thường gặp
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học;
- So sánh hai đoạn thơ; so sánh hai đoạn văn;
- So sánh hai nhân vật;
- So sánh cách kết thúc hai tác phẩm;
- so sánh phong cách tác giả;
- so sánh, đánh giá hai lời nhận định về một tác phẩm.
* Cách làm bài dạng đề so sánh văn học :

22


Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải
quyết vấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh
hai chi tiết, hai đoạn thơ, hai đoạnh văn, hay hai nhân vật .... phương
pháp làm bài văn dạng này thông thường có hai cách:
- Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau
- Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích
từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản
minh họa.
Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp
Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này,
cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong đáp án đề thi đại
học
cao
đẳng.
Bước một lần lượt phân tích từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội

dung và nghệ thuật, sau đó chỉ ra điểm giống và khác nhau.
Cách này học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết. Bài viết
rõ ràng, không rối kiến thức nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận xét
điểm giống và khác nhau học sinh không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến
thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy
tiện.
Mơ hình khái qt của kiểu bài này như sau:
- Mở bài: Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này); giới thiệu khái quát
về các đối tượng so sánh
- Thân bài:
+ Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác
lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích);
+ Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
+ So sánh: Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả
các bình diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng
kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích
và thao tác lập luận so sánh)
23


+ Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối
cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc
trưng thi pháp của thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
- Kết bài: Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu; có thể nêu
những cảm nghĩ của bản thân.

Cách 2: Phân tích song song


Cách này hay nhưng khó, địi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic, sự tinh
nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và
lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản để chứng
minh cho luận điểm đó.
Ví dụ, khi so sánh bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm. Ứng dụng cách viết này học sinh không phân
24


tích lần lượt từng tác phẩm như cách một mà phân tích so sánh song song trên
các bình diện: Xuất xứ - cảm hứng - hình tượng - chất liệu và giọng điệu trữ
tình.
Lưu ý: Trong thực tế khơng phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng theo
đúng khn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách
hỏi trong mỗi đề cụ thể mà áp dụng theo cách nào và áp dụng sao cho linh
hoạt, phù hợp. Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài, cũng có
khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý
của người viết.
Ví dụ: Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn Hai
đứa trẻ của Thạch Lam và Chữngười tử tù của Nguyễn Tuân.
* Mở bài :
- Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn thuộc dòng văn học lãng mạn,
sinh ra trong một thời đại có nhiều biến động…
- Ánh sáng và bóng tối trong hait ruyện ngắn được sử dụng như một nguyên
tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về sự đối lập
giữa thiện và ác và tốt và xấu, giữa hiện thực tăm tối và tương lai tươi sáng…
* Thân bài :
- Phân tích đối tượng so sánh 1: Sự tương phảngiữa ánh sáng và bóng
tối trong truyện ngắn Haiđứa trẻ
+ Bóng tối: Dày đặc, bao trùm cả phố huyện và được lặp đi, lặp lại nhiều

lần: Một đêm mùa hạ êm như nhung; đường phố và các ngõ con dần dần
chứa đầy bóng tối; tố ihết cả con đường thăm thảm ra sông, con đường qua
chợ về nhà; các ngõ vào lànglại càng sẫm đen hơn nữa; đêm trong phố tĩnh
mịch và đầy bóng tối.... biểu trưng cho cuộc sống tăm tối, tù đọng,quẩn quanh
nơi phố huyện... (đó cũng chính là hình ảnh của xã hội Việt Nam những năm
1930 - 1945).
+ Ánh sáng: Ánh sáng tương phản với bóng tối nhằm tơ đậm thêm bóng tối.
\ Ánh sáng nơi phố huyện: nhỏ nhoi, yếu ớt, thưa thớt chỉ là những quầng
sáng leo lét, những hột sáng, những vệt sáng, những khe sáng,... tượng trưng
cho số phận leo lét, mòn mỏi của những con người nơi đây...
\ Ánh sáng Hà Nội trong hoài niệm của nhân vật Liên: Hà Nộirực sáng....vừa
là quá khứ, vừa là ước mơ về tương lai của chị em Liên
25


×