Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

503 Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường Trung học phổ thông (THPT) tỉnh Thái Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.36 KB, 94 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, đất nớc ta đang bớc vào một thời
kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trờng
định hớng XHCN, hớng tới kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế với
nhiều thuận lợi và khó khăn, thử thách phải vợt qua. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: Lấy việc
phát triển nguồn lực con ngời là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nhấn mạnh: tiếp tục phát huy nhân tố
con ngời và tăng cờng nguồn lực con ngời để từng bớc phát triển kinh tế tri
thức. Bởi lẽ, con ngời vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển, đầu t
cho con ngời chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo đảm vững
bền cho sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Việc phát triển nguồn nhân lực là
chìa khóa quyết định thành công của giai đoạn cách mạng mới trên đất nớc
ta.
GD-ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong
hệ thống trờng học với chủ thể là đội ngũ nhà giáo là con đờng ngắn nhất và
khoa học nhất để truyền thụ tri thức cho học sinh một cách cơ bản có hệ thống
và hiệu quả. Hệ thống giáo dục nớc ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học đ-
ợc xây dựng chặt chẽ và mang tính phát triển, đội ngũ nhà giáo là lực lợng nòng
cốt thực hiện mục tiêu GD-ĐT, là ngời xây dựng cho học sinh thế giới quan, nhân
sinh quan tiến bộ, trang bị cho học sinh tri thức và phơng pháp t duy khoa học, khả
năng làm việc độc lập, sáng tạo. Vì vậy, vai trò của đội ngũ nhà giáo rất quan
trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu ấn trong tơng lai. Khi nói về vai trò của đội
ngũ nhà giáo, tại hội nghị giáo dục ở Australia năm 1993 các đại biểu đã đa ra
nhận định Ngời giáo viên sẽ là ngời có trách nhiệm làm thay đổi thế giới.
Đảng ta cũng xác định Giáo viên là nhân tố quyết định chất lợng giáo dục và
đợc xã hội tôn vinh [10, tr.38-39].
1
Nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân, các trờng
THPT là một cấp học, một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối


giữa bậc tiểu học, THCS với bậc đại học. Nếu giáo dục đại học là khâu trực tiếp
đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lợng cao tham gia quá
trình CNH, HĐH đất nớc, thì giáo dục THPT là khâu chuẩn bị cho học sinh
THPT bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực tiếp tục học lên hoặc đi vào
cuộc sống lao động. ở cấp học này, đội ngũ nhà giáo có vai trò rất quan trọng
trong việc đào tạo học sinh thành nguồn nhân lực có tri thức, có năng lực và
phẩm chất, có đủ điều kiện để tiếp cận bậc GD-ĐT cao hơn hoặc lao động ở
một ngành nghề cụ thể khi cha có khả năng học tiếp. Nhng hiện nay trong các
trờng THPT, đội ngũ nhà giáo vừa thiếu lại vừa thừa, một bộ phận nhỏ nhà
giáo cha đạt chuẩn đào tạo, một số thiếu năng lực giảng dạy và tinh thần trách
nhiệm. Đáng lo ngại là tác động tiêu cực của cơ chế thị trờng đã làm xói mòn
phẩm chất của một số nhà giáo gây ảnh hởng xấu đến uy tín ngời thầy trong xã
hội [4, tr.21]. Điều đó làm hạn chế việc thực hiện vai trò đào tạo nguồn nhân
lực của đội ngũ nhà giáo, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực
trạng: nhiều học sinh kiến thức lệch lạc, thiếu hiểu biết các vấn đề chính trị - xã
hội, một bộ phận học sinh suy thoái về đạo đức, lối sống; phần lớn học sinh sau
khi tốt nghiệp THPT thiếu khả năng tự tìm kiếm việc làm, cha vững vàng trớc
những biến đổi phức tạp của cuộc sống. Chất lợng đào tạo ở cấp học này cha
thực sự đáp ứng đợc mục tiêu đặt ra. Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay dấu hiệu
một cuộc khủng hoảng GD-ĐT đã đến mức khiến xã hội phải lên tiếng.
Là ngời đã từng trực tiếp tham gia công tác giáo dục ở một trờng THPT
thuộc tỉnh Thái Bình, mong muốn qua việc khảo sát vai trò của đội ngũ nhà
giáo ở một tỉnh để có thể phát hiện những tiềm năng đang tiềm tàng, khơi dậy
năng lực sáng tạo, nhiệt tình cống hiến của đội ngũ nhà giáo trong công tác giáo
dục thế hệ công dân mới của đất nớc, tác giả đã lựa chọn đề tài: Nâng cao vai
2
trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng
THPT tỉnh Thái Bình hiện nay .
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhận thức đợc tầm quan trọng của GD-ĐT và

vai trò của đội ngũ nhà giáo đối với việc phát triển nguồn nhân lực nên ở nớc ta
đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới các khía cạnh khác
nhau của vấn đề nhà giáo và vai trò của đội ngũ nhà giáo:
Những công trình có tính chất định hớng cho việc nghiên cứu về mối
quan hệ giữa GD-ĐT với việc phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ nhà giáo
trong mối quan hệ đó nh: Con ngời Việt Nam, mục tiêu và động lực phát
triển KT-XH mã số KX.07 do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên với nhiều
vấn đề đợc phân tích trong đó có các vấn đề phát triển GD-ĐT, bồi dỡng và
đào tạo lại đội ngũ nhân lực, gia đình - nhà trờng - xã hội với việc phát hiện,
tuyển chọn, giáo dục và đãi ngộ ngời tài; Chiến lợc phát triển giáo dục trong
thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia của Viện nghiên cứu phát triển
giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, là tập hợp những kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lợc phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu khoa học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm,
vai trò của đội ngũ nhà giáo trong giai đoạn hiện nay nh: Xây dựng đội ngũ trí
thức khoa học Mác-Lênin trong các trờng đại học ở nớc ta hiện nay của Phạm
Văn Thanh, công trình chủ yếu bàn về đội ngũ nhà giáo Mác-Lênin và vai trò
của đội ngũ này trong các trờng đại học; Trí thức giáo dục đại học Việt nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của Nguyễn Văn Sơn với nội dung bàn về
việc xây dựng đội ngũ nhà giáo ở các trờng đại học đáp ứng yêu cầu của giáo
dục đại học trong giai đoạn hiện nay; Giáo dục đạo đức cho học sinh THCS tại
thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay của Đỗ Tuyết Bảo đi
sâu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của GD-ĐT đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh THCS trong điều kiện mới; Kinh tế thị với sự hình
3
thành và phát triển nhân cách của ngời thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay của Nguyễn Nh Thơ đã lý giải những biến đổi trong quá trình hình thành
và xây dựng nhân cách s phạm cho đội ngũ nhà giáo; Giáo dục đạo đức XHCN
qua bộ môn GDCD cho học sinh THPT ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu của Nguyễn
Sỹ Quyết Tâm với những giải pháp đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện cho

học sinh THPT...
Tuy nhiên đến nay vẫn cha có một công trình khoa học nào nghiên cứu
về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các tr-
ờng THPT trên địa bàn một tỉnh, trong đó có tỉnh Thái Bình. Do vậy, trên cơ sở
kế thừa những thành quả của các công trình khoa học đi trớc, đứng ở giác độ
chuyên ngành CNXHKH chúng tôi đã chọn đề tài: Nâng cao vai trò của đội
ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT tỉnh
Thái Bình hiện nay để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và
vai trò của đội ngũ nhà giáo, luận văn làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ nhà
giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT tỉnh Thái Bình,
từ đó đa ra giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT của tỉnh.
Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau:
Làm rõ những khái niệm: đội ngũ nhà giáo, nguồn nhân lực, học sinh
THPT, từ đó phân tích đặc điểm, vai trò của đội ngũ nhà giáo với t cách là chủ
thể quan trọng trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT.
Đánh giá đúng thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình
đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT tại tỉnh Thái Bình hiện nay.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT tỉnh Thái Bình.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4
- Đối tợng: Nghiên cứu đội ngũ nhà giáo dới góc độ chính trị - xã hội thể
hiện trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
- Phạm vi: Vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đổi mới nhất là trong
những năm gần đây.
- Địa bàn nghiên cứu: Các trờng THPT tỉnh Thái Bình.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về vai trò của đội ngũ nhà
giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực từ lực lợng học sinh THPT.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động của đội ngũ nhà giáo ở các trờng
THPT tỉnh Thái Bình hiện nay trong mối quan hệ với quá trình đào tạo nguồn
nhân lực.
* Phơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng, phơng pháp duy vật
lịch sử kết hợp với phơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, kế thừa, logic và
lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học , gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã
hội của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Xác định các xu hớng biến động về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT hiện nay.
Xác định quan điểm và hệ thống giải pháp để nâng cao vai trò của đội
ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trờng THPT trong
thời gian tới.
7. ý nghĩa của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức
đầy đủ hơn về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân
lực; làm cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dỡng đội ngũ nhà giáo ở các
5
trờng THPT; làm tài liệu tham khảo cho ngành GD-ĐT mà trớc hết là ngành
GD-ĐT Thái Bình. Góp phần làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu một số vấn đề
về trí thức, con ngời, nguồn nhân lực.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đợc
kết cấu thành 3 chơng 6 tiết.

6
Chơng 1
Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận
của Nguồn nhân lực và Vai trò của đội ngũ nhà giáo
trong quá trình đào tạo bộ phận nhân lực này
1.1. Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận quan trọng
của nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, quốc gia
nào cũng nhận thức rõ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển
KT-XH của đất nớc. Nhiều quốc gia đã xây dựng cho mình chiến lợc phát triển
nguồn nhân lực và coi đó là vấn đề cốt lõi cho sự phát triển.
Khi nói đến nguồn nhân lực tức là muốn nói đến một tài sản quý, vốn
quý có khả năng sinh sôi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý, vốn quý
đó gắn liền với con ngời - một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân lực, là đối tợng
cần đợc đầu t, đợc giáo dục và đợc đào tạo. Có thể hiểu nguồn nhân lực ở một
số nội dung sau:
Thứ nhất, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con ngời hiện thực và chất l-
ợng phát triển của con ngời gắn liền với bản chất xã hội.
Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con ngời hiện thực là một chỉnh
thể sinh học - xã hội, nhng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con ng-
ời. Kết hợp hai mặt sinh học và xã hội, con ngời có một năng lực tiềm ẩn (tiềm
năng), khi đợc sử dụng và gặp môi trờng thuận lợi thì tiềm năng ấy đợc phát
huy, lúc đó con ngời trở thành động lực cho sự phát triển KT-XH. Môi trờng đó
chính là hoạt động lao động - hoạt động bản chất nhất của con ngời nhằm tạo ra
các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống: Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài ngời và nh thế đến một mức mà trên một nghĩa nào đó
7
chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con ngời[26, tr.641]. Và,

mặc dù: Bản thân chúng ta, với cả xơng thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta là
thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên[26, tr.665] nhng nhờ
có lao động mà: Ngời là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát
khỏi trạng thái thuần túy là loài vật [26, tr.673]. Lao động mang ý nghĩa nhân
bản sâu xa bởi trong lao động con ngời đã làm biến đổi tự nhiên, biến đổi cả
bản thân mình và đã làm nên lịch sử của cả xã hội loài ngời. Điều đó cho thấy,
nếu con ngời là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử - xã hội thì đặc trng bản chất
nhất của nguồn nhân lực là sự phản ánh trình độ phát triển, mức độ hoàn thiện
con ngời trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chính các hoạt động nhận thức
thực tiễn của con ngời đã làm hoàn thiện nhân cách, trình độ, trí tuệ và thể lực
của con ngời, giúp con ngời thực hiện các chức năng xã hội của mình. Vì vậy,
khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển cả mặt sinh học (sức khỏe, nuôi d-
ỡng, vệ sinh, môi trờng...) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo đức, lối sống...)
cho con ngời. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng, tiềm năng của nguồn
nhân lực đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trò của nguồn
nhân lực.
Thứ hai, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con ngời trong t cách cá nhân
và cá thể tồn tại, hoạt động, sống và tự biểu hiện đời sống của mình trong mối
liên hệ với những ngời khác, với cả cộng đồng, chịu ảnh hởng cũng nh sự tác
động của các quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử - xã hội mà cá nhân đó đang
sinh sống.
Khi xem xét mối quan hệ giữa con ngời với thế giới xung quanh, các nhà
triết học mácxít đã chứng minh đợc: con ngời là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng
thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh
của con ngời lại chỉ đợc thực hiện trong mối quan hệ với cộng đồng. Xã hội và
quan hệ xã hội là điều kiện để con ngời thể hiện bản tính phong phú và t duy
sáng tạo của mình. Do đó, khả năng của con ngời hay của nguồn nhân lực đợc
huy động vào quá trình phát triển xã hội sẽ trở thành những thông số quan trọng
8
để nghiên cứu và điều chỉnh một cách có ý thức nguồn nhân lực của từng quốc

gia hoặc từng địa phơng.
Thứ ba, nói đến nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trò tích cực,
sáng tạo của con ngời trong hoạt động thực tiễn, nó thể hiện ở vai trò chủ thể
sáng tạo trong quá trình phát triển đồng thời cũng là khách thể của quá trình
phát triển, thể hiện trong việc con ngời cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải
tạo bản thân.
Các nhà mácxít khẳng định: sự thay thế của các hình thái KT-XH trong
lịch sử là do sự phát triển của LLSX. Mà trong LLSX, con ngời là yếu tố cách
mạng và năng động nhất. Chính con ngời đã làm nên những biến đổi về tính
chất và trình độ của LLSX để rồi đa xã hội tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra
con ngời ở mức độ nào thì con ngời cũng tạo ra xã hội ở mức độ đó đã cho thấy:
trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con ngời luôn là mục tiêu đồng thời là
động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng minh, ở đâu các lực lợng cách
mạng có ý thức đầy đủ về vai trò của con ngời, có giải pháp hiện thực hóa vai
trò của con ngời thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi. Với ý nghĩa
đó, xét trong quá trình phát triển thì con ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực.
Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp tục nghiên cứu và khẳng định, con ngời là những cá nhân cụ thể, vừa tồn tại
với t cách cá nhân với những nhu cầu, khát vọng và năng lực tiềm tàng lại vừa
tồn tại với t cách là những thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Bằng
năng lực và trách nhiệm đối với xã hội, con ngời có vai trò to lớn, quyết định tới
thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc
của nhân dân. Ngời viết: Vô luận việc gì đều do con ngời làm ra[32, tr.113].
Rằng Phải bồi dỡng, đào tạo và phát huy năng lực của con ngời, của từng cá
nhân và của cả cộng đồng dân tộc [34, tr.56].
Từ cơ sở đó có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm
năng của con ngời trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phơng đã
đợc chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển
9
KT-XH của đất nớc hoặc một vùng, một địa phơng cụ thể. Nguồn nhân lực là

nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số,
của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã
hội. Cấu trúc nguồn nhân lực của một quốc gia gồm những ngời nằm trong độ
tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm
việc. ở Việt Nam, theo Luật lao động, nam tuổi từ 15-60; nữ tuổi từ 15-55, có
khả năng lao động đều thuộc nguồn nhân lực.
1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát
triển xã hội
Để phát triển KT-XH cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực
có ý nghĩa quyết định sự phát triển, vì con ngời vừa là một nguồn lực, vừa là
chủ thể của các nguồn lực khác. Con ngời bằng lao động sáng tạo đã phát hiện
ra ngày càng nhiều nguồn lực trong tự nhiên và từ nguồn lực tự nhiên tạo thành
những nguồn lực mới, làm tăng lên những khả năng có thể có của đất nớc, của
dân tộc cho sự phát triển. Mặt khác do đặc tính lao động sáng tạo của con ngời
mà nguồn nhân lực trở nên sinh động và không cạn kiệt, hơn nữa nguồn nhân
lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội. Vì vậy, để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm bồi dỡng, phát triển nguồn
nhân lực cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.
Cách đây hơn 150 năm, Mác đã đề cập tới phát triển con ngời toàn diện,
lấy đó làm cơ sở cho sự phát triển xã hội CSCN. Ông cho rằng sự phát triển
LLSX xã hội trớc hết là: Phát triển sự phong phú của bản chất con ngời, nh là
một mục tiêu tự thân[28, tr.168]. Theo Mác-Ăngghen, cuộc đấu tranh của
những ngời cộng sản chống lại trật tự t sản chính là nhằm mục đích tạo ra hoàn
cảnh có tính ngời để phát triển những năng lực phẩm chất ngời. Kết quả của
cuộc đấu tranh đó là sự xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
mỗi ngời là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi ngời. Nguồn nhân lực
vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trởng kinh tế, vừa là mục tiêu của sự
10
phát triển, phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu t, là quá trình
bồi dỡng, đào tạo, sử dụng về số lợng và chất lợng nguồn nhân lực nhằm tạo

ra cho lực lợng này những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp ứng đợc yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển KT-XH. Việc phát hiện và làm
bộc lộ tiềm năng của nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
con ngời chỉ có thể thông qua hoạt động thực tiễn, qua đó làm tích cực hóa
nguồn nhân lực, tạo ra sự giải phóng cho tiềm năng của con ngời để dẫn tới sự
sáng tạo của con ngời. Vấn đề là phải phát triển một nguồn nhân lực nh thế nào,
làm thế nào để khơi dậy và phát huy đợc vai trò của của nguồn nhân lực đó?
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để xây dựng CNXH và CNCS
cần phải có một nguồn nhân lực có chất lợng, nguồn nhân lực đó chính là những
con ngời mới XHCN. Thời Mác-Ăngghen, tuy cha có những điều kiện khách
quan cho sự ra đời của con ngời mới XHCN nhng qua việc nghiên cứu những
quy luật phát triển nội tại của CNTB, các ông đã phác họa những nét chính của
con ngời mới đại diện cho nguồn nhân lực của chế độ xã hội mới. Đó là những
con ngời phát triển toàn diện, không bị trói buộc suốt đời vào một sự phân công
lao động nào, những con ngời lấy lao động làm nguồn hứng thú duy nhất trong
đời sống, ngày càng có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm chủ thiên nhiên,
làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Lênin cũng nói đến con ngời mới khá cụ
thể, đó là những con ngời có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực làm chủ,
hăng say lao động, coi trọng sản xuất, coi trọng của công, có kỷ luật tự giác
cao, có tri thức khoa học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của
nền văn minh hiện đại vì ngời ta chỉ có thể trở thành ngời cộng sản sau khi làm
giàu trí tuệ của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân
loại đã tạo ra[22, tr.8]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng thành
công CNXH thì phải có những con ngời XHCN, đó là những con ngời vừa
hồng vừa chuyên, vừa có đức vừa có tài, những con ngời phát triển toàn
diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí, những con ngời yêu nớc, yêu chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí
11
Minh là cơ sở lý luận của Đảng CSVN trong vấn đề đào tạo một nguồn nhân lực
với những con ngời cờng tráng về thể chất, trong sáng về tinh thần, có trí tuệ,

phẩm chất đạo đức và nhân cách đáp ứng đợc sự nghiệp cách mạng của đất nớc
trong giai đoạn hiện nay. Việc tạo ra nguồn nhân lực để xây dựng xã hội là sự
nghiệp của nhiều binh chủng, trong đó ngành GD-ĐT đóng vai trò quyết
định.
1.1.1.3. Giáo dục - đào tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định chất lợng
nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực đợc phát triển bằng nhiều con đờng khác nhau, song
GD-ĐT là con đờng có hiệu quả nhất. GD-ĐT là hoạt động đặc biệt chỉ có trong
xã hội loài ngời, đó là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dỡng và phát
triển các phẩm chất và năng lực cho con ngời cả về t tởng, đạo đức, khoa học,
sức khỏe và nghề nghiệp. Ngay từ khi CNXH còn là học thuyết, Mác-Ăngghen
đã đánh giá cao vai trò của sự nghiệp giáo dục, các ông cho rằng giáo dục là
nhiệm vụ cần thiết, bắt buộc đối với mọi ngời. Trong tác phẩm Nguyên lý của
CNCS Mác-Ăngghen đã nói tới chế độ giáo dục trong một xã hội tổ chức theo
nguyên tắc CSCN là giáo dục công cộng, không mất tiền cho tất cả trẻ em,
giáo dục toàn diện cả trí dục, thể dục và kỹ thuật bách khoa. Các ông nhấn
mạnh: sự nghiệp xây dựng xã hội mới trong đó cùng với phát triển kinh tế còn
phải xây dựng văn hóa, đào tạo con ngời, vì thế cần phải chú ý đến nhiệm vụ
giáo dục, coi đó là biện pháp hàng đầu để đào tạo con ngời mới với t cách là
chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới. Lênin đã vận dụng quan điểm của
Mác-Ăngghen để phát triển giáo dục ở nớc Nga ngay sau Cách mạng Tháng M-
ời. Trong lúc nớc Nga còn đang rất khó khăn, nghèo về kinh tế, lạc hậu về văn
hóa, Lênin đã nhận thấy việc nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục và kỹ thuật
là vô cùng cần thiết để thoát khỏi tối tăm, nghèo nàn, bệnh tật. Ông nhấn mạnh:
lúc này Nhà nớc Xô Viết phải coi phát triển giáo dục là một nhiệm vụ trọng
tâm; tất cả mọi ngời, đặc biệt là thanh niên phải có nhiệm vụ học tập vì nếu
không xây dựng đợc một nền học vấn hiện đại thì CNCS cũng chỉ là một
12
nguyện vọng mà thôi[23, tr.175]. Những luận điểm của Mác-Ăngghen và
Lênin cùng những kinh nghiệm thực tiễn về tầm quan trọng của giáo dục trong

quá trình đào tạo con ngời mới để xây dựng xã hội mới đến nay vẫn còn nguyên
giá trị và tiếp tục soi sáng cho các dân tộc muốn có sự phát triển nhanh và bền
vững.
Việt Nam là một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, trọng học vấn. Từ ngàn
xa ông cha ta đã đúc kết nên bài học lịch sử: để xây dựng xã tắc vững bền, để
quốc gia cờng thịnh thì phải chăm lo cho nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhà bác
học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định phí trí bất hng, nhà chí sỹ yêu nớc Phan
Bội Châu cũng cho rằng ngời Việt Nam phải ngẩng cao đầu để tự cứu lấy mình
bằng tài năng và trí tuệ của mình, bằng việc khai trí và chấn hng tân học. Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
học tập lý luận và kinh nghiệm thế giới, kế thừa và phát triển truyền thống dân
tộc trong việc xây dựng một nền giáo dục tiến bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng,
xây dựng đất nớc Việt Nam theo con đờng và mục tiêu đã lựa chọn.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: Nạn dốt là một trong những phơng pháp độc ác mà bọn
thực dân dùng để cai trị chúng ta Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy
tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ [34, tr.8]. Rằng phải xây
dựng một nền giáo dục mới, Vì lợi ích mời năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng ngời, vì Muốn xây CNXH phải có con ngời XHCN [37,
tr.159].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò
của nguồn nhân lực, coi con ngời vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công
cuộc phát triển KT-XH, con ngời là nguồn vốn, là tài sản quý giá nhất. Đảng ta
khẳng định: Để đáp ứng yêu cầu về con ngời và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển của đất nớc trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển
biến cơ bản và toàn diện về giáo dục[12, tr.201], vì Phát triển GD-ĐT là một
trong những động lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để
13
phát huy nguồn lực con ngời - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng
kinh tế nhanh và bền vững[12, tr.108]. Với phơng châm giáo dục là quốc

sách hàng đầu, Đảng ta nhấn mạnh: một quốc gia phát triển cần có một nền
kinh tế phát triển, một nền kinh tế có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra đợc
một nguồn nhân lực với một trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và một nguồn
chất xám cũng nh nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, phát triển các hoạt động dịch vụ, hoạt động văn hóa, tinh thần, tất
cả những điều này đều phụ thuộc vào GD-ĐT. Hơn nữa GD-ĐT đóng vai trò
chủ đạo trong việc hình thành con ngời lao động mới - ngời công dân Việt Nam
có lý tởng XHCN, có lòng tự hào dân tộc, có khả năng tiếp thu những tiến bộ
của KH&CN và tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng lao động và tạo ra
ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Với ý nghĩa đó Đảng ta chỉ rõ:
GD-ĐT nguồn nhân lực là một một khâu chủ yếu trong toàn bộ quá trình phát
triển nguồn lực của đất nớc. Trên nền tảng học vấn phổ thông về tự nhiên, xã
hội và nhân cách , GD-ĐT nguồn nhân lực phải h ớng tới việc hình thành, phát
triển kiến thức, kỹ năng lao động phù hợp với cách thức tổ chức, phân công lao
động xã hội theo từng giai đoạn phát triển, trong các lĩnh vực hoạt động và điều
kiện cụ thể.
Những quan niệm trên là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về một bộ
phận quan trọng của nguồn nhân lực, đó là học sinh THPT - đối tợng tác động
và cũng là sản phẩm lao động của đội ngũ nhà giáo ở các trờng THPT.
1.1.2. Học sinh trung học phổ thông - nguồn nhân lực đang đợc đào tạo
1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Theo điều 4 Luật Giáo dục (2005), giáo dục THPT là một bộ phận hữu cơ
của giáo dục phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc
dân. Căn cứ vào điều 83 Luật Giáo dục (2005), những ngời đang học tập tại các
cơ sở giáo dục phổ thông (gồm bậc tiểu học và bậc trung học, trong bậc trung
học có 2 cấp là cấp THCS và cấp THPT) và giáo dục nghề nghiệp (gồm các tr-
ờng trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) đợc gọi là học sinh.
14
Kết hợp điều 4 và điều 83, có thể hiểu học sinh THPT là những ngời đang
theo học ở cấp THPT, cấp học kế tiếp sau cấp THCS và đợc thực hiện trong ba

năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp
THCS, có tuổi là mời lăm [21, tr.20]. Điều lệ trờng trung học (2000) cũng quy
định rõ tuổi của học sinh THPT là 15 đến 19[14, tr.26].
Theo quy định của luật Lao động nớc ta, với lứa tuổi trên học sinh THPT
là lực lợng nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và là bộ phận
quan trọng của nguồn nhân lực. Đây là lứa tuổi có sự phát triển phức tạp cả về
mặt sinh học và mặt xã hội, là thời kỳ học sinh bớc vào giai đoạn cuối của quá
trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia của họ vào hoạt động nghề nghiệp và
các dạng lao động xã hội. Xem xét nguồn nhân lực trên cả hai phơng diện cá
thể và xã hội thì học sinh THPT với t cách là một bộ phận của nguồn nhân lực
cũng đợc xem xét trên hai phơng diện đó với những đặc điểm tâm sinh lý,
những hoạt động đặc trng và nhân cách xác định.
Với độ tuổi từ 15 đến 19, học sinh THPT là những con ngời đang trởng
thành, có khả năng phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhanh chóng về thể lực. ở
góc độ sinh học, đây là lứa tuổi đang dần hoàn thiện về cơ thể, là giai đoạn các
em phát triển về chiều cao, trọng lợng và thể trạng với tốc độ nhanh. So với các
thế hệ cha anh trớc đây, học sinh THPT ngày nay do đợc sống trong hòa bình,
do đời sống ngày một nâng cao và nhu cầu dinh dỡng đợc đáp ứng ngày càng
đầy đủ nên có sự phát triển tốt hơn về thể lực. Các em đã có một thể hình đẹp
hài hòa, một sức khỏe dồi dào có thể đáp ứng đợc những đòi hỏi về sự hao phí
các sức lực thần kinh, cơ bắp trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp
khác nhau. Hơn nữa ở độ tuổi này tính chủ định phát triển mạnh, khả năng quan
sát, ghi nhớ đạt ở mức độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,
khả năng t duy lý luận, t duy trừu tợng cũng nh năng lực t duy độc lập sáng tạo
đợc hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đây chính là cơ sở để học
sinh THPT có thể tiếp nhận và xử lý một khối lợng lớn tri thức, là điều kiện để
bồi dỡng trí tuệ, tay nghề, để trang bị chuyên môn, nghề nghiệp và là giá đỡ cho
15
tiềm năng sáng tạo của các em trong t cách nguồn nhân lực. ở góc độ tâm lý,
học sinh THPT thích cái mới, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tởng tợng,

nhiều ớc mơ, hoài bão, có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu tình bạn, tình yêuNhững
đặc điểm này đã tác động rất mạnh đến sự hình thành t tởng của các em, khi các
em xác định đợc niềm tin, lý tởng thì các em có thể xả thân vì lý tởng và phấn
đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt đợc niềm tin và lý tởng đó.
ở các em không có tính bảo thủ, trì trệ, dễ thích ứng với đờng lối đổi mới, rất
quan tâm đến tơng lai nên cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nớc,
của thời cuộc. Đây là điều kiện để học sinh THPT xác định đợc phơng hớng tiến
thân, lập nghiệp và xây dựng sự nghiệp cho mình.
Với t cách là nguồn nhân lực trẻ, đang đợc chuẩn bị để thực hiện chức
năng của một công dân có học vấn, đợc quyền tham gia vào các hoạt động lao
động, học tập và các mối quan hệ xã hội, nhân cách của học sinh THPT đợc
hình thành trong quá trình xã hội hóa và giải quyết các mâu thuẫn. Đó là mâu
thuẫn giữa sự phát triển mạnh mẽ về thể lực, trí lực và những mơ ớc nhiều chiều
với khả năng thực hiện những mơ ớc đó theo định hớng xác định phù hợp với
năng lực và điều kiện vốn có của bản thân, của gia đình; giữa lợng thông tin lớn
về kinh tế, chính trị, xã hội với tiềm năng tiếp nhận, xử lý, chọn lọc những
thông tin đó; giữa khối lợng lớn những tri thức phải học ở giai đoạn cuối của
các trờng phổ thông với những nhu cầu hoạt động của tuổi trẻ; giữa tính phong
phú, đa dạng của nghề nghiệp xã hội, của tri thức với quỹ thời gian và điều kiện
học tập có hạn của học sinh Quá trình giải quyết những mâu thuẫn đó khiến
cho học sinh THPT phát triển mạnh mẽ về các mặt, nhất là về tình cảm đạo đức,
thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp và xu hớng nghề nghiệp. Đây là thời kỳ của sự hình
thành, ổn định về tính cách để chuẩn bị cho các em tiến dần tới vị trí xã hội của
một ngời công dân đích thực trong giai đoạn tiếp theo. Điểm nổi bật trong nhân
cách của học sinh THPT là sự tự ý thức, tự khẳng định mình về mặt sinh học,
biết nhìn nhận và suy nghĩ về hành vi của mình so với chuẩn mực của tập thể,
biết đánh giá cái đúng sai trong hành vi của mình và những cá nhân khác. Tuy
16
nhiên sự đánh giá đó thờng bị thiên lệch, hoặc đề cao quá mức bản thân dẫn tới
sự kiêu căng, hoặc lý tởng hóa ngời khác một cách quá mức dẫn tới mặc cảm tự

ty với chính mình. Làm cho các em biết ngời biết ta một cách khách quan là cả
một quá trình đòi hỏi nghệ thuật s phạm của đội ngũ nhà giáo. ở học sinh
THPT, nhu cầu đợc sống trong một tập thể mạnh, có uy tín tốt đã tạo cho hoạt
động giao tiếp của các em mang tính xã hội rõ nét, các em đã biết đợc lợi ích
của những việc mình làm, biết tự điều chỉnh khi xảy ra xung khắc trong giao
tiếp. Cùng với giao tiếp, đời sống tình cảm của các em ngày càng phong phú, nó
không chỉ dừng lại ở những sở thích sinh hoạt thờng nhật mà còn đợc xây dựng
trên những mục đích lâu dài nh phấn đấu trong học tập và tu dỡng, trong các
phong trào tập thể Trong quan hệ với ng ời lớn tuổi, các em tự tin hơn, các em
không chỉ biết đòi hỏi ngời lớn phải u ái những quyền lợi của cá nhân mà còn
thấy đợc trách nhiệm của bản thân trớc gia đình, dòng họ, làng xóm. Tình cảm
nam nữ cũng đợc nảy sinh ở giai đoạn này. Có thể thấy mỗi nhân cách là một
thế giới riêng, đặc biệt là trong vấn đề tình cảm, do đó việc nhận biết, bồi dỡng
hoặc khắc phục những biểu hiện sai lệch trong đời sống tình cảm của các em là
công việc hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự tỷ mỷ, cần mẫn và tấm lòng nhân ái bao
dung của các nhà giáo trong mọi tình huống giáo dục.
Học sinh THPT là nguồn nhân lực đang bớc qua lứa tuổi vị thành niên để
trở thành một công dân trong cộng đồng xã hội, là nguồn nhân lực chuẩn bị bổ
sung vào lực lợng lao động có tri thức của xã hội, cho nên hoạt động của các em
rất đa dạng về loại hình và tính chất. Các hoạt động giao lu, văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao trở thành nhu cầu thờng trực song hoạt động học tập vẫn là hoạt
động chủ đạo. Thái độ, động cơ lựa chọn đối với các môn học để thỏa mãn các
khuynh hớng nghề nghiệp là nét đặc thù so với học sinh cấp THCS. Vì thế, hoạt
động của học sinh THPT mang tính năng động, độc lập và chủ động hơn. Đối tợng
hoạt động của học sinh THPT đợc mở rộng, nó không chỉ đóng khung trong khuôn
khổ nhà trờng mà ngày càng tiếp cận với những hoạt động phong phú ngoài xã hội
thông qua những nội dung sinh hoạt chính khóa, ngoại khóa và sự mở rộng giao lu
17
của các em. Hoạt động của học sinh THPT diễn ra trong môi trờng và những điều
kiện đã đợc thiết kế một cách có kế hoạch để chuẩn bị cho các em kết thúc giai

đoạn học tập ở phổ thông chuyển sang giai đoạn học đại học, học nghề, lập nghiệp.
Sự nghiêm túc của các kỳ thi vào các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp mà học sinh
THPT phải trải qua là những điều kiện khách quan ràng buộc các em vào hoạt
động học tập. Nh vậy, hoạt động của học sinh THPT là quá trình nhằm đạt tới mục
đích hoàn thiện kiến thức phổ thông, chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp ở mức cao hơn. Điều này đòi hỏi ở các em tính tự lập, chủ động,
hoạt động lý trí của bản thân và cách nhìn đúng đắn hơn những giá trị xã hội và
những gì vốn có của cá nhân. Do đó, đội ngũ nhà giáo cần hiểu rõ hoạt động đặc
trng của học sinh ở cấp học này để có thể định hớng cho hoạt động đó theo mục
tiêu đã xác định.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: học sinh THPT là lứa tuổi chuyển
tiếp từ trẻ em sang ngời lớn, đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần
và trí tuệ, lứa tuổi với những hoạt động đặc trng để hình thành nhân cách và
phẩm chất của một công dân, hình thành thế giới quan và lý tởng, là lứa tuổi
luôn luôn tự tìm hiểu bản thân mình và tìm hiểu ngời khác, lứa tuổi tự khẳng
định và tìm cách xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của học sinh trung học phổ thông
Nếu con ngời là nguồn lực quý giá nhất của sự phát triển xã hội thì học
sinh THPT là bộ phận kế cận nguồn lực ấy. Sinh lực của một dân tộc, một quốc
gia thể hiện ở chính lực lợng này, trong tơng lai các em sẽ là lực lợng có khả
năng dời non lấp biển, là rờng cột của nớc nhà, là mùa xuân của nhân
loại. Là những thanh niên, lực lợng giàu tiềm năng phát triển, học sinh THPT
chính là nguồn tài sản vô giá của đất nớc hôm nay và mai sau.
Trớc đây trong lý luận về con ngời, chủ nghĩa Mác-Lênin rất quan tâm đến
thanh niên, đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng thế giới.
C.Mác đã hình dung thấy tơng lai của cả loài ngời phụ thuộc vào thế hệ công nhân
đang lớn, còn Lênin đã chỉ rõ vai trò của thanh niên khi ông khẳng định nhiệm vụ
18
của nhà trờng là phải đào tạo đợc một thế hệ có khả năng thực hiện vĩnh viễn
CNCS[22, tr.9]. Trong t tởng của Hồ Chí Minh, vai trò của thanh niên trong đó có

học sinh THPT luôn gắn với vận mệnh của dân tộc. Sẽ không thể giải phóng đợc dân
tộc khỏi cuộc sống nô lệ nếu không thức tỉnh đợc thế hệ trẻ. Ngời viết: Hỡi Đông
Dơng đáng thơng hại! Ngời sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Ngời không
sớm hồi sinh[32, tr.173]. Trong th gửi học sinh nhân ngày khai trờng đầu tiên của
nớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Ngời khẳng định công học tập của các cháu sẽ
góp một phần lớn để đem lại tơng lai tơi sáng cho dân tộc. Ngời xác định rõ vai
trò của thế hệ trẻ là chủ nhân tơng lai của đất nớc bởi vì nớc nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên[39, tr.185].
Ngày nay, Đảng ta đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ trong đó có học
sinh THPT. Đảng ta đã khẳng định, họ là những ngời giữ vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[12, tr.126], họ chính là nguồn
nhân lực đầy tiềm năng đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nớc, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực. Vai trò đó đợc khẳng định bởi những yếu tố sau:
Một là, với t cách là một bộ phận hợp thành nguồn nhân lực, học sinh
THPT đang học tập, tiếp thu tri thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để sau này
tham gia vào các lực lợng lao động xã hội, góp phần quyết định Non sông Việt
Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt nam có bớc tới đài vinh quang
hay không[34, tr.33].
Hai là, học sinh THPT phần lớn là những Đoàn viên Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, họ có sức khỏe, có tri thức, là cánh tay đắc lực là đội dự bị
tin cậy của Đảng, thờng xuyên bổ sung lực lợng trẻ cho Đảng, kế thừa sự
nghiệp vẻ vang của Đảng và Hồ Chủ Tịch[11, tr.59].
Ba là, học sinh THPT là những ngời có học vấn phổ thông hoàn chỉnh, là
lực lợng quan trọng hàng năm bổ sung vào lực lợng học sinh trong các trờng
trung học chuyên nghiệp, các trờng dạy nghề, sinh viên các trờng cao đẳng, đại
học ở nớc ta. Với tiềm năng trí tuệ khá cao, dám nghĩ, dám làm, dám đơng đầu
19
với thử thách, học sinh THPT sẽ là lực lợng lao động có trí tuệ trong tơng lai.
Đây là đặc điểm có ý nghĩa nổi bật của học sinh THPT.

Bốn là, học sinh THPT là nguồn nhân lực kế thừa và phát triển truyền
thống dân tộc, kế thừa những thành quả của các thế hệ đi trớc, đồng thời chuẩn
bị đầy đủ tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng lực nghề nghiệp để sau này trực tiếp
tiếp bớc cha anh xây dựng đất nớc giàu mạnh, đồng thời có nhiệm vụ vẻ vang là
chăm lo dìu dắt thiếu niên nhi đồng để tạo ra sự thống nhất, nối tiếp, kế thừa
giữa các thế hệ nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, học sinh THPT với độ tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí
tuệ và tâm hồn, họ là lực lợng có khả năng nhận thức nhanh, trí nhớ tốt, độ nhạy
cảm cao để tiếp nhận những tri thức khoa học cơ bản, liên tục, hệ thống từ nhiều
nguồn khác nhau. Họ là một bộ phận của nguồn nhân lực, có vai trò quan trọng
đối với tơng lai của nớc nhà, đợc GD-ĐT theo yêu cầu của quá trình đào tạo
nguồn nhân lực, họ sẽ trở thành những con ngời toàn diện, có tài, có đức, có sức
khỏe, có năng lực, thẩm mỹ và nghề nghiệp, là nguồn nhân lực đảm bảo cho sự
thành công của công cuộc đổi mới đất nớc hiện nay.
1.2. Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong việc đào tạo
nguồn nhân lực ở các trờng trung học phổ thông
1.2.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo trong các trờng trung học phổ thông
1.2.1.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo
Giáo dục với t cách là một hiện tợng xã hội, đã xuất hiện và tồn tại cùng
với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài ngời. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát
triển những kinh nghiệm, tri thức mà nhân loại đã tích lũy đợc. Nhiệm vụ đặc
biệt đó từ thời cổ đại đến nay đã trở thành một chức năng chuyên biệt và đợc
giao cho các nhà giáo.
Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, nhà giáo là một chức danh xã hội
đợc xếp đầu tiên và không hàm nghĩa giới tính. Theo từ điển Tiếng Việt, nhà
giáo là Những ngời làm nghề dạy học[57, tr.516]. Nếu hiểu nh vậy thì có thể
20
nói rằng đất nớc ta là đất nớc của nghề dạy học, vì ở nớc ta cứ biết chữ là có thể
đi dạy học, điều này thờng thấy và rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến và thời kỳ

Pháp thuộc. Thời phong kiến, những ngời làm nghề dạy học gọi là thầy giáo
(Về danh hiệu đợc gọi là thầy đồ thời nhà Lê gọi tắt là sinh đồ, thời nhà
Nguyễn là tú tài). Đây là những ngời rất đợc coi trọng, đợc xếp ở vị trí rất
cao, vị trí thứ hai trong ba bậc quân, s, phụ, trớc cả cha mẹ. Nhiều gia đình
nghề dạy học là một nghề truyền thống: cả ông cháu, cha con đều nối nghiệp
làm thầy, có ngời thi đỗ cao nhng không chịu làm quan chỉ nhất quyết làm thầy
giáo, có ngời làm quan rồi cũng rời bỏ quan trờng để lui về dạy học. Với quan
niệm nhất tự vi s, bán tự vi s đã làm thầy giáo, tự nhiên là đợc tất cả mọi ngời
trong làng xóm kính trọng, kể cả những thầy giáo không có danh tiếng hoặc đức
hạnh không cao.
Sau Cách mạng tháng Tám, nền giáo dục của nớc Việt Nam độc lập ra
đời. Nền giáo dục đó đòi hỏi phải có đội ngũ thầy giáo đáp ứng đợc nhiệm vụ
diệt giặc dốt- một trong những loại giặc nguy hiểm không kém giặc đói và
giặc ngoại xâm. Hởng ứng lời kêu gọi toàn dân tham gia chống nạn thất
học của Hồ Chủ Tịch, ngời cha biết chữ phải coi học tập là quyền lợi và nghĩa
vụ của mình, ngời biết chữ có nghĩa vụ phải dạy ngời cha biết chữ. Các lớp bình
dân học vụ, các trờng lớp bổ túc văn hóa, các trờng lớp s phạm kháng chiến đợc
tổ chức, thu hút đợc hàng triệu trẻ em, ngời lớn đi học, hàng vạn ngời biết chữ
tham gia dạy học. Ngời thầy giáo trong giai đoạn này là những ngời làm công
tác xóa mù chữ cho nhân dân để từng bớc nâng cao dân trí phục vụ đắc lực cho
công cuộc kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và phát triển đất nớc.
Vừa tiến hành chiến dịch chống mù chữ, Đảng và Nhà nớc chủ trơng phát
triển giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học. Chủ trơng cải
cách nền giáo dục thành nền giáo dục phát triển những năng lực sẵn có của thế
hệ trẻ, đào tạo thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực có trình độ, thành những ngời
công dân hữu ích cho đất nớc. Nền giáo dục đã tiến dần từ mục tiêu nâng cao
dân trí là chủ yếu sang mục tiêu đào tạo nhân lực, nhân tài cho đất nớc. Ngời
thầy giáo giai đoạn này không chỉ đơn thuần là những ngời biết chữ đi dạy cho
21
mọi ngời biết đọc, biết viết mà phải là một đội ngũ những ngời có trình độ, có

năng lực, có nghệ thuật s phạm, tiến hành dạy học trong một tổ chức chặt chẽ
theo một chơng trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Những nhà giáo thời nay phải
có đủ điều kiện để đào tạo đợc một lớp ngời có tri thức, sức khỏe, đạo đức, tay
nghề, đào tạo đợc một nguồn nhân lực có chất lợng ngày càng cao đáp ứng yêu
cầu của đất nớc trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, để làm rõ hơn khái
niệm nhà giáo là Những ngời làm nghề dạy học đồng thời quy định địa vị
pháp lý của nhà giáo, tại điều 70 của Luật Giáo dục nớc CHXHCN Việt Nam
đã đa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ về nhà giáo: Nhà giáo là những ngời làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trờng, cơ sở giáo dục khác [21,
tr.56]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, những ngời làm nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung đợc gọi là nhà giáo. Những nhà
giáo ở bậc đại học đợc gọi là giảng viên, những nhà giáo ở cơ sở giáo dục mầm
non, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục phổ thông trong đó có giáo dục THPT đợc
gọi là giáo viên. Nh vậy, thầy giáo, giảng viên hay giáo viên chính là nhà giáo
(từ đây trong luận văn những thuật ngữ tơng đơng trên đợc dùng với nghĩa nh
nhau).
Về Đội ngũ nhà giáo, thuật ngữ đội ngũ đợc hiểu chung nhất là tập
hợp một số đông ngời cùng đặc điểm, chức năng hoặc nghề nghiệp...đợc tổ chức
thành một lực lợng xã hội. Do đó, đội ngũ nhà giáo là tập hợp những ngời làm
nghề dạy học hay những ngời làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà tr-
ờng, cơ sở giáo dục khác, đợc tổ chức thành lực lợng và hoạt động theo mục
đích của ngành GD-ĐT đề ra.
Hai khái niệm Nhà giáo và Đội ngũ nhà giáo có mối liên hệ với nhau
nhng không hoàn toàn đồng nhất. Trớc hết cả hai khái niệm đều phản ánh
những mặt, những khía cạnh liên quan đến cùng một đối tợng là những ngời
làm nghề dạy học. Song, khái niệm Nhà giáo phản ánh mối liên hệ và thuộc
tính bản chất, phổ biến của những ngời làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong
nhà trờng với tính cách là những cá nhân nói chung, từ đó giúp chúng ta phân
biệt đợc một ngời nào đó trong xã hội có phải là nhà giáo hay không. Còn khái
22

niệm Đội ngũ nhà giáo phản ánh mối liên hệ, thuộc tính bản chất, phổ biến về
sức mạnh, vai trò của nhà giáo với tính cách là cộng đồng đợc tổ chức thành lực
lợng để thực hiện các hoạt động có mục đích. Khái niệm này giúp chúng ta
nhận biết và phân biệt về quy mô, các hình thức tồn tại, vận động, biến đổi, cơ
chế sắp xếp trong một tổ chức nhất định và ở những thời điểm cụ thể. Cả hai
khái niệm đều là phơng tiện giúp chúng ta nhận định, đánh giá tơng đối toàn
diện và chính xác vai trò của Nhà giáo với cả tính cách cá nhân và cộng đồng
để từ đó có những giải pháp nâng cao vai trò của lực lợng này trong quá trình
đào tạo nguồn nhân lực.
1.1.2.2. Nhà giáo trong các trờng trung học phổ thông, một số đặc
điểm và yêu cầu
Thời cổ đại, mỗi nhà giáo vừa tự xác định mục tiêu, nội dung và phơng
pháp giáo dục, vừa trực tiếp lựa chọn ngời học và truyền thụ nội dung giáo dục
cho học trò của mình. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và
giáo dục nói riêng những chức năng đó không còn tập trung ở một nhà giáo,
mặc dù chỉ mang tính tơng đối nhng sự phân công chức năng này đã đợc phân
hóa và hình thành ở ba nhóm chức năng: có những nhà giáo đảm nhiệm chức
năng nghiên cứu những vấn đề mục tiêu, nội dung, phơng pháp (ta gọi là nhà
giáo nghiên cứu giáo dục); có những nhà giáo đảm nhiệm công việc truyền thụ
những nội dung giáo dục cho ngời học sau khi những nội dung đó đã đợc cơ
quan quản lý có thẩm quyền quyết định (ta gọi là nhà giáo dạy học); có những
nhà giáo chuyên hay chủ yếu làm việc ở những cơ quan quản lý giáo dục (ta gọi
là nhà giáo quản lý). Trong các trờng THPT, nhà giáo đảm nhiệm cả ba chức
năng trên chỉ là số ít, còn số đông các nhà giáo chủ yếu đảm nhiệm việc dạy
học, vì thế trong luận văn, chúng tôi chủ yếu bàn về đội ngũ nhà giáo dạy
học ở các trờng THPT.
Giáo dục phổ thông là một bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, và
là một bộ phận quan trọng của hệ thống đào tạo nhân lực. Mục tiêu của giáo
dục phổ thông: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và

23
sáng tạo, hình thành nhân cách con ngời Việt Nam XHCN, xây dựng t cách và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [21, tr.21].
Cấp THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa
cấp tiểu học, THCS với bậc đại học. Đây là cấp học làm cho hệ thống GD-ĐT
nớc ta mang tính chỉnh thể, hệ thống và liên thông. Bởi lẽ:
Nếu cấp tiểu học có mục tiêu hình thành cho học sinh những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
THCS, cấp THCS có mục tiêu giúp học sinh củng cố, phát triển những
kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn ở trình độ cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hớng nghiệp để tiếp tục học THPT,
thì mục tiêu của cấp THPT là giúp cho học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và
có những hiểu biết thông thờng về kỹ thuật và hớng nghiệp, có điều
kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hớng phát triển, tiếp tục
học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động [21, tr.21-22].
Nh vậy, THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là thời đoạn
xác định chất lợng, hiệu quả của giáo dục phổ thông và góp phần quyết định
đến chất lợng của giáo dục đại học sau này. Từ cấp học này sẽ cho ra đời một
lực lợng lao động có văn hóa, có điều kiện học hỏi nâng cao tay nghề và cũng là
cơ sở để lựa chọn và đào tạo đội ngũ trí thức cho đất nớc. Chất lợng và hiệu quả
của giáo dục THPT sẽ là trình độ đích thực của nền dân trí, là tiềm năng của
nguồn nhân lực nớc ta. Lực lợng chủ chốt góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
của giáo dục THPT chính là đội ngũ nhà giáo ở các trờng THPT. ở nớc ta, đội
ngũ nhà giáo THPT đợc đào tạo để làm công tác giảng dạy, giáo dục cho các
em học sinh lớp 10, 11, 12, với nhiệm vụ truyền thụ tri thức và uốn nắn học
sinh theo những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, đội ngũ nhà giáo có tác động nhất

24
định (có khi là quyết định) tới tơng lai của các em: sự lựa chọn công việc, tạo
động cơ phấn đấu, khắc sâu trong các em ý thức thực hiện các nghĩa vụ trong
cuộc sống, giúp các em tiếp tục học lên hoặc bớc vào cuộc sống lao động.
Từ sự phân tích trên có thể đa ra nhận định: Đội ngũ nhà giáo THPT là một
bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt Nam, đó là những ngời làm công tác giảng dạy,
giáo dục ở các trờng THPT, có chức năng chủ yếu là trực tiếp truyền bá tri thức văn
hóa, rèn luyện nhân cách cho học sinh THPT nhằm chuẩn bị cho các em đi tiếp tục
học tập ở cấp đại học, cao đẳng hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất, cuộc
sống xã hội, làm nghĩa vụ công dân với t cách là bộ phận của nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc trong giai đoạn hiện nay.
Là một bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt Nam nên đội ngũ nhà giáo
THPT cũng có đầy đủ những phẩm chất, nhân cách của nhà giáo Việt Nam,
đồng thời xuất phát từ yêu cầu giáo dục và đối tợng giáo dục của cấp THPT, đội
ngũ nhà giáo ở cấp học này có một số điểm đáng lu ý sau đây:
Một là, đội ngũ nhà giáo THPT là những ngời trực tiếp tham gia vào
quá trình giáo dục ở các trờng THPT, những ngời đạt chuẩn đào tạo theo quy
định và chủ yếu đợc đào tạo tại các trờng đại học s phạm trong nớc.
Là nhà giáo thì ở cấp học nào, bậc học nào cũng phải đạt chuẩn đào tạo
theo quy định, điều này đợc căn cứ vào mục tiêu giáo dục và đặc điểm đối tợng
tác động của nhà giáo ở từng cấp học, bậc học. ở cấp THPT, mục tiêu giáo dục
của nhà giáo là giúp cho học sinh hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu
biết thông thờng về kỹ thuật và hớng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
nhân, có đủ tiềm năng di chuyển nghề nghiệp và dễ dàng thích nghi với đời
sống hiện đại đầy năng động và thách thức. Đối tợng tác động của nhà giáo
trong các trờng THPT là một nguồn nhân lực đang ở giai đoạn bộc lộ và phát
triển những năng lực về thể lực, trí lực và nhân cách, đó là những học sinh
không còn là trẻ con nhng cũng cha phải là ngời lớn, rất ham hiểu biết, muốn
thử sức nhng lại dễ bị ảnh hởng bởi môi trờng xung quanh. Lao động của nhà giáo
liên quan trực tiếp đến việc khai thác và phát huy năng lực nội sinh của từng cá

nhân. Vì vậy, để thực hiện đợc mục tiêu giáo dục với đối tợng nhạy cảm trên, để
25

×