Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nâng cao vai trò của đảng và nhà nước trong việc thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý ở việt nam thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.91 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................2
1. Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới
trong lãnh đạo, quản lý..............................................................................................2
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý.......................................................................................................................2
1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý.......................................................................................................................6
2. Những kết quả đạt được của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện
bình đẳng giới tại Việt Nam trong thời gian vừa qua................................................8
2.1. Những thành tựu đạt được về thực hiện bình đẳng giới trong thời gian qua......8
2.1.1. Về Lĩnh vực chính trị:...........................................................................8
2.1.2. Về lĩnh vực kinh tế và lao động:.........................................................11
2.1.3. Về lĩnh vực y tế, văn hóa - giáo dục và khoa học công nghệ:.............11
2.1.4. Về lĩnh vực văn hóa và gia đình:.........................................................12
2.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại.........................................................................13
3. Các giải pháp nâng cao vai trò của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc thực
hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế
.................................................................................................................................13
3.1. Tăng cường cụ thể hóa các chủ trương và định hướng của Đảng và Nhà nước
về sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý.................................................14
3.2. Xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ....14
3.3. Nâng cao vai trò của tổ chức hội liên hiệp phụ nữ các cấp..............................15
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị...............................16
KẾT LUẬN.............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................19


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả đáng trân trọng về thúc đẩy bình


đẳng giới, được đánh giá là một trong những quốc gia có khung pháp lý về bình
đẳng giới khá tiến bộ, đồng thời, việc thực hiện bình tẳng giới trong thực tiễn
cũng đạt được những kết quả tích cực. Trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển
của xã hội mang tính bền vững, nhân tố con người có vai trị quan trọng, quyết
định nhất. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Quá trình phát triển sẽ bị hạn chế nếu như một nửa nhân loại là phụ nữ vẫn bị
phân biệt, đối xử và kìm hãm sự phát triển. Nhận thức được vai trò của thực hiện
bình đẳng giới, trong suốt quá trình lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln dành sự quan tâm đặc biệt đến phụ nữ, coi phụ nữ là nguồn lực quan
trọng, thực hiện bình đẳng giới là nhiệm vụ mang tính chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, bình đẳng giới là một trong những tiêu chí đánh giá sự
phát triển của một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì thế, bình đẳng giới là
một yêu cầu khách quan, một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của
Việt Nam, mà của toàn nhân loại. Nhận thức được điều này nên bình đẳng giới
đang là vấn đề quan tâm của tồn nhân loại trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, thời gian qua vẫn còn khoảng cách giới dẫn đến bất bình đẳng
giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới ở một số ngành, lĩnh vực, địa phương và
vùng đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiến bộ của giới, nhất là phụ nữ. Vì những
lý do trên, tơi đã chọn đề tài “Nâng cao vai trị của Đảng và Nhà nước trong
việc thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam thời kỳ
hội nhập quốc tế” làm bài thu hoạch cho môn học Giới trong Lãnh đạo, Quản
lý. Do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của tơi khơng tránh
khỏi sai sót rất mong được thầy, cơ giáo xem xét và góp ý kiến cho bài tiểu luận
được hoàn thiện.
Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2019.
1


NỘI DUNG

1. Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới
trong lãnh đạo, quản lý
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý
Theo Luật bình đẳng giới của Việt Nam, tại điểm 3, điều 5, năm 2006 đã khẳng
định: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình
và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Tuy nhiên, cũng cần phải
hiểu bình đẳng giới là một nội dung của bình đẳng xã hội, khi phụ nữ và nam giới có
được vị trí xã hội như nhau, các khác biệt tự nhiên giữa họ đều được tơn trọng. Sự
phát triển tồn diện của mỗi người (nam cũng như nữ) được xem là điều kiện phát
triển, tiến bộ của xã hội. Sự bình đẳng khơng chỉ được ghi nhận trong luật pháp mà
còn được đảm bảo trong thực tế cuộc sống thông qua các đối xử đặc biệt dành cho
phụ nữ.
Ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng nam nữ được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặt ra
từ sớm. Ngay từ khi ra đời (2/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cao tư tưởng
“nam nữ bình quyền” và coi việc thực hiện tư tưởng đó là một trong mười nhiệm vụ
cốt yếu của cách mạng Việt Nam. “Nam nữ bình quyền” khơng phải là cách sử dụng
từ ngữ ngẫu nhiên của Đảng nhằm đưa nữ giới lên ngang hàng với nam giới, mà là sự
lựa chọn có chủ ý, vừa khoa học, vừa có tính cách mạng trong nhận thức và trong
hành động của Đảng, thể hiện nhận thức tiến bộ vượt bậc, khác về chất so với quan
niệm phong kiến Nho giáo. Đây có thể coi là Bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền bình
đẳng giới ở Việt Nam, trong đó nam, nữ được cơng nhận ngang hàng nhau về chính
trị.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách
2


mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất chú trọng tới công tác phụ nữ. Đảng đã đưa ra

hàng loạt các Nghị quyết, Chỉ thị liên quan đến phụ nữ:“Nghị quyết về phụ nữ vận
động” ngày 28/3/1935 của Đảng Cộng sản Đông Dương; Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 6/12/1957 của Ban Bí thư bàn về “Một số vấn đề về cơng tác vận động phụ nữ”;
Chỉ thị của Ban Bí thư số 137-CT/TƯ ngày 10/4/1959 “Về việc tăng cường lãnh đạo
công tác vận động phụ nữ”; Chỉ thị số 43-CT/TW, ngày 25/4/1962 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng “Về cơng tác bảo vệ bà mẹ trẻ em”; Nghị quyết của Ban Bí thư số
152 - NQ/TW ngày 10/1/1967 “Về một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ
vận”. Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về một
số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Các Nghị quyết, Chỉ thị này đã đề cao
vai trị, vị trí của giới nữ đồng thời cũng đưa ra các phương hướng, giải pháp tăng
cường hơn nữa vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội. Một bước tiến trong
q trình thực hiện bình đẳng nam nữ ở Việt Nam đó chính là việc Quốc hội nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 11 thơng qua Luật hơn nhân
và gia đình ngày 29/12/1959; Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đầu tiên
trên thế giới ký tham gia Cơng ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (gọi tắt là Công ước CEDAW) vào ngày 29/7/1980, phê chuẩn vào ngày
27/11/1981 khẳng định những mong muốn và nỗ lực của Việt Nam trong việc thực
hiện những mục tiêu chung của toàn nhân loại, nhằm bảo vệ quyền con người và
quyền của phụ nữ.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, vận hội, thời cơ, thử thách cho phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa, bình đẳng, dân chủ đan xen và tác động lẫn nhau, trong đó
có cơng tác bình đẳng giới. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về cơng tác
phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt trong Nghị quyết Đại hội Đảng,
các Nghị quyết và Chỉ thị của Trung Ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về cơng
tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy
bình đẳng giới.
3



Tại Đại hội X, XI, và XII, Đảng cũng dành sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề
bình đẳng giới, chăm lo cho phụ nữ, tạo điều kiện để chị em ngày càng khằng định vị
trí trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng tiếp tục khẳng định phải “Nâng cao
trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng
giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện
luật pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực
hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội”. Điều đáng ghi
nhận là Đảng luôn nhận thức và đánh giá đúng đắn vai trò “kép” của phụ nữ - vừa là
người “giữ lửa” trong gia đình, vừa có đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước
nên phụ nữ nên và đáng được nhận những ưu tiên của xã hội. Điều này thể hiện sự
nhận thức đúng đắn của Đảng về bình đẳng giới - nghĩa là nam giới và nữ giới được
công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau ngoài xã hội. Đồng thời, sự tương đồng và
khác biệt giữa nam giới và nữ giới được cơng nhận. Để thực hiện được chủ trương
đó, “Đảng và chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và
giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả cơng việc lãnh
đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến
quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”
Dựa trên các cơ sở pháp lý cao nhất và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề bình đẳng giới, để thể chế hóa thêm một bước các quyền bình đẳng
giới, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thơng qua Luật bình đẳng giới ngày 29/11/
2006, và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Luật gồm 6 chương, 44 điều, quy
định đầy đủ các vấn đề và điều khoản nhằm thực hiện bình đẳng giới ở nước ta. Có
thể nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta có luật quy định về vấn đề bình đẳng
giới, bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ. Luật này quy định nguyên tắc bình đẳng
giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, hiến pháp bảo đảm bình đẳng
giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình
đẳng giới; thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giơí. Luật
khẳng định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
4



như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân
lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình”. Luật Bình đẳng giới là đạo luật đầu tiên ở Việt Nam điều chỉnh tập
trung nhất các chế định về bình đẳng giới, tạo cơ sở pháp lý thực hiện, thúc đẩy bình
đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.
Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/TTg ngày
3/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ Về việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới;
các văn bản hướng dẫn thi hành luật như: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP của Chính
phủ Về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, Nghị
định số 48/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định Về các biện pháp bảo đảm bình
đẳng giới, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm
hành chính về bình đẳng giới.
Tiếp đó, ngày 21/11/2007, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình cũng được
Quốc hội thơng qua. Luật gồm 6 chương, 46 điều, xác định rõ các hành vi bạo lực gia
đình cũng như các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Các điều
khoản của luật hướng tới mục tiêu tạo sự bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình,
tiến tới xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc, với sự tiến bộ của
phụ nữ.
Sự ra đời của Luật Bình đẳng giới, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình và các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, thi hành đã góp phần thể chế hóa các chủ
trương, đường lối của Đảng về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ; khắc phục tình
trạng phân biệt đối xử về giới và những khoảng cách giới trong thực tế. Luật Bình
đẳng giới, Luật Phịng,chống bạo lực gia đình ra đời là thành tựu quan trọng trong
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, là
công cụ pháp lý hữu hiệu thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phấn đấu thực hiện Bình đẳng
giới ở Việt Nam. Đây cũng là sự tiếp tục khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong
việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập khu vực và quốc tế.
5



Trên cơ sở thành tựu và hạn chế trong thực hiện bình đẳng giới trong chặng
đường 10 năm từ năm 2011 đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: “Chiến
lược quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2010” ban hành kèm theo Quyết định
số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là sự tiếp nối và
khẳng định những nỗ lực không ngừng nghỉ của Đảng, Nhà nước và nhân dân nhằm
thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, và thực hiện mục tiêu chung mà đại hội Đảng lần
thứ XI đã đề ra: xây dựng nước Việt Nam “Dân chủ, công bằng, văn minh”. Chiến
lược này cũng thể hiện rât rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bình đẳng
giớ. Điều 1 của Chiến lược này quy định: “chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là
một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Cơng tác bình đẳng giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và tồn xã hội”. Chiến lược cũng đề
ra được những giải pháp chung và các giải pháp cụ thể thực hiện từng nhóm mục tiêu
cụ thể. Việc cụ thể hóa các mục tiêu phấn đấu theo từng giai đoạn và đề ra các giải
pháp cụ thể thực hiện từng nhóm mục tiêu khẳng định Đảng và Nhà nước đã quan
tâm tới tình hình thực tiễn trong việc đề ra những chủ trương, chính sách bảo đảm
bình đẳng giới.
1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý
Ngay khi ra đời, Đảng ta sớm xác định nam nữ bình quyền là một trong 10
nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay, Đảng ln đề cao vai trị
của phụ nữ và đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về công tác phụ nữ, như:
Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10-1-1967 về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công
tác phụ vận; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng cường
cơng tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16-5-1994
về một số vấn đề cơng tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Đặt biệt Nghị quyết số 11NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-4-2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước xác định: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ
6



tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan
trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng”, thể hiện cụ thể trong việc xây
dựng và thực hiện Đề án tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng
giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới (Thơng báo số 196-TB/TW ngày
16-3-2015).
Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định phải “nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống
vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hồn thiện luật pháp và chính sách đối
với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách
nhiệm của mình trong gia đình và xã hội”(1).
Về phía Nhà nước, địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam đã được quy định trong
Hiến pháp 1946 : “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9);
“Mọi cơng dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn
hóa” (Điều 6) và “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 7)... Luật Bình
đẳng giới (2006) xác định: Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát
triển tồndiện, phát huy vai trị trong xã hội. Bộ luật nghiêm cấm phân biệt đối xử về
giới và xác định 8 lĩnh vực cần tập trung thực hiện bình đẳng giới là: chính trị, kinh
tế, giáo dục - đào tạo, y tế, gia đình, khoa học và cơng nghệ, văn hóa thơng tin, thể
dục thể thao.Trong đó, bình đẳng giới trong chính trị (Điều 11) gồm: bình đẳng trong
tham gia quản lý nhà nước, hoạt động xã hội; trong tham gia xây dựng và thực hiện
quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; trong việc tự
ứng cử đại biểu quốc hội, HĐND, ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp. Nam nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chun mơn, độ tuổi khi
được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức.
Trong thực tế, việc hiện thực hóa bình đẳng giới được qn triệt mạnh mẽ. Chỉ
riêng trong lĩnh vực trao quyền cho phụ nữ, các văn bản chỉ đạo của Trung ương và
các cấp ủy địa phương, ngành đưa ra quy định về tỷ lệ “không dưới” và tinh thần
7



“nhất thiết có” thành phần phụ nữ trong mỗi tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đặc
biệt là Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã cụ thể những tiêu mốc cho bình
đẳng giới trong chính trị như: Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ các
cấp đạt 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp đạt 35-40%.
Các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ 30% trở lên nhất thiết phải có lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù
hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước đạt 30% trở lên.
2. Những kết quả đạt được của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc thực
hiện bình đẳng giới tại Việt Nam trong thời gian vừa qua
2.1. Những thành tựu đạt được về thực hiện bình đẳng giới trong thời gian qua
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực để mang lại bình đẳng
giới thực sự cho nhân dân Việt Nam, để người dân Việt Nam thật sự được sống trong
một xã hội văn minh, phát triển bền vững, nhân văn. Mặc dù còn một số những hạn
chế trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luậtc
uat Nhà nước về bình đẳng giới như: bất bình đẳng giới cịn thể hiện trên một số lĩnh
vực xã hội quan trọng, phụ nữ vẫn chịu nhiều gánh nặng công việc, thu nhập, phân
biệt đối xử; sự tham gia của phụ nữ trong cơ cấu tổ chức, quản lý xã hội còn hạn chế,
đặc biệt ở cấp cơ sở; ở một số nơi vấn đề chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng
một vị trí cơng việc vẫn diễn ra, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu
nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao
động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu
cắt giảm nhân lực; tình trạng bạo hành phụ nữ vẫn diễn ra ở một số nơi, nhất là ở
vùng nông thôn, miền núi xa xôi. Tuy nhiên, có thể nói Việt Nam là một trong số các
nước có nhiều thành tựu về thực hiện bình đẳng giới góp phần quan trọng phát triển
đất nước trong thời kỳ hội nhập:

8



2.1.1. Về Lĩnh vực chính trị:
Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước góp phần thực hiện tốt chương trình bình
đẳng giới trên các lĩnh vực. Trong đó, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là một
trong những lĩnh vực nỗi bật và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới đến năm 2020; Luật Bình đẳng giới (năm 2006) và nhiều nghị
quyết quan trọng của Đảng được ban hành là những bằng chứng về cam kết chính trị
trong việc trao quyền cho phụ nữ. Bình đẳng về cơ hội giữa nam và nữ trong chính trị
đã được khẳng định trong Chiến lược cũng đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể: chỉ tiêu 1:
Phấn đấu tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ 25% trở lên; tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ
30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%; chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015
đạt 80%, đến năm 2020 đạt trên 95% số bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến
năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30%
trở lên nữ cán bộ, cơng chức, viên chức, người lao động. Đây là cơ sở quan trọng để
toàn Đảng và toàn xã hội tạo điều kiện thúc đẩy việc tăng cường sự tham gia của phụ
nữ với vai trò lãnh đạo, quản lý trong tương lai.
Việt Nam là một trong các quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong
vòng hơn 20 năm qua, đã hồn thành trước thời hạn mục tiêu bình đẳng nam nữ và
nâng cao vị thế cho phụ nữ (đây là một trong các Mục tiêu Thiên niên kỷ mà chúng ta
phấn đấu đạt tới); Việt Nam được Liên Hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong việc
thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, là một trong những nước có thành tựu về bình
đẳng giới cao. Theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng
giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ
hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao); Tỷ lệ đại biểu nữ chiếm trên 25%
(từ khóa IX đến khóa XII) và kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV nhiệm kỳ
2016-2021 với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72%, tăng 2,62% so với

9


nhiệm kỳ trước đã đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội
cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 ở châu Á về tỷ
lệ phụ nữ trong Quốc hội (cao hơn Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản…) và cũng là
lần đầu tiên Việt Nam có nữ Chủ tịch Quốc hội ; Mặc dù chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn nhưng tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 cấp
tỉnh đạt 26,54% (tăng 1,37%); cấp huyện đạt 27,85% (tăng 3,23%) và cấp xã đạt
26,59% (tăng 4,88%); “Tính đến hết 6/2017, ở Việt Nam có 12/30 Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, đạt
tỷ lệ 40%, gồm: 10/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 02/08 cơ quan thuộc Chính phủ”.
Q trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cho
thấy, Việt Nam là một trong số ít nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội đạt 24,3%. Trong khối cơ quan đảng, ở cấp Trung ương, nhiệm
kỳ 2005 - 2011, tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng (kể cả ủy viên dự
khuyết) là 10%, tăng so với nhiệm kỳ 2001 - 2005 (8,6%), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia
Ban Bí thư Trung ương Đảng là 20% (2/10 đồng chí). Ở cấp địa phương, tỷ lệ nữ là
đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh, huyện và xã ở các giai đoạn đều tăng, đặc biệt là ở
cấp xã. Phụ nữ là lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng cũng hết sức khiêm tốn,
chỉ có 8,57% trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và 2/16 nữ là ủy viên
Bộ Chính trị. Xu hướng tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương tăng không ổn
định qua các nhiệm kỳ (8,6% nhiệm kỳ 2001 - 2006; 8,13% nhiệm kỳ 2006 - 2010;
8,57% nhiệm kỳ 2011 - 2016). Đối với cấp tỉnh, huyện và xã cũng chưa đạt đến 20%
tỷ lệ là nữ trong cấp ủy. Ở cấp đảng bộ cơ sở, tỷ lệ nữ nắm giữ các vị trí chủ chốt cịn
thấp.
Phụ nữ Việt Nam đã tham gia tích cực vào lãnh đạo, quản lý và bước đầu được
ghi nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, nếu so với tiềm năng và nguồn lực cán bộ nữ trong
hệ thống chính trị thì tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn hết sức khiêm tốn. Tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội có xu hướng tăng khơng bền vững và có dấu hiệu giảm trong 2

nhiệm kỳ liên tục (Khóa X đạt 26,2%, khóa XI đạt 27,3%, khóa XII đạt 25,7% và
10


khóa XIII chỉ cịn 24,4%), chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ đến 2020 (phấn đấu đạt từ 33% trở lên). Tỷ lệ cán bộ nam và nữ nắm giữ các
vị trí ra quyết định vẫn còn một khoảng cách khá xa, quyền quyết định ở các cấp vẫn
chủ yếu là cán bộ nam. Năm 2018, Việt Nam xếp thứ 89 trên tổng số 93 nước xếp
hạng về có các chức danh bộ trưởng là nữ. Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ ở cấp
xã, thôn là rất thấp. Nếu thiếu lực lượng này thì nguồn cán bộ nữ cho những vị trí cấp
cao hơn trong những năm tới sẽ gặp khó khăn.
2.1.2. Về lĩnh vực kinh tế và lao động:
Trong lĩnh vực kinh tế và lao động, chỉ tính riêng năm 2016, giải quyết việc
làm cho khoảng 1,641 triệu lao động, trong đó lao động nữ chiếm 48%. Chỉ tiêu này
đã vượt 8% so với chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011 – 2020; “Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến 1/7/2017 lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính là 54,5 triệu người, trong đó lao động nam
28,3 triệu người chiếm 52%, lao động nữ 26,2 triệu người chiếm 48%”. “Trong năm
2016, có 10 địa phương đạt tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp từ 30% trở lên. Riêng đối
với Bình Dương, tỷ lệ nữ tham gia ban lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước đạt 50%”.
Trong giai đoạn 2010¬-2015, số lượng lao động nữ chuyển dịch ra khỏi khu vực nông
nghiệp cao hơn lao động nam. “Nếu như năm 2010, tỷ trọng lao động nữ và nam làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp tương ứng là 51,2% và 46,4%; thì đến năm 2015, các
tỷ lệ này đã giảm xuống tương ứng còn 45,5% và 42,7%”; Công tác đào tạo nghề,
giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt ở khu vực nông thôn được chú trọng,
ước có khoảng trên 46% lao động nữ được học nghề theo chính sách của Đề án đào
tạo nghề cho lao động nông thôn; trên 40% lao động nữ được giải quyết việc làm.
Ngoài ra, quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy
định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai,
nhà ở và tài sản. Cơ hội tiếp cận tín dụng của phụ nữ được cải thiện.


11


2.1.3. Về lĩnh vực y tế, văn hóa - giáo dục và khoa học công nghệ:
Trong lĩnh vực y tế, văn hóa - giáo dục và khoa học cơng nghệ, Việt Nam cũng
là nước dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về các chỉ số bình đẳng giới
thông qua việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục tới trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ,
nam giới, tỷ lệ mù chữ của nữ giới so với nam giới ngày càng giảm… Đây là những
con số rất có ý nghĩa, bởi việc thực hiện bình đẳng giới sẽ giúp mang lại các nguồn
lợi lớn cho sự phát triền bền vững của mỗi quốc gia.
Công tác dự phòng lây truyền từ mẹ sang con hiện đang được triển khai trên
địa bàn toàn quốc với những định hướng mới đối với các can thiệp về phòng lây
truyền từ mẹ sang con. Kết quả đạt được như sau: “tỷ lệ phụ nữ mang thai được điều
trị dự phòng giúp giảm lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đạt 55,7%, tỷ lệ trẻ sinh ra từ
mẹ nhiễm HIV được làm xét nghiệm HIV trong vòng 02 tháng sau sinh đạt 48,4%,
ước tính tỷ lệ trẻ nhiễm HIV sinh ra từ mẹ nhiễm HIV trong vòng 12 tháng qua là
12,4%”. Kết quả trên cho thấy, ngành y tế Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thực hiện
hiệu quả mục tiêu chặn đứng và đẩy lùi tình trạng lan rộng của bệnh dịch HIV/AIDS
(một trong 4 Mục tiêu Thiên niên kỷ về y tế).
2.1.4. Về lĩnh vực văn hóa và gia đình:
Văn hóa là nền tảng để con người tham gia và thực hiện quyền cơng dân của
mình. Từ Hiến pháp đầu tiên (1946) đến hiến pháp 1992 của Nhà nước Việt Nam đều
khẳng định Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Với phương châm, giáo dục
là quốc sách hàng đầu, hiện nay hệ thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng tương
đối hoàn chỉnh và thống nhất; mở rộng về quy mô và bước đầu đa dạng hóa loại hình
và phương thức đào tạo, tạo nhiều cơ hội cho người dân trong đó có phụ nữ tham gia
học tập. Ngày càng nhiều tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ có cơng trình
nghiên cứu được nhận giải thưởng VIFOTEC của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ
thuật Việt Nam, Bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội

Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, Giải thưởng Kô-va-lép12


xkai-a... Nhiều nhà khoa học nữ đã lập ra các hội nghề nghiệp, các câu lạc bộ, trung
tâm nghiên cứu, tư vấn để tiếp tục phát huy trí tuệ, tài năng của mình đóng góp vào
sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực gia đình, Hệ quả của sự chuyển biến về kinh tế - xã hội là
những thay đổi lớn lao trong đời sống gia đình Việt Nam. Cơng việc của phụ nữ được
các thành viên trong gia đình chia sẻ; vị thế của phụ nữ được cải thiện đáng kể; quyền
quyết định của phụ nữ gần tương đương với nam giới và trở thành một chủ thể quan
trọng trong đời sống gia đình. Họ khơng chỉ tham gia vào mọi lĩnh vực hoạt động của
gia đình mà cịn thay mặt gia đình tham gia hoạt động cộng đồng hay giao tiếp với
các thiết chế xã hội khác, hoàn tồn với tư cách chủ gia đình, điều mà trước đây chưa
hề có. Như vậy, rõ ràng là vai trị của phụ nữ ngày càng khơng thể thiếu trong q
trình đổi mới đất nước.
2.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác bình đẳng giới trong
những năm qua cịn một số hạn chế như: dù đã rất cố gắng nhưng một số chủ trương
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới vẫn chưa được áp
dụng triệt để hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống; Sự quan tâm của cấp ủy, chính
quyền một số địa phương, Bộ, ngành (nhất là người đứng đầu) còn chưa thật sự sát
sao, thực chất do đó cơng tác bình đẳng giới hoạt động cịn mang tính hình thức, chưa
đạt được hiệu quả mong muốn; công tác tuyên truyền vận động của Đảng và Nhà
nước về bình đẳng giới vẫn chưa thực sự hiệu quả; Việc thực hiện bình đẳng giới
trong lĩnh vực cụ thể vẫn còn nhiều hạn chế; Định kiến giới cịn tồn tại gây khó khăn
trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương,
cơ sở; bên cạnh đó một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận; Đội ngũ cán bộ làm cơng
tác bình đẳng giới cịn mỏng (nhất là tại các địa phương) nên chưa thực sự phát huy
được vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc tham gia đánh giá về lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình, dự

án khác.
13


3. Các giải pháp nâng cao vai trò của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc
thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam thời kỳ hội nhập
quốc tế
Để tiến tới bảo đảm bình đẳng giới trong chính trị địi hỏi nhiều giải pháp tổng
hợp, mang tính đột phá. Chúng tơi cho rằng, trong quá trình tìm kiếm các giải pháp
phù hợp để gia tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội thì việc thơng qua q trình xã hội hóa cá nhân (qua các kênh nhà
trường, gia đình, nhóm bạn bè, truyền thông đại chúng...) để thay đổi những định kiến
về vai trò, vị thế của phụ nữ là hết sức quan trọng. Các giá trị, khuôn mẫu giới cần
được tiếp biến, chuyển tải qua các thế hệ theo hướng bình đẳng về cơ hội, điều kiện
cho cả hai giới cùng phát triển.
3.1. Tăng cường cụ thể hóa các chủ trương và định hướng của Đảng và Nhà
nước về sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý
Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn ý thức và đánh giá cao vai trò
của phụ nữ Việt Nam - một lực lượng quan trọng trong suốt chặng đường phát triển
của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước, Đảng đã ban hành Chỉ thị số
44- CT/TW (năm 1984) về Công tác cán bộ nữ, đến Nghị quyết số 04-NQ/TW (năm
1993) của Bộ Chính trị về Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong
tình hình mới và gần đây nhất là Nghị quyết số 11-NQ/TW (năm 2007) của Bộ Chính
trị về Cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong đó nhấn mạnh phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một trong các quốc gia
có thành tích bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực. Điều đó thể hiện cam kết chính trị
của Đảng trong việc thúc đẩy vai trò, vị thế của phụ nữ trong bối cảnh đổi mới toàn
diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên có một thực tế là từ quyết tâm
chính trị và chủ trương, đường lối đến việc triển khai thực hiện còn có khoảng cách
khá rõ, nhất là trong bối cảnh đất nước bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo

và các quan niệm truyền thống về phụ nữ như ở Việt Nam.
14


3.2. Xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ
Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định “Xây dựng, phát
triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu
cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng”.
Do đó “Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ
trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Ðảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa
phương. Ðối với cán bộ nữ, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch, phải chăm lo đào
tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm tiêu chuẩn của
từng chức danh, có khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu
điểm của cán bộ nữ. Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong
quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm”.
Dự án nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu hội
đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử đại biểu
Quốc hội, nữ ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020, nữ
cán bộ thuộc diện quy hoạch là một trong 5 dự án quốc gia được Chính phủ phê duyệt
thực hiện bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Dự án nằm trong khn khổ Chương
trình Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015, là một trong những chiến
lược quốc gia quan trọng đối với việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, các cơ quan, nhất là người đứng đầu cơ quan phải đặt nhiệm vụ
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong tổng thể công tác cán bộ của cấp
ủy. Trong từng cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ nữ theo
quan điểm phát triển, chú trọng yếu tố giới. Trong quy hoạch, đào tạo của cơ quan
phải nhất thiết bảo đảm tỷ lệ nữ phù hợp. Công tác luân chuyển cán bộ nữ phải phù
hợp với điều kiện, sở trường cơng tác để đào tạo tồn diện từ thực tiễn đối với cán bộ
nữ. Đồng thời, mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ trẻ có triển vọng phát triển.


15


3.3. Nâng cao vai trò của tổ chức hội liên hiệp phụ nữ các cấp
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thông qua quy định trách nhiệm của các cấp
Hội trong công tác cán bộ nữ cần tăng cường thực hiện chức năng đại diện của tổ
chức; chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các chủ
trương, chính sách về cơng tác cán bộ nữ; phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu nguồn cán
bộ nữ có chất lượng cho Đảng; tham gia có hiệu quả vào công tác quy hoạch, đào tạo
cán bộ nữ ở các cấp. Trong đó cần coi trọng cơng tác tham mưu, đề xuất, tham gia
giám sát và phản biện xã hội; giới thiệu nguồn cán bộ nữ; tham gia đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nữ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên... góp phần vào
thành tựu chung về bình đẳng giới của Việt Nam. Thơng qua chức năng, nhiệm vụ
của mình, các cấp hội phụ nữ cần khuyến khích mỗi hội viên khơng ngừng nâng cao
sự hiểu biết, kiến thức xã hội, chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng phát hiện các nhân
tố có năng lực để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cho các vị trí trong hệ
thống chính trị. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để từng bước nâng cao
nhận thức về vai trò và vị thế của phụ nữ Việt Nam là một trong những công việc
thường xun. Cần có những sáng kiến trong các chương trình, kế hoạch của Hội,
như tổ chức thi tìm hiểu về Luật Bình đẳng giới và khuyến khích các gương điển
hình, tiên tiến trong các phong trào của Hội, tránh bệnh hình thức, quan liêu. Thơng
qua mỗi hội viên để xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới, hình thành những giá trị,
chuẩn mực mới về bình đẳng giới để từng bước đẩy lùi những quan niệm định kiến
giới đã ăn sâu trong tiềm thức của các nhóm xã hội.
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị
Phát huy tiềm năng to lớn của lực lượng nữ - nguồn lực quan trọng của đất
nước, là yêu cầu tất yếu, khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công
tác cán bộ của Đảng. Để nâng cao năng lực và phát huy hơn nữa sự tham gia của phụ
nữ trong hệ thống bộ máy đảng, nhà nước và đồn thể ở nước ta trong tình hình mới,

cần quan tâm một số biện pháp như sau:
16


Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và công tác cán bộ
nữ trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các đồn thể và quần chúng nhân dân. Tích
cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội.
Quan tâm xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, nâng cao năng lực của
phụ nữ về mọi mặt nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của
hệ thống chính trị; thực hiện quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng
cán bộ nữ, bảo đảm yêu cầu phát triển liên tục, bền vững đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh tình trạng khi đại hội, bầu cử mới tìm
kiếm nhân sự đủ tiêu chuẩn.
Rà sốt, xây dựng, bổ sung, hồn thiện chính sách đối với phụ nữ nói chung và
cán bộ nữ nói riêng nhằm tạo điều kiện phát huy tiềm năng của phụ nữ. Quan tâm đặc
biệt tới xây dựng chính sách cho các đối tượng cán bộ nữ. Xem xét sửa đổi Bộ luật
Lao động và các luật liên quan về vấn đề nghỉ hưu của nữ cán bộ, công chức.

17


KẾT LUẬN
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được xem là một trong những nội dung
quan trọng, then chốt, tạo cơ hội cho phụ nữ được nói tiếng nói đại diện cho giới
mình, được phát huy trình độ năng lực, kinh nghiệm, thể hiện quan điểm trong quyết
định các chính sách về các lĩnh vực khác nhau của quốc gia. Thơng qua đó, góp phần
tạo nên nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Có thể nói, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã
tạo ra một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc đảm bảo quyền bình

đẳng của phụ nữ nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền bình đẳng nam nữ
trên thực tế. Để tăng cường nữ giới trong lĩnh vực chính trị, địi hỏi chúng ta cần tăng
cường giáo dục, tuyên truyền hơn nữa nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người
dân trong việc nhìn nhận vai trị, vị trí của phụ nữ; sự cam kết và đầu tư mạnh mẽ của
Chính phủ, sự tham gia của các cấp, ngành, đoàn thể và mỗi cá nhân trong việc nâng
cao vị thế, vai trò người phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực
chính trị.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử,
2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
3. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VI", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 104
4. Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 324
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr
147
6. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 465
7. Nguyễn Vân Anh (Chủ biên) (2008), Phịng chống bn bán người, Trung tâm
Nghiên cứu và ứng dụng Khoa học về Giới - Gia đình -Phụ nữ và vị thành niên
(CSAGA), Hà Nội.
8. Đoàn Xuân Diệp. 2012. Vai trò của nữ giới trong khối cơ quan nhà nước cấp tỉnh
trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Dự án Nâng cao năng lực lãnh đạo cho phụ nữ trong
khu vực nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (EOWP), Bộ Ngoại
giao Việt Nam và UNDP.
9. Lê Thị Dung. 2012. Nghiên cứu các yếu tố tác động đến khả năng thăng tiến của
phụ nữ trong các cơ quan đảng, chính quyền, đồn thể ở tỉnh Tun Quang.

10.Lê Thị Kim Lan. 2012. Vai trò phụ nữ trong quản lý hệ thống giáo dục công lập
ở miền Trung: thực trạng, rào cản và giải pháp. Trường Đại học Khoa học – Đại
học Huế. Dự án Nâng cao năng lực lãnh đạo cho phụ nữ trong khu vực nhà nước
19


trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (EOWP), Bộ Ngoại giao Việt Nam và
UNDP.
11.Lê Thị Mỹ Hiền. 2011. Báo cáo nghiên cứu: Quan điểm, thái độ và hành vi của
người dân, cán bộ về khía cạnh giới trong lãnh dạo, quản lý UBND xã, phường.
EOWP. 2011
12.Nguyễn Thanh Lân. 2014. Sự tham gia của phụ nữ trong hoạt động nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam: Khó khăn và định hướng giải quyết. Báo cáo tài liệu hội
thảo: “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ tỉnh An Giang trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học” do Trường Đại học An Giang tổ chức.

20



×