Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn THPT, đề tài dạy cụm bài thực hành tiếng việt phát triển phẩm chất năng lực HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.63 KB, 51 trang )

Đề tài: “Dạy học cụm bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
THPT theo hướng phát triển năng lực”

Mục lục
Trang

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Ý nghĩa

1

GD vàĐT

Giáo dục vàĐào tạo

2

THPT

Trung học phổ thông

3

THCS

Trung học cơ sở



4

GV

Giáo viên

5

HS

Học sinh

6

BPTT

Biện pháp tu từ

7

PPCT

Phân phối chương trình

8

%

Phần trăm


9

SL

Số lượng

10

SGK

Sách giáo khoa

11

VB

Văn bản

1


A.
1.

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Trong những năm gần đây, xuất phát từ tình hình thực tế xã hội, cụ thể từ yêu

cầu của NQ29 của Ban Chấp hành TW Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện GD và
ĐT; NQ88 của Quốc hội và QĐ 404 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương
trình và sách giáo khoa phổ thông, nền giáo dục nước ta đang chuyển mình từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung chuyển sang tiếp cận năng lực của người
học. Phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” khơng cịn thích hợp.
Thay vào đó, dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành
năng lực, phẩm chất được quan tâm. Trong bối cảnh ấy, việc dạy học và kiểm tra
đánh giá theo hướng phát triển năng lực của người học là cần thiết.
Trong chương trình THPT, mỗi mơn học đều có đặc trưng và thế mạnh riêng
trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung. Mơn Ngữ văn là mơn
học cơng cụ, có ưu thế nổi trội trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực
văn học, một biểu hiện cụ thể của năng lực thẩm mĩ. Các phẩm chất được nêu lên
trong chương trình giáo dục tổng thể như: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực
và trách nhiệm đều có thể thông qua môn Ngữ văn để phát triển cho học sinh.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là thông
qua môn học, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến
thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân, …phát triển được năng lực
đặc thù của môn học như năng lực giao tiếp trong tiếng Việt, năng lực thưởng thức
2


văn học, cảm thụ thẩm mĩ đồng thời phát huy những năng lực thiết yếu khác như:
năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, sáng tạo, hợp tác, tự quản, …
Phân mơn tiếng Việt trong chương trình THPT tuy chỉ chiếm một phần nhỏ,
nhưng lại có vai trị quan trọng trong việc hoàn thiện kiến thức, kiểm tra đánh giá
cũng như giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt. Đặc biệt ở cấp THPT những bài tiếng Việt chủ yếu được biên soạn dưới dạng
thực hành, vận dụng do đó có thể coi đây là phương tiện rèn luyện kĩ năng và phát
triên năng lực cần thiết cho học sinh.
Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ, học

hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy sự đổi mới, sáng tạo trong
phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong mơn Ngữ
văn nói chung và các bài thực hành tiếng Việt nói riêng chưa nhiều. Dạy học vẫn
theo phương pháp cũ, nặng về kiến thức, vẫn mang tính hàn lâm, chứ chưa chú
trọng đến việc thiết kế các hoạt động dạy học nhằm phát triển năng lực toàn diện
cho học sinh.
Để việc dạy và học những bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ
văn THPT trở nên hấp dẫn, sinh động, phát huy được năng lực của người học,
người viết chọn đề tài: “Dạy học những bài thực hành tiếng Việt trong chương
trình Ngữ văn THPT theo hướng phát triển năng lực” nhằm đề xuất một số giải
pháp dạy học các bài tiếng Việt phát huy được năng lực, sự sáng tạo, khả năng sử
dụng ngôn ngữ của học sinh.
2.

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài trong sáng kiến kinh nghiệm lần này, chúng tôi mong
muốn đưa ra một số giải pháp có khả năng ứng dụng hiệu quả vào việc dạy - học
những bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT. Đồng thời tìm
hiểu, vận dụng những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực của người học để góp phần hình thành
những năng lực cần hướng đến của mơn Ngữ văn cụ thể là:
-

Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực sáng tạo
Năng lực hợp tác
Năng lực tự quản bản thân
Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ

3


Từ đó, thúc đẩy sự tìm tịi ứng dụng các phương pháp đổi mới trong dạy học
của giáo viên. Tạo động lực học tập cho học sinh, phát huy tính sáng tạo cho người
học.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Trọng tâm của đề tài là dạy học những bài thực hành tiếng Việt trong chương
trình THPT theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Người giáo viên lựa chọn
những phương pháp nào, cách thức tổ chức dạy - học như thế nào để phù hợp với
khả năng tiếp thu của học sinh trên cơ sở đó giúp các em có được khả năng vận
dụng, sử dụng ngôn ngữ thành thạo. Mặt khác cũng tạo điều kiện để các em được
thể hiện tính sáng tạo, năng động, biết vận dụng kiến thức để giải quyết các tình
huống thực tiễn. Qua mỗi bài thực hành tiếng Việt học sinh phát triển được năng
lực của cá nhân gồm: năng lực làm chủ và phát triển bản thân; năng lực xã hội,
năng lực công cụ.
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, như tên gọi của nó, tơi tập trung
nghiên cứu các vấn đề lí luận về dạy học theo định hướng phát triển năng lực để
vận dụng vào việc dạy - học nhóm bài học cụ thể - những bài thực hành trong
chương trình ngữ văn THPT (10 bài thực hành) ở cả ba khối lớp học 10, 11, 12. Từ
đó đưa ra những cách tiếp cận, giảng dạy các bài thực hành tiếng Việt có hiệu quả,
làm tiền đề áp dụng rộng rãi hơn trong hoạt động dạy học Ngữ văn.
Đối tượng học sinh mà tôi thực hiện khảo nghiệm là học sinh lớp 10 và 11,

trường THPT Chuyên Bắc Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh trong các năm
học 2017 – 2018, 2018 – 2019, 2019 – 2020 và 2020 - 2021
5.

Phương pháp nghiên cứu
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu

sau:


-

Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra
Phương pháp thực nghiệm khoa học
Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp so sánh
4


B.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I.
1.


Cơ sở lí luận
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực
1.1 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực

Trong xu thế đổi mới giáo dục hiện đại, năng lực và phẩm chất người học là
hai yếu tố được coi trọng. Trong đó, năng lực là khái niệm then chốt chi phối việc
đổi mới căn bản chương trình giáo dục mới. Khái niệm “năng lực” được hiểu là
“thuộc tính cá nhânđược hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và q trình học
tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và
các thuộc tính cá nhân khác như: hứng thú, niềm tin, ý chí, … thực hiện thành công
một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Như vậy việc dạy họcđịnh hướng phát triển năng lực về bản chất không thay thế
việc dạy học hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ mà chỉ mở rộng hoạt động dạy
học hướng nội dung bằng cách tạo một môi trường, bối cảnh cụ thể để học sinh
được thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử dụng kĩ năng và thể hiện thái
độ của mình.
Ta có thể so sánh một số đặc trưng cơ bản của dạy học theo tiếp cận nội dung
kiến thức (dạy học hiện hành) và dạy học theo định hướng phát triển năng lựcqua
bảng sau:
Nội dung

Dạy học theo tiếp cận trang
bị kiến thức

Dạy học định hướng phát triển
năng lực

Mục tiêu
dạy học


Mục tiêu dạy học được mô tả
không chi tiết và không nhất
thiết phải quan sát, đánh giá
được.

Kết quả học tập cần đạt được mô
tả chi tiết và có thể quan sát, đánh
giá được, thể hiện được mức độ
tiến bộ của học sinh một các liên
tục.

Nội dung
dạy học

Việc lựa chọn nội dung dựa vào
các khoa học chuyên môn,
không gắn với các tình huống
thực tiễn. Nội dung được quy

Lựa chọn những nội dung nhằm
đạt được kết quả đầu ra đã quy
định, gắn với các tình huống thực
tiễn. Chương trình chỉ quy định

5


định chi tiết trong chương trình. những nội dung chính, không quy
định chi tiết.
Phương

pháp dạy
học

GV là người truyền thụ tri thức,
là trung tâm của quá trình dạy
học. HS tiếp thu thụ động
những tri thức được quy định
sẵn.

GV chủ yếu là người tổ chức, hỗ
trợ. HS tự lực và tích cực lĩnh hội
tri thức. Chú trọng sự phát triển
khả năng giải quyết vấn đề, khả
năng giao tiếp, …;
-Chú trọng sử dụng các quan
điểm, phương pháp và kỹ thuật
dạy học tích cực, các phương
pháp dạy học thực nghiệm, thực
hành.

Hình thức Chủ yếu dạy học lí thuyết trên Tổ chức hình thức học tậpđa dạng,
dạy học lớp học.
chúý các hoạt động xã hội, ngoại
khoá, nghiên cứu khoa học, trải
nghiệm sáng tạo, đẩy mạnhứng
dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học.
Đánh giá
kết quả
học tập

của người
học.

Tiêu chíđánh giá được xây
dựng chủ yếu dựa trên sự ghi
nhớ và tái hiện nội dung đã
học.

Tiêu chíđánh giá dựa vào năng lực
đầu ra, có tính đến sự tiến bộ
trong quá trình học tập, chú trọng
các tình huống thực tiễn.

Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực
Hệ thống năng lực mà môn Ngữ văn hướng đến
1.2



Với xu thế đổi mới giáo dục những năm gần đây, đặc biệt là mục tiêu của
chương trình phổ thơng sau năm 2018 định hướng cho chương trình giáo dục trung
học phổ thông mục tiêu hướng tới giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm
chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả
năng tự học và ý thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với
năng lực và sở thích, điều kiện và hồn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học
nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay
trong bối cảnh tồn cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp mới.

6



Trong đó, chương trình giáo dục phổ thơng hình thành và phát triển cho học
sinh những năng lực cốt lõi đó là những năng lực chung và năng lực chuyên môn
(tùy theo đặc thù từng môn học).
Năng lực chung là năng lực được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
góp phần hình thành, phát triển đó là:
-

Năng lực tự chủ và tự học

-

Năng lực giao tiếp và hợp tác

-

Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo

Môn Ngữ văn là một trong những môn học bắt buộc, là mơn học cơng cụ. Nó
mang những đặc thù riêng. Do đó, ngồi những năng lực chung được nhắc tới ở
trên, mơn Ngữ văn cịn hướng tới hình thành và phát triển những năng lực có tính
đặc thù. Đó là:
-

Năng lực tiếng Việt
Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ

Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ văn với ba phân môn Văn học, Tiếng
Việt và Làm văn, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết,
nghe, nói giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực, đáp ứng các yêu cầu của

xã hội. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn
giúp các em từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học,
cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe, đọc) và năng lực tạo lập
văn bản (gồm kĩ năng nói và viết). Năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh được
thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức tiếng Việt, về các loại hình
văn bản và kĩ năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập thông tin, cảm thụ cái đẹp
và giá trị của tác phẩm văn chương nghệ thuật. Năng lực tạo lập văn bản của học
sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức về các kiểu văn bản, với ý
thức và tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn hóa, cùng kĩ năng thực hành tạo lập văn
bản, theo các phương thức biểu đạt khác nhau, theo hình thức trình bày miệng hoặc
viết. Thông qua các năng lực học tập của bộ môn để hướng tới năng lực chung và
các năng lực đặc thù của mơn học.


Hệ thống năng lực dành cho phân môn tiếng Việt THPT

Từ thống kê của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống trong bài “Xây dựng chương trình
giáo dục phổ thơng theo định hướng phát triển năng lực” đăng trên Tạp chí Tia
sáng ngày 9 tháng 6 năm 2011, dựa vào u cầu, mục đích của chương trình Ngữ
7


văn THPT và chuẩn kiến thức – kĩ năng môn Ngữ văn (tiếng Việt), tác giả Phạm
Thị Thu Hương đã đề xuất hệ thống năng lực riêng dành cho phân mơn tiếng Việt,
ngồi ra tác giả chỉ rõ trong mỗi năng lực này cịn có thể chia thành các năng lực cơ
bản và cụ thể hóa thành hệ thống những kĩ năng khi thiết kế bài tập, cụ thể là:
-

-


Năng lực làm chủ ngôn ngữ gồm: giao tiếp, đọc – viết, phỏng vấn và trả lời
phỏng vấn, sử dụng các biện pháp tu từ, sử dụng phong cách ngôn ngữ trong
từng hoàn cảnh, …
Năng lực giải quyết vấn đề gồm: trình bày một vấn đề, đưa ra nhiều phương
án giải quyết vấn đề, sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ, …
Năng lực tư duy phê phán, tư duy logic
Năng lực sử dụng công nghệ thông tin

Hệ thống năng lực chung dành cho phân môn Tiếng Việt được xây dựng dựa
trên hệ thống năng lực chung và bổ sung thêm một số năng lực cần thiết cho môn
học, cũng như lược bỏ bớt những năng lực không cần thiết.
2.

Đặc trưng và những quy tắc dạy học tiếng Việt trong chương trình
THPT
2.1 Đặc điểm của chương trình tiếng Việt ở THPT

Tiếng Việt là phân mơn có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giáo
dục, bồi dưỡng, phát triển năng lực cũng như nhân cách của học sinh trong nhà
trường. Đặc biệt với việc phát triển khả năng ngôn ngữ thì việc học tiếng Việt lại
càng trở nên thiết thực nhất là trong thời kì hội nhập ngày nay.
Phân mơn tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành có một số
đặc điểm sau đây:
-

-

Về hình thức, trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành,
phân môn tiếng Việt được biên soạn xen kẽ với các phần Văn học và Làm
văn. Phần tiếng Việt còn được thể hiện ở các mục chú giải từ ngữ sau mỗi

văn bản, ở những mục đề cập đến việc dùng ngôn ngữ trong làm văn, ở bảng
tra cứu về từ ngữ Hán Việt.
Về nguyên tắc biên soạn, chương trình Tiếng Việt được biên soạn theo các
nguyên tắc sau đây:

+ Nguyên tắc tích hợp (xen kẽ và phối hợp phần tiếng Việt với Làm văn và Văn
học ở những nội dung gần gũi. Ví dụ, ở chương trình lớp 10, khi học về phần Văn
học dân gian thì phần tiếng Việt học sinh sẽ được học về phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt, về đặc điểm của ngơn ngữ nói và luyện tập về phép tu từ ẩn dụ, hoán dụ, …)
8


+ Nguyên tắc đi từ nội dung quen thuộc, gần gũi đến những kiến thức mới. Ví dụ,
từ hoạt động giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày đến phân biệt ngơn ngữ dạng nói,
dạng viết, đến các loại phong cách ngôn ngữ chức năng như: phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, …
+ Những vấn đề học sinh đã được học ở THCS về từ và câu thì cơ bản khơng học
lại mà khi cần thiết và có điều kiện chỉ ơn tập và nâng cao dưới hình thức thực
hành. Đây cũng là lí do vì sao các bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ
văn THPT chưa được chú trọng và phát huy hiệu quả.
-

-

Về phương pháp trình bày, các bài học tiếng Việt chủ yếu trình bày theo
hướng quy nạp. Kiến thức được hình thành thơng qua hoạt động tìm hiểu
theo câu hỏi hoặc bài tập thực hành. Qua hệ thống câu hỏi trong sách giáo
khoa, học sinh tích cực tìm hiểu kiến thức, luyện tập kĩ năng. Việc củng cố
kiến thức, nâng cao và mở rộng kiến thức, kĩ năng cũng thông qua luyện tập,
thực hành. Phần ghi nhớ sẽ chốt lại những kiến thức và kĩ năng chủ yếu nhất.

Chỉ có vài bài thiên về cung cấp lí thuyết có dung lượng kiến thức nhiều và
mới thì được viết theo kiểu trình bày thơng tin như bài “Khái qt về lịch sử
tiếng Việt” hay bài “Đặc điểm của ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết”.
Về quan hệ giữa lí thuyết và thực hành, các bài tiếng Việt lấy phương châm
thực hành làm chủ đạo.
2.2

Những nguyên tắc trong dạy học tiếng Việt nói riêng, dạy học Ngữ
văn nói chung

Việc dạy học Ngữ văn nói chung và dạy phân mơn tiếng Việt trong chương
trình Ngữ văn THPT nói riêng cần tn thủ theo một số nguyên tắc cơ bản sau:
-

-

Thứ nhất, nguyên tắc mục tiêu: Nhận diện => Lí giải => Vận dụng
Thứ hai, nguyên tắc kết hợp lí thuyết với thực hành: Lí thuyết  Thực hành
Thứ ba, nguyên tắc sư phạm: Dễ => Khó, Đơn giản => Phức tạp, Ứng dụng
=> Sáng tạo
Thứ tư, nguyên tắc khoa học và hệ thống:
+ Cơ bản và chính xác
+ Lặp lại và nâng cao
+ Tích hợp và tích cực
Thứ năm, nguyên tắc thích hợp và thiết thực:
+ Thích hợp và thiết thực về mục đích
+ Thích hợp và thiết thực về đề tài
+ Thích hợp và thiết thực về yêu cầu
9



3.

Cấu trúc chương trình và cấu trúc bài học các bài thực hành tiếng Việt
trong chương trình THPT hiện nay

3.1 Cấu trúc chương trình
Trong chương trình Ngữ văn THPT, ban cơ bản hiện hành, ta nhận thấy các
bài thực hành tiếng Việt được phân bố ở cả ba lớp 10, 11 và 12. Chương trình Ngữ
văn lớp 10, mỗi học kì có 1 bài thực hành; chương trình ngữ văn lớp 12 mỗi học kì
có 2 bài thực hành; trong khi đó, chương trình Ngữ văn lớp 11 các bài thực hành
chủ yếu được phân bố ở học kì 1 (học kì 2 khơng có). Cụ thể như sau:
Lớ
p

10

11

12

Họ
c kì

Tuần

1

14


Thực hành biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ

1

2

29

Thực hành các biện pháp tu từ phép điệp và phép
đối

1

1

5

Thực hành về thành ngữ, điển cố

1

6

Thực hành về nghĩa của từ trong sử dụng

1

12

Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong

câu

1

15

Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn
bản

1

11

Thực hành một số phép tu từ ngữ âm

1

13

Thực hành một số phép tu từ cú pháp

1

25

Thực hành hàm ý

1

26


Thực hành hàm ý (tiếp theo)

1

1
2

Tên bài

Số tiết
theo
PPCT
*

(*) Tuỳ theo địa phương, PPCT theo cách mở như gợi ý của Bộ GD-ĐT, ở
đây sử dụng cách PPCT từ thực tế đơn vị.
3.2 Cấu trúc bài học
Các bài học thực hành được tác giả SGK (bộ cơ bản), biên soạn thành các
dạng bài tập được triển khai theo số thứ tự.
Lớ
p

Tuần

Tên bài

Số tiết
theo
10


Cấu trúc bài học


PPCT
*
10

11

14

Thực hành biện pháp
tu từ ẩn dụ và hoán
dụ

1

I.
II.

Ẩn dụ (3 bài tập)
Hoán dụ (3 bài tập)

29

Thực hành các biện
pháp tu từ phép điệp
và phép đối


1

I.

Thực hành về phép điệp
(điệp ngữ) (2 bài tập)
Thực hành về phép đối
(3 bài tập)

5

Thực hành về thành
ngữ, điển cố

1

Có 7 bài tập được đánh số thứ tự
từ 1 đến 7

6

Thực hành về nghĩa
của từ trong sử dụng

1

Có 5 bài tập được đánh số từ 1
đến 5

12


Thực hành về lựa
chọn trật tự các bộ
phận trong câu

1

Thực hành về sử
dụng một số kiểu câu
trong văn bản

1

15

II.

I.
II.
I.
II.
III.

IV.

12

11

Thực hành một số

phép tu từ ngữ âm

1

I.

II.

13

Thực hành một số
phép tu từ cú pháp

1

I.
II.
III.

11

Trật tự trong câu đơn (3
bài tập)
Trật tự trong câu ghép
(2 bài tập)
Dùng kiểu câu bị động
(2 bài tập)
Dùng kiểu câu có khởi
ngữ (3 bài tập)
Dùng kiểu câu có trạng

ngữ chỉ tình huống (3
bài tập)
Tổng kết việc sử dụng
ba kiểu câu trong văn
bản
Tạo nhịp điệu và âm
hưởng cho câu (3 bài
tập)
Điệp âm, điệp vần, điệp
thanh (3 bài tập)
Phép lặp cú pháp (3 bài
tập)
Phép liệt kê (1 bài tập)
Phép chêm xen (2 bài
tập)


25

Thực hành hàm ý

1

Có 4 bài tập được đánh số thứ tự
từ 1 đến 4

26

Thực hành hàm ý
(tiếp theo)


1

Có 5 bài tập được đánh số thứ tự
từ 1 đến 5

II.Cơ sở thực tiễn
1.

Thực trạng việc dạy học môn Ngữ văn trong trường THPT hiện nay

Nói đến thực trạng dạy học Ngữ văn trong trường THPT hiện nay, bên cạnh
những phương pháp đổi mới được áp dụng vào giảng dạy, ta cịn nhận thấy vẫn tồn
tại khơng ít những hiện tượng khá phổ biến còn tồn tại nhiều hạn chế như:
-

Thứ nhất, phương pháp dạy học còn theo lối truyền thống, theo lối cũ, chỉ
dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Việc dạy văn hầu như chỉ có một đường là
“giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”. Phần Làm văn đa số chỉ dạy lí thuyết
rồi ra đề cho HS tập làm theo nhứng yêu cầu của đề, học sinh viết lại những
điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở
những điều đã biết. Đề thi tuy có sự đổi mới về kiểm tra đánh giá năng lực
người học nhưng khơng ít đề ra theo dạng tái hiện kiến thức, ghi nhớ.

-

Thứ hai, trong các giờ dạy học trên lớp, học sinh chưa được xem là chủ thể
của các hoạt động học văn. Người giáo viên chưa trao cho các em tính chủ
động trong học tập, vai trò chủ đạo vẫn thuộc về người thầy, học sinh chưa
chủ động kiến tạo kiến thức của mình. Khi coi học sinh là chủ thể của hoạt

động học tập thì giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học
tập để học sinh tự lĩnh hội kiến thức của mình.

-

Thứ ba, các giờ học văn vẫn dừng lại ở việc học sinh học theo cách diễn giải
của thầy, chưa tự mình khám phá những cách hiểu mới. Phương pháp này
cịn mang tính áp đặt, một chiều.

Như vậy, có thể thấy với phương pháp giảng dạy hiện tại, giờ học văn chưa
thực sự tạo ra nhiều hứng thú, đam mê đối với người học. Thực trạng dạy học văn
như trên không phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, khơng cố gắng, mà chủ
yếu là do vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói
chung và dạy học văn nói riêng. Lí luận dạy học đặc biệt là lí luận dạy học Ngữ văn
ở nước ta chưa có được sự đổi mới đồng nhất, tồn diện chỉ mới dừng lại phần
nhiều ở lí thuyết, phổ biến ở các thành phố có điều kiện phát triển giáo dục chứ
12


chưa được áp dụng rộng rãi, phổ biến. Vì vậy, vấn đề đặt ra làm sao áp dụng được
những lí thuyết dạy học mới, tạo được sự hứng thú và phát huy được năng lực cho
học sinh là điều cần thiết.
2.

Thực trạng việc dạy học bài thực hành tiếng Việt trong chương trình
Ngữ văn hiện nay

Xuất phát từ thực tế dạy học, chúng tôi nhận thấy một số thực trạng đối với
việc dạy và học các bài thực hành tiếng Việt trong trường THPT hiện nay như sau:
-


-

-

-

-

Thứ nhất, phân mơn tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT nói chung
và trong cấu trúc chương trình thi tốt nghiệp THPT và thi đại học nói riêng
chỉ chiếm một phần nhỏ. Do vậy, học sinh và một số giáo viên ngán ngại khi
dạy và học phần tiếng Việt hơn phần văn.
Thứ hai, thời gian học khơng nhiều, lại ít có sự đào sâu dẫn đến hiện trạng
phổ biến khó nhớ, mau qn, học vẹt, học thuộc lịng chứ thật sự khơng hiểu
hết vấn đề. Kiến thức nói chung và phần lý thuyết tiếng Việt nói riêng học ở
năm học trước thì năm sau đã quên, chưa nói đến chuyện học ở THCS lên
bậc THPT mới thực hành. Do vậy, học sinh thụ động trong việc tiếp nhận
kiến thức, ít chịu hỏi lại những vấn đề mình chưa hiểu kỹ, chưa khắc sâu, …
phần đông các em cho qua, không để tâm đến.
Thứ ba, học sinh khơng có nhiều hứng thú với giờ tiếng Việt, một phần vì
kiến thức khơng mới lại thiên về thực hành, vận dụng, các bài tập còn thiên
về lí thuyết, mang tính hàn lâm; một phần vì nhiều bạn đã quên những kiến
thức cơ bản, được học về tiếng Việt ở THCS nên khơng thích thú với giờ
thực hành.
Hơn nữa, khi hướng dẫn học sinh thực hành, nhiều giáo viên bị sơ cứng,
khơng linh động, ít sáng tạo nên hiệu quả đạt được so với mục tiêu bài học
đặt ra chưa thực sự như ý muốn. Giờ học tiếng Việt trong nhà trường THPT
chỉ dừng lại ở hình thức thầy hướng dẫn, trị làm bài chưa thực sự có nhiều
hoạt động đa dạng, hấp dẫn.

Cuối cùng, nhận thấy sách giáo khoa biên soạn các bài thực hành tiếng
Việttheo chương trình tích hợp, kiến thức rộng nhưng giờ lên lớp cho phần
thực hành lại bị khống chế (đa số các tiết thực hành chỉ có 45 phút, tức tương
đương với một tiết dạy).

Từ những yếu tố khách quan cũng như chủ quan vừa nêu trên, ta nhận thấy
những tiết học thực hành tiếng Việt trong trường THPT hiện nay chưa thực sự nhận
13


được sự say mê, yêu thích của học sinh cũng như chưa thực sự phát triển được hết
khả năng, năng lực cho các em học sinh.

CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ DẠY HỌC CÁC BÀI THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC
I.
1.

Những yêu cầu khi thiết kế dạy học các bài thực hành tiếng Việt theo
hướng phát triển năng lực
Dạy học tiếng Việt gắn với nói, viết, nghe, đọc để phục vụ cho việc phát
triển các kĩ năng giao tiếp

Mục tiêu dạy học các bài tiếng Việt nói chung và các bài thực hành tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn THPT nói riêng được quy định trong mục tiêu dạy học
môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thơng. Đó là phát triển năng lực giao tiếpở học
sinh, cụ thể là biết vận dụng kiến thức tiếng Việt vào thực hành bốn kĩ năng đọc,
viết, nói và nghe một cách thành thạo và hiệu quả. Rèn kĩ năng nói bao gồm rất
nhiều nội dung từ việc rèn luyện cách phát âm (đúng chính tả), rèn luyện kĩ năng

nói có ngữđiệu, đến các kĩ năng dùng từ, tạo câu, sử dụng các nghi thức lời nói tuân
thủ phương châm hội thoại… Việc rèn kĩ năng viết được chú trọng qua nhiều tầng
bậc: kĩ năng dùng từ, kĩ năng đặt câu khi viết, kĩ năng lập dàn ý, kĩ năng viếtđoạn,
viết văn bản hoàn chỉnh. Rèn luyện kĩ năng nghe có liên quan mật thiết tới rèn
luyện kĩ năng nói bởi kĩ năng nghe và nói có liên quan mật thiết đến nhau. Việc rèn
luyện kĩ năng nghe được thông qua các hoạt động khác nhau như nghe - kể lại,
nghe – ghi chép, nghe - phản hổi. Cịn kĩ năng đọc khơng chỉ dừng lạiở u cầu
đọcđúng, đọc diễn cảm một văn bản mà cần chú trọng yêu cầu đọc - hiểu đúng,
hiểu sâu văn bản. Việc rèn kĩ năng đọc thông qua các hoạt động như: tóm tắt lại văn
bản đã học, ghi lại hay kể lại văn bản bằng ngôn ngữ của bản thân, chuyển lời nói
trực tiếp thành lời nói gián tiếp, đọc phản hồi văn bản, … Ví dụ, ta có thểáp dụng
việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói vào bài Thực hành về nghĩa của từ trong sử
dụng (Ngữ văn 11, tập 1)cụ thể với bài tập 2, thay vì yêu cầu các em học sinh làm
việc độc lập thực hiện yêu cầu của bài, giáo viên có thể cho học sinh hoạt động
theo cặp, xây dựng các đoạn hội thoại có sử dụng các từ có nghĩa gốc chỉ bộ phận
cơ thể người (đầu, chân, tay, miệng, óc, tim, …) chuyển nghĩađể chỉ cả con người.
14


Sau đó, gọi 2 – 3 cặp lên thực hiệnđoạn hội thoại của mình (2 học sinh lên trình bày
khi đóđã thực hiện kĩ năng nói), các bạn học sinh bên dưới chúý lắng nghe đồng
thời xác định những từđược dùng với nghĩa chuyển trong đoạn hội thoại của các
bạn. Như vậy, nhiệm vụ học tập được chuyển giao vừa hồn thiện được bài tập, vừa
rèn kĩ năng nói và nghe cho học sinh, đồng thời rèn kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng
trình bày, phát hiện, …
Để phục vụ cho việc phát triển các kĩ năng giao tiếp trong học tập và sinh
hoạt hằng ngày, trong dạy học tiếng Việt đặc biệt là những bài thực hành cần chú
trọng đến các ngữ liệuđược lấy từ thực tiễn. Vì vậy, hệ thống bài tập nên gắn với
tình huống giao tiếp thực của đời sống vừa làm tăng sự hứng thú cho học sinh, tạo
sự hấp dẫn cho giờ học, đồng thời cũng phục vụ cho thực tiễn giao tiếp của các em.

Ví dụ, khi dạy bài Thực hành về các phép tu từ: phép điệp, phép đối (Ngữ văn 10,
tập 2), giáo viên có thểđưa ra một tình huống cụ thể (nói chuyện về một người bạn
giàu nghị lực trong lớp/ trường) và yêu cầu học sinh làm việc theo cặp, tạo câu
trong hội thoại có sử dụng phépđiệp, phép đối. Sau đó, chỉ ra hiệu quả của việc sử
dụng (giá trị gợi hình, gợi cảm, …) Những tình huống thực tế không chỉ tạo ra cho
học sinh môi trường giao tiếp tốt để thực hành sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên
thuận lợi mà còn giúp các em nhận thấy được sự thiết thực, hữuích của việc học khi
có thể vận dụng những kiến thức học được vào việc giải quyết các vấn đề trong
cuộc sống.
2.

Phát huy vốn tiếng Việt sẵn có của học sinh, tăng cường yêu cầu thực
hành, vận dụng

Những bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT thuộc
dạng bài luyện tập. Loại bài này hướng tới việc rèn kĩ năng lĩnh hội và sử dụng
cácđơn vị kiến thức ngôn ngữđã học (phương tiện, biện pháp tu từ, một số quy tắc
sử dụng tiếng Việt, …). Thông qua hệ thống bài tập, học sinh giải quyết các nhiệm
vụ nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năngđã họcở các bài trước hoặcở những
lớp dưới. Ví dụ như các bài Thực hành một số phép tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, điệp
ngữ, …), Thực hành sử dụng một số các kiểu câu trong văn bản, …
Như vậy, với các bài thực hành tiếng Việt, học sinh được tiếp xúc với một
đối tượng quen thuộc, bởiđó là ngơn ngữ các em sử dụng hằng ngày. Hơn nữa, trải
qua bậc THCS, các em đã có được những kiến thức phổ thông cơ bản về ngôn ngữ,
đã được hình thành và rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Vì vậy, khi dạy
học các bài thực hành tiếng Việt cho học sinh bậc THPT, giáo viên cần phải chúý
đến trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh để phát huy tính tích cực, chủ động của
15



học sinh trong từng bài học. Dựa vào những kinh nghiệm, vốn hiểu biết sẵn có của
họcsinh về tiếng Việt, giáo viên có thể biến giờ thực hành (trước kia chỉ là giờ làm
bài tập) thành giờ học với nhiều hoạt động phong phú hơn như các buổi thảo luận
hoặc thuyết trình với các trị chơi ngơn ngữ, các tiết mục diễn xuất, thậm chí là thực
hành sáng tác, … Ví dụ như bài Thực hành các phép tu từ: phép điệp, phép
đối(Ngữ văn 10, tập 2) giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm nhỏ tổ chức trị
chơiTiếp sức, các nhóm cửđại diện lên bảng trong vịng 5 phút tìm thật nhiều các ví
dụ có sử dụng phépđiệp trong kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ hoặc trong các
tác phẩm em đã được học, nhóm nào tìm được nhiều đáp án hơn sẽ chiến thắng.
Hoặc cũng trong tiết hoc đó, giáo viên có thể tổ chức hoạt động đối thơ: chia lớp
thành hai nhóm, các nhóm lần lượt ra vế đốiđể nhóm kia đối lại, … Các hoạt động
như vậy vừa huy động, vừa vận dụng được các kiến thứcđã học, vừa hồn thiện
thói quen sử dụng tiếng Việt nhằm nâng cao hiệu quả giao tiếp cho học sinh.
Với những bài thực hành tiếng Việt thì hoạt động thực hành, vận dụng phải
hết sức được coi trọng. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa hiện hànhđã cho thấy
hầu hết nội dung của các bài thực hành tiếng Việt là trực tiếp hoàn thiện các dạng
bài tập cụ thể chứ khơng dành thời gian học lại lí thuyết rồi mới luyện tập. Do vậy,
giáo viên cần triển khai các hoạt động thực hành khác nhau để tạo nên sự phong
phú, hấp dẫn, có sức lơi cuốn với học sinh, có tác dụng tích cực đối với việc củng
cố, nâng cao kiến thức và rèn luyện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Ví dụ trong bài
Thực hành một số phép tu từ cú pháp (Ngữ văn 12, tập 1), để thực hành phần I.
Phép lặp cú pháp, giáo viên có thể cho học sinh hoạt động cá nhân bài tập 1 để tất
cả học sinh cùng củng cố kiến thức vềphéplặp. Tiếp đến bài tập 2, yêu cầu so sánh
hiện tượng lặp kết cấu cú pháp trong những câu văn xuôi, những câu thơở bài tập 1
với những kết cấu của những câu thuộc thể loại khác, với bài tập này giáo viên có
thể cho học sinh thảo luận theo nhóm để có thểđưa ra được nhiềuý kiến, quan điểm
hơn khi so sánh. Tới bài tập 3, để thay đổi khơng khí, thu hút sự tập trung của học
sinh, giáo viên có thể tổ chức trị chơi để các em tìm kiếm các ví dụ về phép lặp
theo yêu cầu của đề bài. Sựđa dạng trong hình thức luyện tập sẽ góp phần tăng hiệu
quả giờ thực hành cũng như chú trọng rèn luyện các năng lực, kĩ năng cần thiết cho

học sinh.
3.

Tổ chức và thực hiện dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp

Như ta được biết, học tiếng Việt không chỉ dừng lạiở việc hiểu về nó mà phải
biết cách sử dụng thành thạo công cụ này trong hoạt động tư duy và giao tiếp.
Vìvậy, dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp nghĩa là giáo viên cần phải tìm
16


mọi cách hướng học sinh vào hoạt động giao tiếp. Tác giả Lê A cho rằng: “Phương
pháp giao tiếp là cách thức hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào
thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân
tố tham gia vào hoạt động giao tiếp.” Theo đó, giáo viên cần tiến hành một số thao
tác sau đây: tạo tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho
học sinh; học sinh xác định hướng giao tiếp khi tiến hànháp dụng các tri thức tiếng
Việt. Nói cách khác, các em cần phải trả lời được các câu hỏi sau: Nói (viết) với ai?
Về cái gì?Trong hồn cảnh nào? học sinh căn cứ vào nhiệm vụ giao tiếpđể tạo ra
các lời nói cụ thể, đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm. Như vậy, bản chất cốt lõi
của phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp là giáo viên phải hướng vào
người học, tích cực hố hoạt động của người học.
Ví dụ, khi dạy bài Thực hành về thành ngữ, điển cố (Ngữ văn 11, tập 1), để
học sinh nhớ lại được khái niệm “thành ngữ” (họcở lớp 7), giáo viên cần thiết kế
nhiệm vụ giúp học sinh huy động kiến thức nhận diệnđúng thành ngữ, sau đó là tạo
câu có sử dụng thành ngữ, chỉ ra tác dụng của thành ngữ (bằng cách thay thế thành
ngữ bằng từ/ cụm từ có nghĩa tương đương); và cuối cùng là biết vận dụng thành
ngữ trong tạo lập hội thoại (nói) và tạo lập văn bản (viết) nhằm nâng cao hiệu quả
giao tiếp. Về khái niệm “điển cố” giáo viên cũng xây dựng những nhiệm vụ học tập
tương tự như trên, có thể tập trung thêm vào việc lí giải cácđiển cốđó. Những

nhiệm vụ dạy học này cần được thiết kế dưới dạng hoạt động và triển khai theo
hướng giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh thực hiện nhiệm vụ và tựđánh giá mức
độđạt được (khuyến khích đa dạng các hình thức học tập cá nhân, cặpđơi, nhóm);
giáo viên hồiđáp và chuyển giao nhiệm vụ mới…
Như vậy, tổ chức dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp, giáo viên
nhấtđịnh phải hướng đến năng lực giao tiếp, chúýđánh giá tồn diện các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết; chúý tới sự tiến bộ và tiềm năng của học sinh trong việc sử
dụng các kĩ năng ngơn ngữ, từđó làm tăng hiệu quả của hoạt động dạy học.
II.

Quy trình và một số phương pháp, kĩ thuật dạy học có thểáp dụng vào
dạy các bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT
1. Quy trình dạy các bài thực hành tiếng Việt

Những bài học tiếng Việt trong sách giáo khoa chủ yếu được chia thành hai
loại: thứ nhất là loại bài hình thành kiến thức mới (ví dụ như: các bài về Phong
cách ngơn ngữ, Đặcđiểm loại hình của tiếng Việt, Ngữ cảnh, Đặcđiểm của ngơn
ngữ nói và ngôn ngữ viết, …); thứ hai là loại bài luyện tập - những bài thực hành
tiếng Việt thuộc dạng này.
17


Nếu như với những bài hình thành kiến thức, một giờ dạy theo hướng phát
triển năng lực sẽ bao gồm 5 hoạt động:
1)
2)
3)
4)
5)


Hoạt động khởiđộng
Hoạt động hình thành kiến thức
Hoạtđộng luyện tập, củng cố
Hoạt động vận dụng
Hoạt động tìm tịi, mở rộng

thì với loại bài luyện tập, khơng có phần hình thành kiến thức, thực chất loại bài
này là sự xoáy sâu, mở rộng của hoạt động thực hành, luyện tập nên khi thiết kế
giáo án, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt phương pháp giao tiếpđể thiết kế theo
quy trình sau:
-

Giới thiệu, nêu u cầu bài học/ có thể tích hợp với hoạt động khởi động
Giáo viên hướng dẫn giao nhiệm vụ 1.
Học sinh thực hiện nhiệm vụ 1.
Giáo viên hồiđáp kết quả.
Giáo viên hướng dẫn giao nhiệm vụ 2 …

Các hoạt động dạy học tuần tự thực hiện cho đến khi kết thúc giờ học. Để
tránh cảm giác nhàm chán khi thực hiện tiếp nối các hoạt động, giáo viên nên sử
dụngđa dạng các biện pháp dạy học như thu thập thông tin, điền khuyết thông tin,
chuyển đổi xử lí thơng tin, trị chơi, đóng vai, tranh luận, …
2.

Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực có thểứng dụngvào các bài thực hành tiếng Việt trong
chương trình THPT

Với xu thế đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực như
hiện nay, ta nhận thấy việc lựa chọn phương pháp và các kĩ thuật dạy học để xây

dựng một hoạt động học tập là điều rất quan trọng và cần thiết. Việc vận dụng các
phương pháp và kĩ thuật dạy học cần tuân thủ theo những định hướng chung của
chương trình Giáo dục Phổ thơng 2018 như: dạy học tích hợp và phân hố, đa dạng
hố các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh.
Ứng dụng vào dạy học mơn Ngữ văn nói chung và phân mơn tiếng Việt nói
riêng có rất nhiều các phương pháp và kĩ thuật dạy học khác nhau.
-

Một số phương pháp dạy học như:
+ Dạy học hợp tác
+ Dạy học giải quyết vấn đề
18


+ Dạy học theo dựán
+ Phương pháp đàm thoại, gợi mở
+ Phương pháp đóng vai
+ Phương pháp dạy học theo mẫu …
-

Một số kĩ thuật dạy học như:
+ Kĩ thuật khăn trải bàn
+ Kĩ thuật sơ đồ tư duy
+ Kĩ thuật bốn ơ vng
+ Kĩ thuật phịng tranh…

Các phương pháp và kĩ thuật dạy học này, ta có thể dễ dàng tìm hiểu trong
các tài liệu bồi dưỡng giáo viên, qua các phương tiện thông tin cũng như các sách
hướng dẫn dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Đây cũng là những

phương pháp dễ vận dụng trong thiết kế bài dạy, không cần nhiều điều kiện chuẩn
bị đồng thờiđem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, khơng có một phương pháp, kĩ thuật
dạy học nào là tốiưu có thể dành cho mọi tình huống và mọi đối tượng học sinh.
Mỗi phương pháp, kĩ thuật dạy học đều có những ưu và nhượcđiểm nhất định. Vì
vậy, căn cứ vào mục tiêu, nội dung, đối tượng dạy học và cơ sở vật chất, điều kiện
sở trường, mỗi giáo viên cần lựa chọn và sử dụng cũng như phối hợp nhiều phương
pháp, kĩ thuật dạy học vào thực tiễn giảng dạy đểđạt được hiệu quả tốt nhất.
III.

Giáo án thiết kế một số bài thực hành tiếng Việt trong chương trình Ngữ
văn THPT theo định hướng phát triển năng lực

Đáp ứng các yêu cầu dạy học tiếng Việt theo tinh thần đổi mới cùng với
việcứng dụng một số các phương pháp, kĩ thuật dạy học Ngữ văn theo định hướng
phát triển năng lực cho học sinh, chúng tôi xin đưa ra một số giáo án thiết kế bài
thực hành tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho ba bộ phận của phân
mơn tiếng Việt. Đó là bài thực hành về biện pháp tu từ, bài thực hành về từ vựng và
bài thực hành về câu.
1.

Giáo án 1: Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ

THỰC HÀNH PHÉP TU TỪ ẨN DỤ VÀ HOÁN DỤ
Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1) – cơ bản
A.
1.
-

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Kiến thức:

Ôn tập, củng cố và nâng cao sự hiểu biết về hai phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ.
19


2.

Tích hợp với vốn sống, vốn văn chương đã học và với các bài làm văn tự sự
có yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Kĩ năng: Rèn kĩ năng thẩm định và vận dụng hai phép tu từ ẩn dụ, hoán dụ.

B.
1.
2.

CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
Giáo viên: Soạn giáo án, đọc thêm tài liệu, soạn powerpoint…
Học sinh: xem lại bài cũ, soạn bài mới.

C.
-

PHƯƠNG PHÁP
Giáo viên sử dụng phương pháp: thảo luận nhóm, vấn đáp, chơi trị chơi ...
phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS

D.
1.
2.

PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC

Giáo viên: SGK, SGV, giáo án, máy chiếu, ...
Học sinh: SGK, vở ghi, ...

E.
1.
2.

TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Ổn định tổ chức
Bài mới

-

Hoạt động 1: KHỞI ĐỘNG


Mục đích: Thu hút sự tập trung, tư duy, nhận thức, gợi hứng thú, chuẩn bị
tâm thế, huy động kiến thức liên quan làm hành trang để tiếp nhận kiến thức
mới.



Phương pháp: trực quan, trải nghiệm



Thời gian: 5 phút
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt


Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

Các biện pháp tu từ từ vựng đã được học ở
Hãy kể tên các biện pháp tu từ từ vựng đã THCS:
học ở THCS?
- So sánh
- Nhân hoá
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
- Ẩn dụ
HS: suy nghĩ, thảo luận, ghi vào bảng
- Hoán dụ
phụ.
- Điệp ngữ
- Chơi chữ
GV: Quan sát, hỗ trợ HS
- Nói giảm, nói tránh
Bước 3: Báo cáo kết quả
- Nói quá
HS mỗi nhóm cử đại diện, báo cáo kết
- …
quả thảo luận
20


GV: quan sát, hỗ trợ
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ
GV: nhận xét, chuẩn hoá kiến thức


HS: Lắng nghe

GV dẫn dắt vào bài mới: Ẩn dụ và hoán
dụ là hai phép tu từ khá quan trọng mà
trong chương trình THCS các em đã được
học. Hơm nay, chúng ta sẽ học bài “Thực
hành phép tu từ ẩn dụ và hốn dụ” để
giúp các em ơn tập, củng cố và nâng cao
sự hiểu biết về hai phép tu từ ẩn dụ và
hoán dụ.
Hoạt động 2: Luyện tập, thực hành


Mục đích: Luyện tập, củng cố và nâng cao kiến thứcđã có của học sinh về
hai biện pháp ẩn dụ và hốn dụ thơng qua các bài tập thực hành.



Phương pháp: thảo luận nhóm, chơi trị chơi, …



Thời gian: 35 phút

Thao tác 1: GV hướng dẫn HS thực
hành vềẩn dụ
Bài 1: SGK/135

I.


Ẩn dụ

Bài 1: SGK/135

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

a.

GV: chia lớp làm 4 nhóm, thảo luận yêu
cầu của bài tập 1 trong vòng 5 phút.

+ Thuyền, con đò → con trai
Di chuyển

không cố định

+ Bến, bến cũ → con gái

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

cố định
HS: đọc những câu ca dao trong SGK và => son sắt, thuỷ chung
trả lời câu hỏi, ghi đáp án vào giấy A0
+ Cây đa, bến cũ: chỉ người có quan hệ
gắn bó nhưng phải xa nhau
- Những từ “thuyền, bến, cây đa, con

-

đò” khơng chỉ là thuyền bến mà

cịn mang nội dung ý nghĩa khác.
Nội dung ý nghĩa ấy là gì?
Thuyền và bến ở câu (1) với cây đa
bến cũ, con đò ở câu (2) có gì khác
nhau?

Bước 3:Báo cáo kết quả
HS mỗi nhóm cử đại diện, báo cáo kết
21

b.
-

Khác nhau:
Thuyền - bến: con trai – con gái
Bến – đị: Hai người có quan hệ gắn
bó nhưng vì điều kiện phải xa nhau.


quả thảo luận
GV: quan sát, hỗ trợ
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ
GV: nhận xét, chuẩn hoá kiến thức
Bài 2: SGK/135
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

Bài 2: SGK/135

GV: tổ chức trò chơi “Con số may mắn”


-

Luật chơi: Có 6 con số, trong đó từ số 1
đến số 5, mỗi con số tương ứng với
mộtđoạn trích trong bài tập 2 và số 6 là
con số may mắn. 4 nhóm lần lượt bốc
thăm con số của mình, bốc vào con số
nào thì phải tìm và phân tích phép ẩn dụ
có trong đoạn trích của con sốấy. Trả lời
đúng thì được 1 điểm, trả lời sai cơ hội
dành cho nhóm nào giành quyền nhanh
nhất bằng cách xung phong. Nếu nhóm
bốc được con số 6 thì khơng cần trả lời
vẫn ghi được 1 điểm.

-

-



Đoạn trích (1): lửa lựu – hoa lựu đỏ
như lửa
Đoạn trích (2): (văn nghệ) ngịn
ngọt, (tình cảm) gầy gị - ẩn dụ chỉ
văn nghệ khơng có sức sống mạnh
mẽ, khơng có tính chiến đấu; tình
cảm yếu đuối, uỷ mị.
Đoạn trích (3): giọt (tiếng chim) –

âm thanh của tiếng chim hót có vẻ
đẹp của giọt nước long lanh dưới
ánh nắng mặt trời.
Đây là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác:
từ thính giác sang thị giác, xúc giác.
Đoạn trích (4):

Kết thúc trò chơi, đội nào giành được
nhiều điểm nhất sẽ chiến thắng.
+ Thác - ẩn dụ chỉ sự gian khổ, khó khăn

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

+ Thuyền - ẩn dụ chỉ sự nghiệp cách
HS:Đại diện mỗi nhóm sẽ lên bốc thăm mạng.
con số và cả nhóm sẽđưa ra câu trả lời
- Đoạn trích (5):
trong vịng 1 phút. Các nhóm còn lại sẽ + Phù du: chỉ những cái phù phiếm, khơng
theo dõi, nhận xét.
có ích lợi cho cuộc sống; chỉ cuộc sống
Bước 3:Báo cáo kết quả

trơi nổi.

HS: mỗi nhóm cử đại diện, báo cáo kết + Phù sa: ẩn dụ chỉ những cái ích lợi cho
quả thực hiện nhiệm vụ
cuộc sống; cuộc sống mới, đầy triển vọng
GV: quan sát, hỗ trợ, trong vai trò là tốt đẹp cho con người.
người quản trò.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả

thực hiện nhiệm vụ
GV: Tổng hợpđiểm số, phân định thắng
22


thua và nhận xét phần tham gia trò chơi
của mỗi nhóm.
Thao tác 2: GV hướng dẫn HS thực
hành về hốn dụ.
Bài 1: SGK/136

II.

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

Hoán dụ

GV: yêu cầu 4 nhóm thảo luận yêu cầu
Bài 1: SGK/136
của bài tập 1 trong vịng 5 phút.
a. Những hình ảnh:
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS:tiếp tục thảo luận theo 4 nhóm đã * Câu (1)
chia ban đầu, đọc những câu thơ trong
- Đầu xanh, má hồng: → Thuý Kiều
SGK và trả lời câu hỏi, ghi đáp án vào
- Đầu xanh: chỉ những người trẻ
giấy A0
tuổi
- Má hồng: + chỉ người con gái đẹp

Bước 3:Báo cáo kết quả
+ thân phận làm gái lầu
HS: mỗi nhóm cử đại diện, báo cáo kết
xanh
quả thảo luận
• Câu (2)
GV: quan sát, hỗ trợ
- Áo nâu: chỉ người nông dân
- Áo xanh: chỉ người công nhân.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ

b.

GV: nhận xét, chuẩn hoá kiến thức.



Bài 2: SGK/137

Để hiểu đúng một đối tượng khi nhà
thơ thay đổi tên gọi của đối tượng
đó, ta phải xác định được mối quan
hệ gần gũi, tương cận giữa các đối
tượng như: quan hệ giữa bộ phận và
toàn thể, giữa trang phục và con
người, giữa nơi ở hay con người, …
Đây là cơ sở để xây dựng hoán dụ
và cũng là cơ sở để hiểu đúng hoán
dụ.


Bài 2: SGK/137

HS: hoạt động cá nhân, đọc yêu cầu bài
tập 2
GV: Em hãy phát hiện và phân biệt hai
phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ được sử
dụng trong câu thơ?
23

a.

Hốn dụ: Thơn Đồi, thơn Đơng: →
chỉ những người thơn Đồi và người


-

GV: Câu thơ của Nguyễn Bính và câu
ca dao ở phần I khác nhau ở điểm nào?

b.
-

-

thôn Đông.
Ẩn dụ: Cau và trầu khơng: → chỉ
những người có tình cảm thắm thiết.
So sánh: Cùng bày tỏ nỗi nhớ người

yêu nhưng:
Câu thơ của Nguyễn Bính: dùng cả
hốn dụ (thơn Đồi, thơn Đơng) và
ẩn dụ (cau trầu).
Câu ca dao thì dùng ẩn dụ (thuyền,
bến) và cách nói mạnh mẽ hơn nhờ
từ láy chỉ mức độ cao “khăng
khăng”.

Hoạt động 3: VẬN DỤNG




Mục tiêu: Giúp HS phân biệt đượcẩn dụ và hoán dụ, tránh hiện tượng nhầm
lẫn giữa hai biện pháp.
Phương pháp: thực hành, tự học
Thời gian: 5 phút
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ

So sánh ẩn dụ và hoán dụ

GV: Qua các bài tập trên, em hãy tìm
những tiêu chí phân biệt ẩn dụ và hốn
dụ?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ

HS: làm việc cá nhân, ghi đáp án vào vở.
Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ
GV: Gọi 2 -3 em HS trình bày kết quả so
sánh ẩn dụ và hoán dụ.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ
GV: nhận xét, chuẩn hoá kiến thức.
GV: Hướng dẫn HS quan sát một sự vật,
nhân vật quen thuộc và thử gọi tên chúng
theo phép ẩn dụ hoặc hoán dụ để viết câu
hoặc đoạn văn
24

Ẩn dụ
+ Dựa trên sự liên tưởng giống nhau (liên
tưởng tương đồng) của hai đối tượng bằng
so sánh ngầm.
+ Thường có sự chuyển nghĩa.


Hoạt động 4: TÌM TỊI, MỞ RỘNG




Mục đích: Khắc sâu và mở rộng nâng cao kiến thức vềẩn dụ và hoán dụ
Phương pháp: tự học, nghiên cứu vấn đề
Thời gian: 5 phút hoặc có thể giao về nhà
Hoạt động của GV và HS


Nội dung cầnđạt

GV: cho HS tìm thêm những câu ca dao, Một số ví dụ như:
tục ngữ có sử dụng nghệ thuật ẩn dụ.
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
HS: Tìm các ví dụ:
- Cháy nhà mới ra mặt chuột …

3.
-

Dặn dị
HS về nhà hồn thành bài tập.
Chuẩn bị bài: “Trả bài viết số 3”

2.

Giáo án 2: Thực hành về thành ngữ, điển cố

THỰC HÀNH VỀ THÀNH NGỮ, ĐIỂN CỐ
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (tập 1) – cơ bản
A.
1.
2.

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Kiến thức: Giúp HS:
Nâng cao hiểu biết về thành ngữ vàđiển cố, về tác dụng biểu đạt của chúng,
nhất là trong các văn bản văn chương nghệ thuật.

Cảm nhận được giá trị của thành ngữ vàđiển cố.
Kĩ năng: Biết cách sử dụng thành ngữ vàđiển cố trong những trường hợp cần
thiết.

B.
1.
2.

CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
Giáo viên: Soạn giáo án, chuẩn bị bài giảng,...
Học sinh: soạn bài, đọc bài trước khi lên lớp.

C.
1.
2.

PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Giáo viên: SGK, SGV, giáo án,máy chiếu...
Học sinh: SGK, vở ghi,...

D.

PHƯƠNG PHÁP
- Giáo viên sử dụng phương pháp: gợi mở, thảo luận nhóm, thực hành...
25


×