Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tiểu luận phê bình văn học của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.38 KB, 101 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG THỊ PHƢƠNG THẢO

TIỂU LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC
CỦA NGUYỄN TUÂN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN

VINH, 2010
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


2
1.1. Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một hiện tượng độc đáo và
phức tạp, một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ơng đã
từng nói: “Tơi quan niệm đã viết văn phải cố viết cho hay và viết đúng
cái tạng riêng của mình. Văn chương cần có sự độc đáo hơn trong bất kỳ
lĩnh vực nào khác”. Ơng nói, và đã làm được như thế. Sức sống của các
tác phẩm của Nguyễn Tuân - trong đó có các tiểu luận phê bình văn học
- khơng chỉ “vang bóng một thời” mà là nhiều thời, để lại khơng ít ấn
tượng sâu sắc trong lịng nhiều thế hệ người đọc. Tìm hiểu và nghiên cứu


Nguyễn Tn cịn là nhu cầu lâu dài...
1.2. Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân, tiểu luận phê bình
là một mảng sáng tác quan trọng. Xưa nay người ta biết đến Nguyễn
Tuân với tư cách một nhà văn đặc biệt sành sỏi về các thể loại tuỳ bút,
truyện, tiểu thuyết… Giờ đây, các áng tiểu luận lại hé lộ thêm một
phương diện khác của tài năng Nguyễn Tuân. Thế nhưng cho đến nay,
mảng văn học rất có ý nghĩa này của ơng vẫn chưa được nghiên cứu một
cách thật đầy đủ và hệ thống. Đi vào nghiên cứu vấn đề này không chỉ có
ý nghĩa đối với riêng việc tìm hiểu Nguyễn Tn mà cịn có ý nghĩa đối
với cơng tác nghiên cứu phê bình văn học nói chung. Cũng từ đây, chúng
ta có thể tìm ra những bài học bổ ích cho việc tìm hiểu nghiên cứu phê
bình văn học.
Là những người sáng tác mà viết tiểu luận phê bình (Xuân Diệu,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân là những trường hợp tiêu biểu), họ đều
có được lợi thế riêng mà những cây bút khác khơng dễ gì có được.
Nguyễn Tn cũng đã chứng tỏ được điều này trong các trang viết của
ông. Ở vị thế là một nhà phê bình, Nguyễn Tn có cơ sở lý luận của ông
song cái đặc biệt, sắc nét ở đây là Nguyễn Tuân đã đưa ra những nhận
xét độc đáo, bất ngờ mà nghệ sĩ bậc thầy mới làm được (bình về thơ Tú
Xương, Truyện Sêkhốp, Truyện Kiều). Ơng có khả năng cảm nhận văn
chương một cách rất cụ thể, sinh động, tạo nên sức hấp dẫn riêng. Khó


3
có thể tìm thấy những ý kiến sâu sắc, đầy tri âm tri kỷ - hiểu người, hiểu
mình và với một lối viết phóng túng tài hoa nhưng xác thực, chân thành
như các bài viết về Tú Xương, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Bùi Xuân
Phái… của Nguyễn Tuân.
1.3. Nguyễn Tuân khơng chỉ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn
học dân tộc mà cịn có vị trí quan trọng trong chương trình văn học ở các

nhà trường, từ phổ thơng đến đại học. Nghiên cứu tiểu luận phê bình của
Nguyễn Tuân không chỉ để hiểu hơn về nhà văn (Nguyễn Tuân) mà còn
để hiểu hơn về những hiện tượng văn học được nhà văn quan tâm, phân
tích, luận giải, từ đây có thể vận dụng, tham khảo, giúp cho việc giảng
dạy, học tập thơ văn Nguyễn Tuân cũng như nhiều hiện tượng văn học
khác (những hiện tượng văn học mà Nguyễn Tuân từng bỏ công khảo
sát, nghiên cứu, phê bình nghiêm túc) trong nhà trường được tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung
Nguyễn Tuân xuất hiện trong lịch sử văn học dân tộc trước hết với
tư cách một nhà văn - một nhà văn tài hoa với những cạnh sắc riêng độc
đáo không giống ai.
Con người và sáng tác của ơng có một sức hút kỳ lạ khơng chỉ đối
với các nhà văn mà còn đối với giới nghiên cứu phê bình. Chính vì vậy,
đã có rất nhiều bài của các nhà nghiên cứu, các nhà văn bàn về nội dung
tư tưởng, giá trị nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyễn Tuân. Các nhà
nghiên cứu, nhất là những nhà nghiên cứu có uy tín dường như khơng
muốn trống vắng tên mình trong bảng danh mục nghiên cứu về Nguyễn
Tuân, từ Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ,
Phan Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phong Lê, Đặng Tiến,
Thuỵ Khuê, Văn Tâm… đến Vương Trí Nhàn, Lê Quang Trang, Hà Bình
Trị, Hà Văn Đức,… Nhiều ý kiến về sáng tác của Nguyễn Tuân, nhưng ở
đây, chúng tôi chỉ lược nhanh một số ý kiến tiêu biểu.


4
Có thể nói Nguyễn Đăng Mạnh là người dành nhiều tâm huyết cho
công việc nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Tuân. Thực ra, Nguyễn Đăng
Mạnh không phải là người đầu tiên và mở lối cho việc nghiên cứu
Nguyễn Tuân nhưng lại là người có những cơng trình nghiên cứu sâu sắc

và khá toàn diện. Các bài viết như: Nguyễn Tuân, con người và sự
nghiệp; Cảnh sắc và hương vị đất nước qua văn Nguyễn Tuân; Con
người Nguyễn Tuân đi đến bút kí chống Mỹ; Quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Tuân; Thể tài tùy bút của Nguyễn Tuân; Đọc lại chùa Đàn của
Nguyễn Tuân; Tản mạn về Nguyễn Tuân; Lại đọc chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân; Tờ hoa, một bài văn đẹp… của Nguyễn Đăng Mạnh cung
cấp cho người đọc một cái nhìn bao quát về tác gia Nguyễn Tuân từ thân
thế, sự nghiệp, đến quan điểm, tư tưởng nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ
khả năng bao quát và làm chủ một số thể loại (nhất là ký - tuỳ bút) của
tác giả… Nguyễn Đăng Mạnh cho biết: “Nói đến Nguyễn Tuân, người ta
thường nghĩ đến một nhà văn của quan điểm duy mỹ, chỉ trọng cái đẹp
hình thức khơng cần nội dung, chủ trương viết văn không khuynh hướng,
nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện, ác ở đời. Quan điểm
ấy thể hiện ngay ở những nhân vật ưa thích nhất của ơng trước Cách
mạng: những con người tài hoa tài tử, dù tĩnh tại hay xê dịch, đối với
cuộc sống, đối với quê hương, đều chỉ như là kẻ ăn tạm, ở nhờ, những
con người sinh ra dường như chỉ để ngắm đời, ngoạn cảnh cho giác quan
được nô nê thanh sắc, và để trổ tài khoe chữ, chứ không chịu gánh lấy
một trách nhiệm xã hội nào. Gắn liền với sinh hoạt và tâm tư của những
nhân vật ấy, nội dung tác phẩm Nguyễn Tn nhiều khi thật lơng bơng,
phù phiếm, khơng có ý nghĩa xã hội gì đáng kể. Điều ấy chẳng những
thể hiện ở những tác phẩm của Nguyễn Tuân thời cũ, mà còn "rơi rớt"
cả ở một số sáng tác của ông sau này, khi nhà văn đã đi theo cách
mạng" [43, 91].


5
Phan Ngọc, Đặng Tiến, Thuỵ Khuê, Vương Trí Nhàn, Phong
Lê…, mỗi người từ một góc độ tiếp cận khác nhau, có thể nói là những
người có ý kiến sâu sắc về Nguyễn Tuân. Nhìn chung các ý kiến đều

đánh giá cao cá tính sáng tạo, bản sắc của cái tơi và tài hoa hơn người
(đặc biệt trong văn tuỳ bút) của Nguyễn Tuân: “Trước sau Nguyễn Tuân
sống chết với thể tuỳ bút. Một người đọc bình thường cũng dễ dàng cảm
thấy rằng những tuỳ bút của ơng có một “khí hậu” riêng, ở đó có một
giọng điệu bao trùm. Trong sự hình thành và cái cách tồn tại riêng của
nó, tuỳ bút in dấu con người Nguyễn Tuân - Nó khơng phải chỉ là một
thứ hình thức thuần t mà trở nên một bộ phận của nội dung, tức là đã
một phần những thông điệp mà ông gửi tới bạn đọc” [36, 146]. Nhiều ý
kiến cũng chỉ rõ ảnh hưởng của trào lưu lãng mạn trong văn học lúc bấy
giờ (1930 - 1945) đối với con người Nguyễn Tuân, và chính Nguyễn
Tn “một mình một cõi” (chữ dùng của Thụy Khuê) tạo nên một kiểu
thức riêng cho văn học lãng mạn 1930 - 1945.
Tuy nhiên, trong sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn này, nhiều
người đều nhận thấy biểu hiện của cái tôi cá nhân cực đoan, thận thấy sự
thất vọng của Nguyễn Tuân trước thực tại… Nguyễn Tuân tìm về q
khứ “vang bóng một thời”, tìm về với những thú chơi tao nhã ngày xưa
mà có khi là cả với những ham muốn điên loạn… Ý thức “đào bới mãi
trong cái tơi cơ đơn, ích kỷ, mặc kệ cuộc đời, đi mãi vào chủ nghĩa cá
nhân hưởng lạc” (theo cách nói của Phong Lê) [43, 75] đã khiến cho thế
giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân hoàn toàn tách biệt ra ngoài so với
cuộc sống của nhân dân. Nguyễn trở nên lạc lõng, thế nhưng, đó cũng là
“sự bế tắc nằm trong sự bế tắc chung của nền văn học công khai, dưới
ách thống trị của thực dân trong xã hội cũ” [43,75]. Sự chuyển biến
trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân từ sau Cách
mạng tháng Tám là điều mà nhiều nhà nghiên cứu đều nhận thấy.
Nguyễn Tuân đã thực sự làm một cuộc “lột xác”. Nhãn quan của ơng có


6
sự thay đổi, các sáng tác của Nguyễn Tuân mà cụ thể ở đây là thể tuỳ bút

đã có những xúc cảm khác, những cảnh sắc mới lạ.
Phan Cự Đệ trong bài viết Nguyễn Tuân - một phong cách nghệ
thuật độc đáo và Đọc lại vang bóng một thời của Nguyễn Tuân tập trung
nêu bật phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn thơng qua việc phân tích
cái tơi của tác giả qua các thời kỳ. Vương Trí Nhàn với những bài viết:
Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân và thể tùy bút… nghiêng về việc đề
cao thể loại tùy bút đối với sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Các tác
giả Vũ Đức Phúc (Nghệ thuật Nguyễn Tuân), các nhà nghiên cứu Nam
Mộc (Nguyễn Tuân và Sông Đà), Văn Tâm (Về truyện ngắn Chữ người
tử tù của Nguyễn Tuân), Ngọc Trai (Nguyễn Tuân với Huế)… cùng với
việc phác họa chân dung nhà văn Nguyễn Tuân đã nhấn mạnh tới phong
cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa của ông.
Nhiều tác giả khác chú ý Nguyễn Tuân với tư cách là một nghệ sĩ
tài hoa. Nguyễn Đình Thi xem Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp, cái
thật [43, 541], Hà Văn Đức muốn xác định Nguyễn Tuân và cái đẹp [43, 179]
Nguyễn Thị Thanh Minh cũng muốn xác định Nguyễn Tuân và cái đẹp
[43, 219], Nguyễn Thành cũng với cái nhìn ấy: Nguyễn Tuân, người săn
tìm cái đẹp [43, 192]…
Nhìn chung, các bài viết đều đã đề cập một cách khá đầy đủ và
sâu sắc những nét tiêu biểu trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Tuân.
2.2. Về tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân
Riêng về tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân - một mảng rất quan
trọng trong sự nghiệp sáng tác văn học của ơng cịn rất ít được các nhà
phê bình, nghiên cứu văn học đề cập đến. Vì sao vậy? Người đọc có
quyền đặt ra câu hỏi này. Thực ra không phải mảng văn học này của
Nguyễn Tn khơng có giá trị mà vì sức hút của mảng sáng tác của ông
quá lớn.



7
Tuy vậy, cũng đã có một số cơng trình bước đầu đề cập đến vấn đề
này. Đó là các bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Tuân đọc sách,
bình văn, dựng chân dung văn học [38, 99] và đặc biệt là Nguyễn Tn
viết phê bình văn học (Bình giảng trích đoạn bài Thời và thơ Tú Xương
của Nguyễn Tuân) [38, 147]. Với bày viết này, Nguyễn Đăng Mạnh đã
chỉ ra những phát hiện của Nguyễn Tuân về Tú Xương, bên dưới cái
tiếng cười ngông nghênh, kiêu bạc, phá phách, bên dưới những tiếng
cười tả thực của thơ Tú Xương là chất trữ tình lãng mạn đằm thắm thiết
tha,“những lời trào lộng kiêu bạc chỉ là những hiện tượng da thịt bên
ngồi phủ bên một tuỷ cốt chung tình”. Nguyễn Tn đã chứng minh
nhận xét của mình bằng những đoạn bình thơ đầy tâm huyết và tài hoa
(đặc biệt là những đoạn bình hai bài Đi hát mất ơ và Sơng lấp).
Nguyễn Đăng Mạnh tỏ ra rất sắc sảo khi phê bình sự phê bình
cũng rất sắc sảo của Nguyễn Tuân trong Thời và thơ Tú Xương.
Tuy nhiên, tiểu luận phê bình văn học của Nguyễn Tn ngồi
Thời và thơ Tú Xương còn nhiều tiểu luận khác mà chưa được ai bàn
đến.
2.3. Năm 2008, chúng tôi đã từng quan tâm đến tiểu luận phê bình
văn học của Nguyễn Tn, lấy đó làm đối tượng nghiên cứu cho khoá
luận tốt nghiệp đại học của mình [55]. Nhưng do mức độ của một khóa
luận tốt nghiệp đại học, khơng ít vấn đề về tiểu luận phê bình văn học
của Nguyễn Tn, chúng tơi chưa có dịp đi sâu khảo sát. Luận văn này
của chúng tơi là cơng trình tiếp theo mang tính chun sâu hơn, tập trung
tìm hiểu tiểu luận phê bình văn học của Nguyễn Tuân với một cái nhìn
hệ thống và toàn diện hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bài tiểu luận phê bình văn học của Nguyễn Tuân.
3.2. Giới hạn của đề tài



8
Đề tài chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu các bài tiểu luận, nghiên cứu
phê bình về văn học của Nguyễn Tuân. Những thể loại khác trong sáng
tác của Nguyễn Tuân, chúng tôi chỉ chú ý tham khảo để đối chiếu, từ đó
có cái nhìn đầy đủ hơn về tác gia Nguyễn Tuân chứ không phải là đối
tượng để khảo sát.
Văn bản tài liệu dùng để khảo sát: văn bản các bài tiểu luận phê
bình văn học của Nguyễn Tuân, chúng tôi dựa vào Tuyển tập Nguyễn
Tuân, Nxb Văn học, Hà Nội (2004).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra ba nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Đưa ra một cái nhìn tổng quát về tiểu luận phê bình trong sự
nghiệp văn học của Nguyễn Tn, xác định vai trị, vị trí, ý nghĩa của bộ
phận này trong văn nghiệp của ông.
4.2. Khảo sát, phân tích, xác định những nội dung được bàn đến
trong các bài tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân.
4.3. Khảo sát, phân tích, xác định nghệ thuật viết tiểu luận phê
bình của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về tiểu luận phê bình văn học của
Nguyễn Tuân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có các
phương pháp chính: phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, cấu trúc hệ thống.
6. Đóng góp và cấu trúc của Luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là cơng trình tập trung khảo sát, phân tích, xác định các
bài tiểu luận, nghiên cứu, phê bình văn học của Nguyễn Tuân với cái
nhìn hệ thống. Từ đó, khẳng định những đóng góp của ông cho lịch sử

nghiên cứu, phê bình văn học dân tộc.


9
Kết quả của Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc tìm hiểu và dạy - học về tác gia Nguyễn Tuân trong học đường.
6.2. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Tiểu luận phê bình trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân.
Chương 2: Các hiện tượng văn học qua tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân.
Chương 3: Nghệ thuật viết tiểu luận phê bình văn học của Nguyễn Tuân.


10
Chƣơng 1
TIỂU LUẬN PHÊ BÌNH
TRONG SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA NGUYỄN TUÂN
1.1. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân
1.1.1. Nguyễn Tuân - một cá tính, một nhân cách văn hÚA
LỚN
Về Nguyễn Tn, có khơng ít ý kiến từng xác định rằng, ông là
một hiện tượng độc đáo và phức tạp trong văn học Việt Nam. Để
thấy được điều này, xin nhắc lại VàI NỘT VỀ LAI LỊCH “PHỨC
TẠP” CỦA ỤNG. NGUYỄN TŨN QUỜ Ở XĨ NHÕN MỤC,
THỤN THượng ĐỠNH, NAY THUỘC PHường Nhân Chính, quận
THANH XŨN, Hà NỘI. Ơng sinh trưởng trong một gia đỠNH
NHà NHO KHI HỎN HỌC đÓ TàN. HỌC đến cuối bậc Thành
chung, Nguyễn Tuân bị đuổi học vỠ THAM GIA MỘT CUỘC BÓI
KHÚA PHẢN đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người Việt

NAM (1929). Sau đó ít lâu ơng lại bị tù vỠ "XỜ DỊCH" QUA BIỜN
GIỚI KHỤNG CÚ GIẤY PHỘP. RA TỰ (1929), ông bắt đầu viết
báo, viết văn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930,
nhưng nổi tiếng từ năm 1938 VỚI CỎC TỎC PHẨM TỰY BỲT,
BỲT KÝ CÚ PHONG CỎCH độc đáo như VANG BÚNG MỘT
THỜI, Một chuyến đi... Năm 1941, NGUYỄN TUÕN LẠI BỊ BẮT
GIAM MỘT LẦN NỮA VỠ GẶP GỠ, TIẾP XỲc với những người
hoạt động chính trị. Năm 1945, CỎCH MẠNG THỎNG TỎM
THàNH CỤNG, NGUYỄN TUÕN NHIỆT TỠNH THAM GIA
CỎCH MẠNG Và KHỎNG CHIẾN, TRỞ THàNH MỘT CÕY BỲT
TIỜU BIỂU CỦA NỀN Văn học mới. Từ 1948 đến 1958, ỤNG GIỮ
Chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Các tác phẩm chính sau
cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút kÝ Sông Đà (1960), MỘT


11
SỐ TẬP KÝ CHỐNG MỸ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh
sắc và hương vị đất nước. Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm
1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết
độc đáo và tài hoa. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một cá tính độc đáo, cá tính
trong lối sống, cá tính trong tính cách, cá tính trong cách viết, THẬM
CHỚ CỎ TỚNH CẢ TRONG ẨM THỰC. Ông từng muốn rằng sau
khi ông mất, không để lại một bản sao nào ở đời..., nghĩa là không
muốn giống ai, và cũng không cho phép ai giống mỠNH. Í THỨC
CỎ NHÕN, cá tính của con người này quả là hết sức đặc biệt.
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng, “NGUYỄN TUÕN viết văn trước hết
để khẳng định cá tính độc đáo của mỠNH, TỰ GỎN CHO MỠNH
MỘT CHỨNG BỆNH GỌI Là "CHỦ NGHĨA XỜ DỊCH", THỚCH

LỐI SỐNG TỰ DO PHÚNG TỲNG là rất có cơ sở. LỐI SỐNG
CỦA ỤNG DĨ NHIỜN Là không phù hợp với chế độ thuộc địa (ơng
đĨ HAI LẦN BỊ TỰ VỠ CỎI VỤ LÝ CỦA CHẾ độ thuộc địa).
Cá tính ấy là độc đáo, có Ý NGHĨA, NHẤT Là CỎ TỚNH
CỦA MỘT CON NGười RẤT MỰC TàI HOA. ỄNG AM hiểu nhiều
môn nghệ thuật khác (văn học, hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện
ảnh, lịch sử, địa lý...). NGUYỄN TUÕN TỪNG là một diễn viên kịch
nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam. Ông thường
vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng
cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quÝ TRỌNG THẬT SỰ
NGHỀ NGHIỆP CỦA MỠNH. Đối với ông, nghệ thuật là một hỠNH
THỎI LAO động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ơng đĨ LẤY
CHỚNH CUỘC đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mỠNH để chứng
minh cho quan niệm ấy


12
NGUYỄN TŨN là người có lŨNG TỰ TỤN DÕN TỘC SÕU
SẮC, LŨNG YỜU Nước thiết tha, yêu nước theo kiểu Nguyễn Tuân
(yêu những giá trị văN HÚA CỔ TRUYỀN CỦA DÕN TỘC, YỜU
THA THIẾT TIẾNG VIỆT, YỜU THA THIẾT những kiệt tác văn
chương của NGUYỄN DU, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Tản
Đà, NGỤ TẤT TỐ, THẠCH LAM...; YỜU THA THIẾT những nhạc
điệu DÕN TỘC (LỐI HỎT CA TRỰ, GIỌNG HŨ QUẢNG TRỊ,
DÕN CA QUAN HỌ BẮC NINH,...); YỜU THA THIẾT TỪNG
TẤC đất của tổ quốc, từng con đường, từng hàng cây khắp mọi miền
đất nước... Nguyễn Tuân thực sự là một nhân cách văn hóa lớn...
1.1.2. NGUYỄn Tuân - nhà văn TàI HOA VỚI MỘT SỰ
NGHIỆP SỎNG TỎC PHONG PHỲ

Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ. Trước
hết, với tư cách nhà văn, ông đã sáng tác bằng khá nhiều thể loại khác
nhau: Truyện, tiểu thuyết và đặc biệt là ký với nhiều thể: phóng sự,
tuỳ bút… Ở thể loại nào ơng cũng có những tác phẩm nổi tiếng.
Về truyện, có thể kể đến các tác phẩm: Một vụ bắt rượu lậu
(Đơng Dương tạp chí, số 29 ngày 27/11/1937); Vang bóng một thời
(đăng báo từ 1939, Tân Dân, Hà Nội, xuất bản 1940); Xác ngọc lam
(đăng tạp chí Thanh Nghị, 1943); Vơ đề (sau đổi lại là Lột xác, Tạp
chí Văn mới 1945); Nguyễn (Thời đại, Hà Nội, 1945); Chùa Đàn
(Quốc Văn, Hà Nội, 1946); Thắng càn (Văn nghệ, 1953); Truyện một
cái thuyền đất (sách Kim Đồng, 1958).
Về tiểu thuyết, Nguyễn Tuân có: Thiếu quê hương (đăng báo từ
1940; Anh Hoa, Hà Nội xuất bản 1943). Cuốn tiểu thuyết cho thấy
cái nhìn rất hiện đại của Nguyễn Tuân về con người hiện đại qua
nhân vật Bạch - sự hố thân của cái tơi tác giả.
Đặc biệt là về ký với thể tuỳ bút. Thể loại mà Nguyễn Tuân đã
lựa chọn ngay từ lúc khởi đầu sự nghiệp sáng tác cho đến cuối cuộc


13
đời đã khẳng định một hướng lựa chọn đúng đắn của ơng. Có thể gọi
Nguyễn Tn là nhà tuỳ bút với nhiều tập tuỳ bút đặc sắc: Một
chuyến đi (du ký, đăng báo từ 1938, Tân Dân, Hà Nội, xuất bản
1941); Chiếc lư đồng mắt cua (Hàn Thuyên, Hà Nội, 1941); Tóc chị
Hồi (Lượm lúa vàng, Hà Nội, 1943); Tùy bút I (Cộng lực, Hà Nội
1941); Tùy bút II (Lượm lúa vàng, Hà Nội, 1943); Đường vui (Hội
văn nghệ Việt Nam, 1949); Tình chiến dịch (Hội văn nghệ Việt Nam,
1950); Bút ký đi thăm Trung Hoa (Văn nghệ, Hà Nội 1955); Tùy bút
kháng chiến và hịa bình (Tập I, Văn nghệ, Hà Nội, 1955); Tùy bút
kháng chiến và hịa bình (Tập II, Văn nghệ, Hà Nội, 1956); Sông Đà

(Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1960); Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Ký,
Hội văn nghệ, Hà Nội 1972); Ký (Nhà xuất bản văn học, Hà Nội
1976); Chuyện nghề (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội 1986);
Cảnh sắc và hương vị đất nước (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội
1988).
Nói đến Nguyễn Tuân thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám,
khơng ít người cho rằng Nguyễn Tn là con người ngông nghênh,
kiêu bạc, con người của chủ nghĩa duy mỹ..., “chỉ trọng cái đẹp hình
thức khơng cần nội dung, chủ trương viết văn không khuynh hướng,
nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện, ác ở đời. Quan
điểm ấy thể hiện ngay ở nhân vật ưa thích nhất của ông trước Cách
mạng: những con người tài hoa tài tử, dù tĩnh tại hay xê dịch, đối với
cuộc sống, đối với quê hương đều chỉ như là những kẻ tạm bợ, ở nhờ,
những con người sinh ra dường như chỉ để ngắm đời, ngoạn cảnh cho
cảm giác được no nê thanh sắc, và để trổ tài khoe chữ, chứ không
chịu gánh lấy một trách nhiệm xã hội nào. Gắn liền với sinh hoạt và
tâm tư của những nhân vật ấy, nội dung tác phẩm Nguyễn Tuân nhiều
khi có vẻ lơng bơng, phù phiếm, khơng có ý nghĩa xã hội gì đáng kể”


14
[38, 14]. Ý kiến này là có sơ sở. Nhưng có lẽ cần khảo sát và xác
định kỹ hơn cái gọi là duy mỹ của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ
yếu xoay quanh ba đề tài: “Chủ nghĩa giang hồ xê dịch”, vẻ đẹp
“Vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc.
Nguyễn Tuân nhiều lần tuyên bố về sự đi (xê dịch) của mỡnh. ễng
xỏc định: ''Đi để viết. Chỉ có đời sống rộng rói mới dạy cho người ta viết
được những câu rộng rói'', ''Viết văn để yêu cuộc sống, để tỡm nhõn loại,
để tỡm mỡnh trong nhõn loại, để thấy được nhõn loại trong mỡnh, cỏi

phũng làm việc của người ấy nằm ngay giữa cuộc đời'' (Tuỳ bỳt II). Việc
đi hay xê dịch đối với Nguyễn Tuân có thể nói đó được đẩy lên thành
một thứ chủ nghĩa. "Chủ nghĩa xê dịch" vốn là một lí thuyết vay mượn
của phương Tây, chủ trương đi khơng mục đích, đi để thay đổi chỗ ở, để
tỡm cảm giỏc mới lạ và thoỏt li mọi trỏch nhiệm với gia đỡnh và xó hội.
Nguyễn Tũn đó tỡm đến lí thuyết này trong tâm trạng bất món và bất
lực trước thời cuộc. Luôn luôn thèm khát những cảm giác mới lạ. Đấy là
"một nguồn sống bồng bột tắc lối thốt". Là người ham mê thanh sắc,
thích đi tỡm những cảm giỏc lạ, khao khỏt cỏi đẹp, nhiều lúc Nguyễn
Tuân bị cuốn hút vào và xem nó như là một lý tưởng thẩm mỹ của mỡnh,
một lý tưởng thẩm mỹ được xây dựng trên “nghệ thuật vị nghệ thuật”...
Viết về “chủ nghĩa giang hồ xê dịch” Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm
lịng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và hương vị của đất nước
mà ơng đã ghi lại được bằng ngịi bút tài hoa.
Những bài viết của Nguyễn Tuân về đề tài “xê dịch” như Cửa
Đại, Chiếc va ly mới, Thèm đi, Lại đi nữa, Những ngày Thanh Hóa…
thậm chí ơng đã viết riêng một cuốn tiểu thuyết về đề tài này (Thiếu
quê hương) chứng tỏ khả năng, sự hiểu biết phong phú của ông.
Thiếu quê hương viết về một nhân vật mắc bệnh xê dịch, luôn
luôn thèm khát được đi. Cái đặc biệt ở đây là đi khơng mục đích hay


15
nói cách khác mục đích chính là cái sự đi, đi để “thay thực đơn cho
giác quan”, để thoát khỏi mọi trách nhiệm đối với gia đình, xã hội,
đất nước, quê hương…
Trong Thiếu quê hương chúng ta thấy ở anh chàng Bạch - nhân
vật chính của truyện chứa đựng sự mâu thuẫn. Anh chàng có cái thú
đi đây đi đó nhưng nhiều lúc anh lại gào lên “đi để mà đau khổ cả lúc
đi lẫn lúc nghỉ…”. Tâm trạng bế tắc của Bạch chính là sự phản ánh

những mâu thuẫn, bế tắc trong tư tưởng của Nguyễn Tuân thời kỳ
trước Cách mạng tháng Tám 1945. Một con người yêu quê hương tha
thiết, muốn gắn bó với q hương lại ln luôn cảm thấy thiếu quê
hương bởi phải chứng kiến sự tù túng, nghẹt thở của nó dưới chế độ
thực dân phong kiến mà bản thân ông cảm thấy bất lực khơng khả
năng chống trả. Thiếu q hương mang tính hiện đại sâu sắc, có sức
lơi cuốn đặc biệt đối với những tâm hồn phiêu lưu. Tuy vậy, như
Nguyễn Đăng Mạnh đã xác định, “do tác giả đã xê dịch thực sự trước
khi viết về xê dịch, và trên đường giang hồ lãng tử từ Nam ra Bắc, đã
sống thật sự, sống kỹ lưỡng với từng phong cảnh mình đã đi qua, nên
Thiếu quê hương (cũng như những du ký khác của Nguyễn Tuân) đã
ghi lại nhiều bức tranh chân thực, sinh động về q hương, đất nước
mình. Nguyễn Tn khơng chỉ cảm hứng trước những gì nhẹ nhàng
thi vị. Ngịi bút ấy thường bị kích động dữ dội trước những cảnh vật
gây cảm giác mãnh liệt. Bởi vậy, Thiếu quê hương đã để lại những
bức họa có giá trị hiện thực về vùng mỏ Vàng Danh, ng Bí, Điền
Cơng, những “thành phố đen”, những “cảnh tang tóc kéo dài bất phân
mộ dạ”, ở đó thực dân Pháp đã đày đoạ bao kiếp thợ mỏ vào cuộc
sống lao động khổ sai, vào những túp lều giống như “những cái mồ
sống, những ngơi mả nghèo xấu tẻ ngắt khơng có bia” để rút hết
xương tuỷ họ [38, 33].


16
Không tin tưởng ở hiện tại, vô vọng trước tương lai, Nguyễn
Tn đi tìm vẻ đẹp của q khứ cịn Vang bóng một thời. Ấy là thời
phong kiến đã qua nhưng dư âm còn vang vọng lại mãi. Vũ Ngọc
Phan cho rằng: “Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới
sự tồn thiện, tồn mỹ đó là tập Vang bóng một thời”, cũng theo ơng
“Đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân có cảm tưởng gần giống

như những cảm tưởng trong khi ngắm một bức họa cổ”. Bởi vì
Nguyễn Tn đã làm cơng việc của một người đi khơi lại đống tro tàn
của dĩ vãng. Cái dĩ vãng đầy “những nét rầu rầu, những màu xám
xám đã gợi lên trong lòng người đọc một nỗi ngậm ngùi, luyến tiếc
về một “thời vàng son” đã qua, hướng người ta muốn quay về quá
khứ”. Mười hai truyện trong tập truyện Vang bóng một thời là mười
hai cảnh sống khác nhau nhưng đều nói về vẻ đẹp riêng của thời xưa
với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và
tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ của lớp
quan lại, nhà nho đã thất thế lúc bấy giờ. Đó là những ông Phủ, ông
Nghè, ông Thượng, ông Ấm… không còn hám danh lợi mà chỉ ưa
cuộc sống nhàn hạ, thích hưởng thụ những lạc thú ở đời. Một cụ Ấm
thích uống trà trong sương sớm và pha trà với thứ nước đậu trên lá
sen. Một “cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà
nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý” [33, 76]. Một gia đình cụ Án sa
sút, cô Tú, cậu Chiêu phải vất vả nuôi nhau trong cảnh túng thiếu.
Một viên tướng Cờ Đen “oai phong lẫm liệt” một thời, nay thất thế
trở về làm thầy địa lý. Bên cạnh đó cịn có một loại nhân vật lãng tử
giang hồ cũng được tác giả gửi gắm vào đó nhiều nỗi niềm tiếc nuối.
Đó là ơng Phó sứ Lăng và cơ Mộng Liên, một đơi vợ chồng tài tử mà
“mỗi tuần trăng cặp tài tử này ở một tỉnh” và đôi này “đã để dấu giầy
trên mọi chốn và tha bê đi khắp nơi cái túi thơ”, để rồi cuối cùng
người chồng đã chết ở chân Đèo Ngang trên con đường giang hồ, xê


17
dịch của mình. Ơng Cử Hai cũng là người có tâm hồn lãng tử, ơng
“sống cuộc đời mình như người ta chơi chơi vậy thôi. Người ấy thật
là một con người khơng có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân
sinh. Ông sinh ra để mà đùa với cuộc sống…” [33, 109]. Ơng Phó sứ,

Ơng Cử Hai ở đây phải chăng là hiện thân của anh chàng Nguyễn
đang bất mãn trước thời cuộc nên đã tìm lối thốt trong cái thú giang
hồ, xê dịch?
Là một nhà văn luôn “đi tìm cái đẹp, cái thật” trong cuộc đời
nên đơi lúc Nguyễn Tuân dường như quên đi phần nào đó của cái
hiện thực mang ý nghĩa xã hội ở trong đó mà ơng chỉ quan tâm đến
cái đẹp mang tính hình thức. Ông ca ngợi cái đẹp của nghệ thuật
“chém treo nghành” (Bữa rượu máu), cái đẹp của nghệ thuật “ném
bút chì” (Một đám bất đắc chí) hay cái đẹp của những dòng chữ của
một người tử tù (Chữ người tử tù)…
Tất nhiên ẩn đằng sau những cái đẹp lạnh lùng, tàn bạo đó ta
vẫn thấy được chút hiện thực và ý nghĩa tích cực của việc phản ánh
những hình tượng đó (Chữ người tử tù, Bữa rượu máu). Có thể nói
Vang bóng một thời và Chiếc lư đồng mắt cua là hai tác phẩm đã đạt
đến độ chín về nghệ thuật trong những sáng tác ra đời trước Cách
mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân.
Nếu như Vang bóng một thời gợi lên trong lòng người đọc một
niềm tiếc nuối về dĩ vãng thì Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu
lạc, Tàn đèn dầu lạc lại đưa người đọc trở về với đời sống hiện tại
trong khung cảnh của những nhà chứa, xóm hút, tiệm hút, tiệm rượu.
Thực ra, khơng phải chỉ có Nguyễn Tn viết đề tài truỵ lạc
nhưng ngịi bút của ơng ln có những nét riêng. Chiếc lư đồng mắt
cua chính là “lời tự thú”, là “thiên sám hối” của một thanh niên khinh
bạc và sa ngã vì đã sống không lý tưởng” (Vũ Ngọc Phan)


18
Chiếc lư đồng mắt cua chính là tâm trạng khủng hoảng đến cực
độ của một thanh niên trí thức bất mãn với xã hội, muốn thốt ra khỏi
cái khơng khí ngột ngạt đó nhưng khơng thể. Đó là lý do anh ta lao

vào hành lạc để tiêu sầu.
Bên cạnh đó, người đọc lại bắt gặp những trang viết rất sắc nét
của Nguyễn Tn khi ơng dùng ngịi bút của mình để trả thù xã hội.
Giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân nay lại có dịp để ném vào cuộc
đời đen bạc, một cuộc đời đã làm cho ông luôn cảm thấy “hiu
quạnh”, “cô đơn”. Thông qua những nhân vật tiêu biểu - những con
người tài hoa tài tử như ông Thông Nhu và cơ Đào Tâm, tác giả muốn
nói đến cái ngông ngênh kiêu ngạo của họ, dù cho cuộc sống trụy lạc,
bê tha của họ đã bị xã hội khinh bỉ.
“Chiếc lư đồng mắt cua được viết nhiều giọng điệu khác nhau
mà bao giờ cũng thoải mái tự do. Giọng kiêu bạc ngạo đời hoặc mỉa
mai chua chát ném vào thế thái nhân tình, giọng buồn thảm thê lương
như hạm sâu vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn cơ độc, giọng tự trào
ẫm ờ, nửa trịnh trọng, nửa đùa cợt, giọng trữ tình cổ kính như đưa
người đọc vào thế giới cổ thi, cổ tích,… Nghệ thuật tả tình, tả cảnh,
vẽ chân dung, dựng đối thoại… nói chung đều già dặn.
Tóm lại, về mặt hình thức nghệ thuật, Chiếc lư đồng mắt cua,
Vang bóng một thời có thể xem như độ chín của ngịi bút Nguyễn
Tn trước Cách mạng tháng Tám” [38, 39].
Trước khi đến với cách mạng, một chân dung khá toàn diện về
con người Nguyễn Tuân được bộc lộ rõ bởi những tác phẩm: Tóc chị
Hồi, u ngân, Xác ngọc lam…
Là người thích đi tìm những cảm giác mới lạ, Nguyễn Tuân ca
ngợi cái đẹp lãng mạn của mái tóc một người đàn bà và cho rằng “Cái
người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ
tóc cho tử tế thì cái thẩm mỹ quan của người ấy còn lung lay lắm”…


19
Trước Cách mạng tháng Tám, các sáng tác của Nguyễn Tuân

bên cạnh cái tài hoa của phong cách nghệ thuật thì cũng cịn có
những hạn chế ở phần nội dung tư tưởng. Nguyễn Tuân đã để cho cái
tôi cá nhân cực đoan chi phối đến sáng tác của mình. Đó là hạn chế
lớn nhất của ơng. Vì muốn thỏa mãn cảm giác mà nhiều lúc Nguyễn
Tuân đã coi việc đi tìm cái đẹp hình thức là mục đích và lý tưởng
sống. Bên cạnh đó, bản chất tiểu tư sản yếu đuối khiến cho ông
không dám công khai chống lại chế độ thực dân phong kiến. Phần lớn
sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ này đã bộc lộ những phản ứng tiêu
cực của ông đối với xã hội, hoặc là đi tìm lại những vẻ đẹp trong quá
vãng để rồi lại ngậm ngùi, nuối tiếc hoặc là bng thả mình trong
cuộc sống bê tha trụy lạc… “Cái tôi Nguyễn Tuân về căn bản là cái
tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội. Hồi ấy, sống hay viết, đối
với ông nhiều khi chỉ là để tìm mình, để thực hiện cái cá nhân mình
cho đến kỳ cùng. Thế giới khách quan khơng đáng kể, giá trị của ngịi
bút là ở bản ngã người nghệ sĩ có độc đáo hay khơng. Nguyễn Tn
từng tự vẽ mình như một con người cơ độc mà kiêu ngạo: “Rồi tôi
vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viên khách khơng có q
hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho
cái vốn tình cảm và cảm giác của mình” (Tóc chị Hồi). Quan điểm
nghệ thuật ấy dĩ nhiên đã tác động tiêu cực đến sáng tác của Nguyễn
Tuân. Nó hạ thấp giá trị nhận thức của nhiều tác phẩm của ông về thế
giới khách quan. Vả lại cái tôi tách rời hiện thực, cứ rút sâu mãi vào
bên trong đến lúc nào đấy sẽ trở nên trống rỗng, vơ nghĩa. Chính con
người kiêu ngạo ấy nhiều khi tự mình lại chán mình là vì thế [38, 1718].
Cách mạng tháng Tám đã đổi đời Nguyễn Tuân. Ông thấy “cái
có thật bây giờ đẹp, và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời”


20
(Nguyễn Đình Thi). Cách mạng đã giúp cho Nguyễn Tuân thoát khỏi

bế tắc trong cuộc sống cũng như trong sáng tác văn học nghệ thuật.
Những ngày đầu đến với Cách mạng, Nguyễn Tuân “mê say
với ánh sáng trắng vừa được giải phóng, tơi đã là một dạ lữ khách
khơng mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội mới… Lòng khỏe, chưa
đủ. Thân hình cũng phải khỏe nữa. Tơi liền đi cạo râu. Tình cờ gặp
lại anh bạn cũng vừa đi cạo phẳng bộ râu quai nón xanh rậm mọi
ngày. Chúng tôi đã ôm lấy nhau mà mừng ra nước mắt như hai con
bệnh già mới uống liều thuốc cải lão hoàn đồng” [34, 38-39].
Lột xác gần như là một tuyên ngôn của Nguyễn Tuân trước
cuộc đổi đời lớn lao của đất nước và của chính bản thân ơng. Trước
đây, Nguyễn chỉ quan tâm đến cái tơi cá nhân của mình, cịn bây giờ
thì “nội tâm ở chàng khơng chú trọng bằng ngoại cảnh ở quanh
chàng”. Nguyễn thấy lạc quan, yêu cuộc đời, yêu tất cả những gì giản
dị nhất trong đời sống này: Đám khói, đống rác, bóng là in nhoè ở hồi
tường... “Nguyễn đã vứt hết lòng kiêu căng cố hữu của mình. Đối với
sự sống, Nguyễn trở nên khiêm tốn và muốn có ngay một thái độ
khuất phục để nêu rõ sự phục thiện của mình”. “Bây giờ Nguyễn
thuộc giá lên xuống của hạt gạo và để ý đến quanh chàng nhiều lắm.
Ngày trước chỉ chuyên đọc thơ, giờ chàng nghiện nhật trình, thiết tha
đến những con đê, lo cho đê, lo cho ruộng bên đê, lo cho mùa màng.
Mực nước sông Nhị Hà, chàng thuộc như một nhân viên ứng thủy”
[44, 320].
Cách mạng đã làm sống dậy ở Nguyễn Tuân niềm tin yêu đối
với cuộc sống, đối với con người, “một tiếng chó sủa khách, một câu
ru con láng giềng, một tiếng coong coong xe ngựa đài tải trong sương
chiều. Đời sống thật là muôn vẻ… Nguyễn thấy cái gì cũng là thú vị
cả, miễn là nó ở quanh mình, nó ở trong cuộc đời mà ta nhìn được,
nghe được, sờ mó được” [44, 321]. Tư tưởng muốn thoát ly hiện



21
thực, xa rời cuộc sống khơng cịn tồn tại trong quan niệm của Nguyễn
Tuân. Quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ, Nguyễn Tuân cảm thấy
mình được “lột xác” và “đang lúng túng vỗ đôi cánh non vào một bản
đàn mới của thời đại”.
Cũng như Lột xác, Chùa Đàn nằm trong mạch văn “hồi sinh tư
tưởng” của nhà văn Nguyễn Tuân ở những ngày đầu sau Cách mạng
tháng Tám.
Hoàng Như Mai cho rằng: “Chùa Đàn ấy là tất cả nhà văn
Nguyễn Tuân, một Nguyễn Tuân toàn vẹn, tinh hoa, tư tưởng, tài hoa
văn chương”. “Tác phẩm kể chuyện một con bệnh nặng của chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, hưởng lạc, đã tự cải tạo để trở thành một nhà
cách mạng. Người đọc cảm thấy có một sự vá víu khiên cưỡng. Tác
giả lấy những trang “yêu ngôn” thật sự đem chắp đầu, chắp đuôi với
những lý thuyết ồn ào về văn nghệ phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân
dân. Điều đó nói rằng, ở một nghệ sĩ bước đầu đi theo cách mạng, sự
chuyển biến ít nhiều về nhận thức chính trị, sự giác ngộ ít nhiều về lý
thuyết cách mạng, chưa nói gì đáng kể về sự thay đổi của tư duy nghệ
thuật và lý tưởng thẩm mỹ” [38, 45].
Có thể xem Chùa Đàn là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân về
phần “tài hoa văn chương”. Chỉ có một tâm hồn nghệ sĩ đầy tài năng
như Nguyễn Tuân mới có thể viết nên những áng văn hay đến vậy.
Đoạn văn hay nhất từng được biết đến trong Chùa Đàn là đoạn tả Bá
Nhỡ đánh đàn, cô Tơ hát và Lãnh út cầm chầu. Nguyễn Tuân bằng
ngòi bút tài hoa của mình đã đưa người đọc vào thế giới linh thiêng
của nghệ thuật, vào một cái đẹp vĩnh hằng không thể thiếu được trong
cuộc đời.
Nguyễn Tuân là một nhà văn đến với Cách mạng khá sớm, có
thể nói là ngay từ ngững ngày đầu tiên, nhưng từ Lột xác đến Chùa
Đàn, sự quyết tâm từ bỏ con người cũ, cuộc sống cũ dường như đều



22
chỉ mới được thể hiện ở mặt lý thuyết. Trên thực tế Nguyễn Tuân
chưa hẳn đoạn tuyệt với nó.
Ở Đường vui, một thiên tùy bút được coi là sự chuyển biến thật
sự của ngòi bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng thì người đọc vẫn thấy
một Nguyễn Tuân ham “xê dịch”: “Đi bao giờ cũng vui, chỉ những
lúc ngừng nói mới là hết thú”. “Vui biết bao nhiêu khi mình dừng
bước vào một buổi sớm phiên chợ. Người, hơi người, tiếng người, cứ
đơng người là đủ thích rồi. No mắt, no tai, no ngón tay…”. Âm
hưởng chung, hơi văn, mạch văn chung của các bài viết thật cảm
động. Người đọc thấy được niềm vui, niềm tin phơi phới, một tình
cảm thắm thiết, chân thành đối với đất nước, quê hương, với khơng
khí náo nức của cách mạng và kháng chiến. Khơng như trước Cách
mạng, Nguyễn Tuân chỉ đi một mình lang thang cô độc. Giờ đây,
Nguyễn đi cùng với nhân dân, với bộ đội, và Nguyễn đã nhận ra “sức
mạnh của đất nước ln ln hiện hình trên từng tấc gang đường xa”.
Đường vui là bài ca của một con người mang tâm trạng tươi vui, tin
tưởng đi vào cuộc kháng chiến: “Bạn ơi ta lên dốc cho chắc bước cho
đều bước, ta xuống bước cho ròn cho dẻo. Rừng mai, rừng trúc chậm lại
mà thấm lấy phong quang của cảnh sắc quê hương. Chỗ nào là núi đất
rừng nứa, ta nhanh bước lên muỗi vắt nhiều lắm đấy. Suối trong mời ta
tắm và giặt phơi luôn quần áo trên những tảng đá của tranh thủy mặc
Tàu. Rồi vừa đi vừa phơi ln quần áo trên lưng mình, trên đầu mình, ta
hãy dừng một phút mà mặc niệm người thợ giặt cũ…” [44, 385 - 386].
“Cần nhớ rằng, Đường vui được viết trong thời kỳ mà nhiều
nghệ sĩ lớp cũ, tuy vác ba lô đi theo kháng chiến mà tâm hồn vẫn
muốn nghoảnh lại với thứ nghệ thuật “thuần tuý”, “cao siêu” ngày
trước. Họ cịn phân vân khơng hiểu có cần và có thể thống nhất con

người nghệ sĩ với con người công dân, con người sáng tác với con
người công tác được khơng? Vì thế, Đường vui của Nguyễn Tn nếu


23
như cịn có những “rơi rớt” của chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy
mỹ thì cũng là một hiện tượng rất dễ hiểu. Hồi ấy, người đọc thường
nói đến những hình ảnh “nổi tiếng” của ơng về trái tim anh dân quân
bị giết giống như củ thuỷ tiên nẫu, và vết máu trên thi thể một cô gái
bị hãm hại giống như là bông hồng” [38, 47].
Tiếp nối âm hưởng sục sôi của cuộc kháng chiến được bắt đầu
từ Đường vui là tùy bút Tình chiến dịch. Ở Tình chiến dịch ta bắt gặp
một Nguyễn Tuân thực sự tâm huyết và có sự đồng cảm với nhân dân
và bộ đội trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ chống thực dân Pháp.
Khác với Đường vui chỉ là đi thăm bộ đội ở các mặt trận, đi
thăm đồng bào vùng địch chiếm, hoặc đi xem thử súng Ba - dơ - ca…
Tình chiến dịch là hành quân thực sự với bộ đội: cùng ăn cơm từ ba,
bốn giờ sáng không cần súc miệng, cùng trèo đèo vượt núi, bám theo
hơi thở người đi trước mà bước; cùng làm cơng tác chính trị, dân vận,
đốt đuốc, lội suối đi khai hội với đồng bào, hát đồng ca với học sinh;
cũng theo bộ đội đi công đồn, nằm sát đồn giặc chờ phút khai hoả
“gối đầu ngủ ngay bên một đàn kiến càng”, cũng theo các chiến sĩ
vào đồn giặc vừa san phẳng, chào cờ ngay giữa trại giặc còn hầm hập
lửa đạn…
Ngòi bút của ơng mang đầy trách nhiệm và tình người, chứng
tỏ sự thay đổi về sự nhận thức rất quan trọng trong tư tưởng của
Nguyễn Tuân. Nhà văn đã thực sự sống trong lòng quần chúng, cảm
nhận và chia sẻ được niềm vui cũng như nỗi đau, sự mất mát của họ
để rồi: “nhiều đồng bào đã nhớ tên tôi và cả người tôi đã thấm sâu
vào cảnh và người mộc mạc đáng yêu nhất vùng này”.

Sông Đà là kết quả của cuộc đấu tranh tư tưởng và chuyến đi
Tây Bắc của Nguyễn Tuân. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thiên
nhiên và con người Tây Bắc hiện lên với vẻ đẹp rực rỡ muôn sắc
màu, rất nên thơ mà cũng đầy gợi cảm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn


24
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xn” [44, 596]. Dịng sơng Đà được Nguyễn
Tuân miêu tả bằng những đoạn văn giàu nhạc điệu và thấm đẫm chất
trữ tình: “Cảnh ven sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần,
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi
qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa. Mà tịnh khơng
một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm… Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” [44, 597].
Còn rất nhiều những trang viết đầy âm sắc được Nguyễn Tuân
khắc họa nên khi nói về vẻ đẹp của con sông Đà cái tạo nên phong
cách mới trong con người Nguyễn Tuân chính là vẻ đẹp thiên nhiên
ấy đã được gắn kết với vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Nguyễn
Tuân gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người Việt Bắc. Tác
giả ngược dòng lịch sử tìm kiếm nó ở những người chiến sĩ cách
mạng kiên cường… Ơng trở về hiện tại, tìm đến những người đi mở
đường suốt ngày suốt đêm, nắng cũng như mưa không bao giờ để kỷ
lục nằm quá 24 tiếng”, những chiến sĩ biên phòng Tây Trang sống
heo hút trong nắng thiêu, trong gió Lào, những người dân cơng Tây
Bắc dũng cảm vượt thác sông Đà để vận tải hàng mậu dịch, những
đồng chí bộ đội từng chiến đấu để giải phóng Điện Biên, nay lại tự
nguyện đem cả gia đình lên Điện Biên lập nghiệp, những cán bộ địa

chất đi tìm quặng mỏ…
Lịng u say mê cuộc sống mới là nguồn động lực giúp cho
Nguyễn Tuân đi nhiều và viết nhiều. Không chỉ dừng lại ở vùng Tây
Bắc, Nguyễn Tuân đến tận Hoàng Liên Sơn, lên “Mỏm Lũng Cú tột
Bắc”, ra thăm đảo “Cô Tô”, về bãi biển Cửa Tùng, về thăm đất lửa
Quảng Trị, Huế, Sài Gòn…


25
Trong những ngày Hà Nội đánh Mỹ, Nguyễn Tuân cũng đã viết
tập ký Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi nói về ý chí, lịng quả cảm của bộ đội,
nhân dân thủ đô đồng thời vạch trần bộ mặt bỉ ổi, đê tiện của bọn Đế
quốc. Qua Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Nguyễn Tuân mang đến cho
người đọc một lượng thông tin đầy đủ chi tiết sống động không chỉ
về lịch sử, truyền thống, cảnh quan của đất Hà Nội, và nếp sống, tâm
hồn tính cách, phong thái… người Hà Nội, mà cịn cho người đọc
hiểu thêm về "tính cách Mỹ". Ở đây tất cả những nét "yêng hùng", "sĩ
diện Hoa Kỳ" và "ngu Mỹ", "ác Mỹ" đều hiện nguyên hình dưới ngịi
bút sắc sảo của Nguyễn Tn.
Phải là một con người có sự hiểu biết thấu đáo và mang một
tấm lòng yêu tha thiết Hà Nội, Nguyễn Tuân mới có được những
trang viết đặc sắc như vậy về người Hà Nội đánh Mỹ. Người Hà Nội
mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu song vẫn giữ được nét hào hoa,
"tài tử" của mình. Trong bom rơi, đạn nổ, phong thái người Hà Nội
vẫn ung dung, tự tại, đầy lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng của
chính nghĩa.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân - có thể nói như
Nguyễn Đăng Mạnh - ln thể hiện mình là một nghệ sĩ ngông
nghênh, kiêu bạc với đời. Thể hiện phong cách này mỗi trang viết của
Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa và uyên bác, mỗi nhân vật

dù thuộc loại người nào cũng đều phải là những nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái
uống cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hóa mỹ thuật.
Sau cách mạng, phong cách Nguyễn Tn có những thay đổi
quan trọng. Ơng vẫn tiếp cận thế giới thiên về phương diện văn hóa
nghệ thuật, tiếp cận con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ,
nhưng giờ đây ông không đối lập xưa với nay mà tìm thấy chất tài
hoa nghệ sĩ khơng chỉ ở những tính cách phi thường mà ở cả nhân


×