Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

18406054 ngô thị hồng phúc (tư tưởng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.59 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐỊNH HƯỚNG
VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Sinh viên : Ngô Thị Hồng Phúc
Chuyên ngành: Tài Chính Ngân Hàng
k18
Khố học

: 2018

Đắk Lắk, ngày 13 tháng 9 năm 2021
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐỊNH HƯỚNG
VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Sinh viên

:

Ngơ

Thị

Hồng

Phúc
Chun ngành: Tài Chính Ngân Hàng
Giảng viên

: Nguyễn Minh Hải

Đắk Lắk, ngày 13 tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................5

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình

1.

Giao

diện


tải

xuống

của



tưởng

Hồ

Chí

xuống

của



tưởng

Hồ

Chí

xuống

của




tưởng

Hồ

Chí

xuống

của



tưởng

Hồ

Chí

Minh.................................3
Hình

2.

Giao

diện


tải

Minh.................................6
Hình

3.

Giao

diện

tải

Minh.................................9
Hình

4.

Giao

diện

tải

Minh...............................14

3


LỜI MỞ ĐẦU

Với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là sự kết tinh những gì
tốt đẹp, ưu tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo
đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt
Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh của dân tộc,
cho bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại. Tinh hoa của bản sắc dân tộc, lương tâm và khí
phách của thời đại đã được thể hiện chân thực và cảm động,
trong sáng và đẹp đẽ, cao thượng và bất khuất qua con người,
cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Bằng con đường lao động, vơ sản hóa, Người làm đủ mọi
nghề, đi qua nhiều miền đất khác nhau, tham gia các sinh
hoạt công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào huyệt của chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát
trực tiếp tình cảnh sống của những người dưới ách áp bức bóc
lột tàn bạo của tư bản ở chính quốc đối với các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc. Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản
chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở
Người tình hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ. Cũng
chính thực tiễn này đã cung cấp cho Người những căn cứ để
xác minh mọt sự thật mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do –
Bình đẳng – Bác ái” do giai cấp tư sản đưa ra.
Đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu,
khảo sát thế giới, khu vực và quốc tế cũng chỉ nhằm hướng tới
giải phóng và phát triển dân tộc mình, đặt cách mạng Việt
Nam trong phong trào cách mạng thế giới, sao cho phù hợp
với trào lưu, xu thế chung của lịch sử thế giới và thời đại bước
ngoặt lớn trong sựu hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn
4



con đường cách mạng vơ sản. Chỉ có cuộc cách mạng này mới
giải phóng được giai cấp vơ sản, giải phóng các dân tộc bị áp
bức khỏi ách thống trị của đế quốc, thực dân, mới thực hiện
được độc lập tự do, hịa bình và hạnh phúc cho các dân tộc.
Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được
chân lý của thời đại cách mạng nhờ giác ngộ chủ nghĩa MácLênin, với sự thức tỉnh và cổ vũ của cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã dồn tất cả nổ
lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý tưởng và
mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sinh viên
(
ký rõ họ và tên)

5


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản và cách mạng Việt Nam,
là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng ta của dân tộc ta mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
1.2. Truyền thống văn hóa dân tộc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt
Nam, thật hiếm có những thời kỳ hịa bình lâu dài mà đó là

những cuộc đấu tranh liên tiếp chống bọn xâm lược bên ngoài
để bảo vệ nền độc lập của đất nước, những cuộc nổi dậy của
nông dân chống bọn phong kiến trong nước. Vì vậy dân tộc
Việt Nam ln có ý thức giữ nước, luôn luôn sẵn sàng đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc. Những cố gắng lớn lao của nhân dân ta
từ thể kỷ này sang thể kỷ khác nhằm chinh phục thiên nhiên
và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược để sống còn, để dựng
nước và giữ nước, để đưa đất nước phát triển đã tôi luyện nên
những truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, đồn kết và
thống nhất, độc lập và tự chủ, yêu lao động và sáng tạo, bền
bỉ và lạc quan. Bởi vậy, chủ nghĩa yêu nước là truyền thống
quý báu của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ xưa
đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”.
6


Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc chính là ở chỗ, vượt lên
tầm nhìn bị ràng buộc của ý thức hệ Nho giáo hay hệ tư tưởng
cải lương tư sản của các bậc sĩ phu, những nhà yêu nước
đương thời, Người đã mang đến cho dân tộc Việt Nam sự thức
tỉnh mới mang tính thời đại. Là người yêu nước, thương dân,
Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra sự giả dối giữa lời nói và hành
động của những kẻ nhân danh văn minh để khai hóa cho dân
tộc mình. Người hướng tới việc tìm cho ra nguồn gốc của mọi
nỗi đau của dân tộc từ bản chất kẻ thù - chủ nghĩa thực dân
xâm lược. Trong quá trình tìm đường cứu nước, cứu dân, từ
khảo nghiệm, đúc kết kinh nghiệm trong nước và thế giới,

Người đã thâu tóm lý luận thời đại để hình thành nên một
chiến lược, một đường hướng cách mạng có khả năng giải
quyết những địi hỏi khách quan đang đặt ra lúc bấy giờ của
dân tộc Việt Nam. Theo đó, Người khẳng định rằng: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vơ sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”. Đó là
con đường đấu tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp, đòi hỏi tất
cả mọi người phải kiên định: “Trong cuộc đấu tranh một mất
một cịn giữa một bên là giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức với một bên là bọn đế quốc
cùng bè lũ tay sai bán nước, bọn phong kiến địa chủ và tư sản
phản động, nhân dân các nước cần có tinh thần cách mạng
triệt để, luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu
tranh đến cùng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó
Người xác định con đường phát triển của cách mạng nước ta
7


gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà trong Cương lĩnh
chính trị, Người viết: “Làm cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

8


II.PHẦN NỘI DUNG
2.1.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền

với Chủ Nghĩa Xã Hội
2.1.1. Nhận thức của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là một trong những nội
dung cơ bản, cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là một nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng việt Nam gần tám thập
kỷ qua. Nhận thức của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội đã trải qua một cuộc hành trình,
khảo nghiệm đầy gian khổ của Người, nhận thức đó dựa trên
cơ sở của truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại và chủ nghĩa Mác – Lênin để hình thành.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là quyền độc
lập thực sự, độc lập hoàn toàn về chính trị, kinh tế, văn hóa,
an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ… Quyền độc lập dân tộc
là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Do vậy, bất cứ thế lực nào
xâm lược đều bị đánh trả, bất cứ kẻ nào phá hoại đều bị trừng
trị. Lập trường và quan điểm trên của Hồ Chí Minh được thể
hiện nhất quán và kiên quyết giữ vững trong bất cứ tình
huống nào. Độc lập dân tộc bao giờ cũng phải gắn với hịa
bình, thống nhất đất nước. Người nhấn mạnh: Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một. Sơng có thể cạn, núi có thể
mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi.
Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội có sự gắn bó thống nhất và quan hệ biện
chứng với nhau. Đó tuy là hai giai đoạn kế tiếp nhau của một
q trình cách mạng, nhưng lại khơng tách rời nhau, mà giai

đoạn trước là sự chuẩn bị điều kiện cho giai đoạn sau và giai
đoạn sau là sự kế tục và hoàn thiện các mục tiêu của giai
9


đoạn trước. Với Hồ Chí Minh, sức mạnh của yếu tố dân tộc
không chỉ là sức mạnh truyền thống vốn có, mà đã phát triển,
nâng lên một tầm cao mới, nhờ biết kết hợp lý tưởng xã hội
chủ nghĩa. Thực tế đã chứng minh, trong các cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ giành độc lập của đất
nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã góp phần nhân lên sức
mạnh tinh thần của dân tộc, giúp nhân dân ta vượt qua bao
gian khổ, hy sinh, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
2.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ khi trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh đã
khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng các dân tộc
một cách hồn tồn và triệt để, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho con người sự tự do, bình đẳng, bác
ái, đồn kết, ấm no, hạnh phúc. Với nhận thức trên, Hồ Chí
Minh chọn con đường đi theo Cách mạng tháng Mười Nga –
con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập với xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong suốt quá trình cách mạng đó, mối quan hệ biện
chứng thể hiện ở chỗ, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Nghiên cứu mối quan
hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua mối quan hệ giữa ba
cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ và

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là một quá trình
phát triển liên tục của cách mạng nước ta.
Trước hết, là mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc với
cách mạng dân chủ, cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh chủ
trương mang tính chất một cuộc cách mạng vơ sản ở nước
thuộc địa, nửa phong kiến, có nền kinh tế chưa phát triển.
10


Cuộc cách mạng đó có ba nhiệm vụ cơ bản được tiến hành
khăng khít với nhau, nhưng khơng nhất loạt ngang hàng
nhau.
- Chiến lược giải phóng dân tộc chủ yếu về mặt chính trị
- độc lập dân tộc.
- Chiến lược giải phóng dân tộc chủ yếu về mặt kinh tế tức là xây dựng chủ nghĩa xã hội
Khi đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn và tiếp tục
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì hai nhiệm vụ chiến
lược đó có vị trí ngược lại là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Hai nhiệm vụ chiến lược nói trên là nội dung của chiến lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là chiến lược của cách mạng Việt Nam – độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng khơng thể
tách rời: khơng có độc lập thực sự thì khơng thể xây dựng đất
nước theo xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, xây dựng chủ
nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản thành cơng thì độc lập
dân tộc thực sự vững bền và vị thế của đất nước vững vàng,
đời sống vật chất và tinh thần của mọi người dân sẽ được bảo
đảm và không ngừng được nâng cao. Cho nên giành độc lập
dân tộc là mục tiêu trước mắt và xây dựng chủ nghĩa xã hội

“để đi tới xã hội cộng sản” là mục tiêu lâu dài của cách mạng
Việt Nam.
2.1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
hướng tới giải phóng dân tộc, giai cấp và con người
triệt để
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới
giải phóng dân tộc, giai cấp và con người là điểm nổi bật
nhất, là thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Là một nhà tư
tưởng, nhà lý luận mácxít sáng tạo lớn của cách mạng Việt
11


Nam, Hồ Chí Minh một mặt đã thấu hiểu tinh tế lập trường,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp và
cách mạng vô sản để kiên trì sự lựa chọn lý tưởng và con
đường xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam; mặt khác, Người đã có những phát hiện độc đáo và sáng
tạo về phương pháp, bước đi và cách làm để thực hiện lý
tưởng và mục tiêu đó ở Việt Nam, phù hợp với đặc điểm và
điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, chỉ có chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt đế vấn đề
độc lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do và hạnh phúc thực
sự cho nhân dân, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của
chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện được giải phóng hồn tồn và
triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động của
tất cả các dân tộc trên thế giới. Người viết: Chỉ có giải phóng
giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản

và cách mạng thế giới.
Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh làm phong phú thêm cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội khi
hiểu bản chất của chủ nghĩa xã hội là sự giải phóng con
người, sự giải phóng kết tinh trong đó lý tưởng giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Chúng ta có thể thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con
người qua cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, một xã hội vì dân tộc, vì con người trong khái
niệm cặp đơi của nó. Người quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là cho mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung sướng, tự do”, “là làm cho mọi người được
12


ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”. Chủ nghĩa xã hội là
“xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt”. Những mục tiêu cụ thể trên đây được Hồ Chí
Minh khái quát một cách súc tích và nhất quán khi Người
khẳng định: “Xã hội chủ nghĩa khơng có bóc lột và áp bức dân
tộc”, là “một xã hội đảm bảo cho đất nước phát triển rực rỡ
một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao
động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng
phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do,
hạnh phúc và hùng cường, hướng tới chân trời tươi sáng mà
trước kia không thể nghĩ tới”.
2.2.Vận dụng tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1.Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Việt Nam bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất

nước và tiến hành như một cuộc cách mạng thực sự chỉ bắt
đầu từ năm 1986. Nhưng trước đó, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế mang tính
chất đổi mới. Những đổi mới này vừa đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn, vừa là bước tìm tịi, thử nghiệm con đường phát triển của
Việt Nam. Mặc dù, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
(năm 1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng vấn đề
phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Nhưng lúc đó và cả sau này, khi cả nước đi
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vấn đề phát triển kinh tế
của Việt Nam có nội dung cốt lõi là thực hiện cơng nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ trương này là phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc đó nhưng càng về sau, nhất
là khi cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nó càng
13


bộc lộ sự yếu kém trong nhận thức và vận dụng một cách
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Đó là vấn đề nông nghiệp, nông dân khi đất nước
chuyển giai đoạn nhưng trên thực tế lại không được coi trọng,
khơng nhìn thấy tầm chiến lược của nó trong sự phát triển
nền kinh tế - xã hội ở một nước sản xuất nơng nghiệp. Sự kéo
dài chủ trương đó, hơn nữa lại có sai lầm trong thực hiện đã
làm cho nền kinh tế Việt Nam thực sự rơi vào một cuộc khủng
hoảng. Vì vậy, cơng cuộc đổi mới của Việt Nam có xuất phát
điểm trước hết từ chính u cầu phát triển nội tại của đất
nước. Nó được bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn phát triển đất

nước, từ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lao động, từ kinh
nghiệm sáng tạo của một số cơ sở, địa phương.
Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng cộng sản và
nhân dân Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986. Đến
nay, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã tiến hành được trên 20
năm. Qua mỗi giai đoạn đổi mới (5, 10, 15, 20 năm), Đảng và
Nhà nước ta ln có sự tổng kết cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn nhằm rút ra những bài học và kinh nghiệm cho những
giai đoạn phát triển tiếp theo. Có thể nói, con đường đổi mới ở
Việt Nam vừa thể hiện sự trung thành, vừa là sự tìm tịi và vận
dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên thực tế, tiến trình thực hiện cơng cuộc đổi mới ở
Việt Nam luôn diễn ra trong bối cảnh thế giới vừa thuận lợi,
vừa phải đối phó với khơng ít khó khăn do tác động chung từ
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đến sự cấm vận về kinh
14


tế của Mỹ và sau này là hai cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới. Tuy nhiên, cho đến nay, sự phát triển ổn định về kinh tế,
xã hội đã ngày càng chứng tỏ sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
đã đi đúng hướng và phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam.
Những bài học chính của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam được
Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết lại là kiên trì chủ nghĩa xã
hội; kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị;
phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội và thực hiện đổi mới trong nước với việc mở cửa quan

hệ với tất cả các nước trên thế giới trên tinh thần giữ vững
chủ quyền, độc lập dân tộc. Đây là những bài học có tính khái
qt chung cho sự nghiệp đổi mới tồn diện ở Việt Nam, còn
xét từng lĩnh vực đổi mới, như đổi mới kinh tế, xã hội, văn
hóa, chính trị, đối ngoại, quốc phịng thì đều có những bài học
cụ thể cả về bước đi, tốc độ phát triển lẫn trọng tâm, trọng
điểm trong phát triển. Trong đó, cái giữ vai trò đặc biệt quan
trọng là những bài học về xây dựng mơ hình phát triển kinh tế
ở Việt Nam.
2.2.2 Đặc trưng của cơng cuộc đổi mới ở nước ta
Nhìn lại lịch sử, có thể khái quát sự nghiệp đổi mới ở
nước ta ở những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới được tiến hành theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được tiến hành theo mục
tiêu chủ nghĩa xã hội trên hai phương diện. Về phương diện lý
luận là xác lập được hệ thống quan điểm đúng về chủ nghĩa
xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với
Việt Nam; về phương diện thực tiễn là làm cho chủ nghĩa xã
hội từng bước xuất hiện và hình thành vững chắc ở Việt Nam.
Đây cũng chính là cách mà Việt Nam tiến hành đổi mới và cải
cách mở cửa khác hồn tồn với cơng cuộc cải tổ của Liên Xô
15


và cải cách mở cửa ở các nước Đông Âu. Việt Nam tiến hành
đổi mới nhưng khơng “đổi màu”, chính sự thành công của
công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn
của mơ hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nước ta đã
lựa chọn. Đặc trưng này thể hiện được thực chất của cơng

cuộc đổi mới ở Việt Nam và xun suốt tồn bộ tiến trình thực
hiện đổi mới cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng
thành công ở Việt Nam.
Thứ hai, đổi mới tồn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm
được tiến hành một cách tuần tự, từng bước phù hợp với mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn.
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định trên cơ sở đổi mới
toàn diện đất nước phải lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây
dựng Đảng là then chốt, lấy sự ổn định chính trị làm cơ sở cho
đổi mới kinh tế và các lĩnh vực khác. Trong quá trình đổi mới,
Đảng và nhân dân ta đã tập trung toàn bộ sức lực, của cải và
trí tuệ cho việc xây dựng một nền kinh tế phát triển nhằm
trước hết nâng cao đời sống của người dân lao động. Đổi mới
phải mang lại trước hết những lợi ích thiết thực cho người dân,
đặc biệt là nông dân vốn vẫn chiếm đa số trong dân số Việt
Nam. Chỉ khi làm được điều đó thì Đảng Cộng sản Việt Nam
mới tạo ra được một động lực mạnh mẽ cho việc tiến hành đổi
mới toàn diện đất nước.
Thứ ba, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính
trị
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam khơng phải ngay từ đầu
đã hình thành một hệ thống quan điểm tương đối rõ và đầy đủ
như bây giờ, mà

nó phải trải qua q trình đúc kết kinh

nghiệm cả những cái làm được và chưa làm được trong suốt
16



cả tiến trình và qua mỗi giai đoạn cụ thể mới hình thành nên.
Mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang được tiến
hành là chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì thế, con đường dẫn
đến thành cơng và ổn định lâu dài chính là vừa làm, vừa bổ
sung về mặt lý luận để có sự hoàn chỉnh về đường lối cũng
như các bước tiếp theo của công cuộc đổi mới. Ở Việt Nam,
qua mỗi thời kỳ Đại hội Đảng đều có sự nhìn nhận, đánh giá
lại tiến trình đổi mới theo các mốc thời gian 5 năm, 10 năm,
15 năm, 20 năm và trên cơ sở đó, hình thành lý luận chung về
con đường đổi mới ở Việt Nam. Chính sự bổ sung ngày càng
đầy đủ và hoàn chỉnh về mặt lý luận sẽ đảm bảo cho sự
nghiệp đổi mới của Việt Nam ngày càng đi đúng theo tiến
trình phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam. Đổi
mới của Việt Nam đã và đang phát triển tốt đẹp thì tương lai
và triển vọng của nó cũng khơng thể khác được.
Những điều trên đây nói về triển vọng chung của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Trên thực tế, con đường đó khơng
khơng diễn ra một cách suôn sẻ, không gặp những trở ngại
khó khăn. Từ khi tiến hành cơng cuộc đổi mới đến nay, Việt
Nam đã gặp rất nhiều khó khăn về khách quan lẫn chủ quan
làm chậm tiến trình đổi mới. Đó là những nhận thức sai lầm
trong chỉ đạo thực tiễn, sự bảo thủ cơ chế cũ, những thiên tai
lũ lụt, những biến động của thế giới theo chiều hướng bất lợi
cho công cuộc đổi mới của Việt Nam. Việt Nam đã gặp phải
khó khăn, như sự cấm vận của Mỹ, sự sụp đổ của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, quan hệ căng thẳng với Trung Quốc…trong
những năm đầu tiến hành đổi mới. Nhưng, từng bước một,
Việt Nam đã vượt qua những khó khăn đó bằng chính nội lực
phát triển của mình. Nhìn vào triển vọng và tương lai của sự
17



nghiệp đổi mới, mỗi người dân Việt Nam đều lạc quan và tin
tưởng vào sự tiến triển tốt đẹp của nó. Vì mục tiêu của nó là
xây dựng một xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, là làm cho mọi người dân Việt
Nam đều được hưởng một cuộc sống đầy đủ cả về vật chất
lẫn tinh thần.
2.2.3. Nắm vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong hội nhập kinh tế quốc tế
a) Độc lập về chính trị - kinh tế
Nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay là một nền kinh tế khơng bị phụ thuộc, lệ thuộc vào
nước khác, vào một tổ chức quốc tế nào về đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Không bị bất cứ ai
dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ
để áp đặt, khống chế làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia và
lợi ích cơ bản của dân tộc. Một nước có nền kinh tế độc lập tự
chủ là một nước có sự độc lập tự chủ trong hoạch định đường
lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; độc lập tự chủ trong sử
dụng các giải pháp; huy động các nguồn lực để phát triển
kinh tế, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, chủ động,
tích cực tham gia vào sự hợp tác, phân công lao động quốc tế
và trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của
quốc gia trong tham gia hợp tác, phân công lao động quốc tế
nhằm tranh thủ ngoại lực để phát triển và cạnh tranh quốc tế
có hiệu quả.
Bằng việc xác định đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại”, Đại hội VII
thực sự đánh dấu bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập kinh

tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới. Mở rộng
18


quan hệ hợp tác kinh tế đa phương là điều kiện để giữ thế cân
bằng, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một số đối tác nhất
định. Đó là một giải pháp để vừa mở rộng các mối quan hệ
kinh tế, vừa giữ vững độc lập tự chủ.
Trên cơ sở đánh giá sâu sắc những cơ hội và thách thức
đối với Việt Nam, Đại hội X tiếp tục khẳng định phải tranh thủ
cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn
diện và đồng bộ hơn nữa, phát triển với tốc độ nhanh hơn và
bền vững hơn nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản
trở thành nước cơng nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Những
quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế tiếp
tục hướng vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với những nội dung ngày càng cụ thể hơn.
Nhìn lại đường lối đổi mới của Đảng gần 25 năm qua cho
thấy, việc nhận thức mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta ngày
càng đầy đủ hơn, cụ thể hơn. Việc Đảng ta ngày càng nhấn
mạnh sự cần thiết phải kết hợp hai nội dung đó trong đường
lối chiến lược xây dựng và phát triển đất nước thể hiện tư duy
biện chứng sâu sắc của Đảng. Chủ trương, đường lối đúng đắn
đó là cơ sở quan trọng để triển khai và thúc đẩy việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
trong thực tiễn nhằm kết hợp một cách hiệu quả mọi tiềm
năng, nguồn lực trong nước và nguồn lực bên ngoài tạo thành
sức mạnh tổng hợp quốc gia, góp phần giải quyết thắng lợi

những nhiệm vụ của sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước, đồng thời tạo vị thế ngày càng cao của Việt
Nam trên trường quốc tế.
19


b) Độc lập về văn hóa
Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, am tường lịch
sử văn hóa dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, ngay từ năm 1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Tồn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”. Ở đây, Hồ Chí Minh hiểu văn hóa theo nghĩa rộng nhất
của khái niệm này, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần, khẳng định lý do, tính tất yếu của sự tồn tại và phát
triển của văn hóa và đặc biệt, Hồ Chí Minh đã hai lần nhấn
mạnh đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa là “sáng tạo và
phát minh”, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực, loại hình chính của
văn hóa.
Như vậy, phạm vi của văn hóa là hết sức rộng lớn, có mặt
trong tồn bộ hoạt động của đời sống xã hội và cuộc sống con
người, nhưng quan trọng hơn cả, đó là những giá trị do hoạt
động tinh thần – sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện
trình độ hiểu biết, năng lực và phẩm giá của một cộng đồng
và từng cá thể, là thước đo trình độ phát triển và sức vươn lên
tự hoàn thiện của con người theo lý tưởng chân, thiện, mỹ,
đồng thời nó góp phần trực tiếp cho q trình vươn lên đó của

con người. Theo hướng tiếp cận đó, Phạm Văn Đồng – một
nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam ở
thể kỷ XX, đã cho rằng: “Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn
hóa với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả
một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phầm
20


chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên
ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân
tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và
không ngừng lớn mạnh”.
c) Độc lập về đối ngoại
Nhận thức rõ giá trị tinh thần của ngoại giao Việt Nam và
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng tổ quốc,
chúng ta đã xây dựng được những mối quan hệ quốc tế cực
kỳ quý báu. Chúng ta có đồng chí gắn bó lâu dài, láng giềng
thân thiết, có bạn bè ở khắp năm châu cùng sát cánh trong
những lúc gian nan nhất. Có thế nói, giá trị tinh thần của
ngoại giao Việt Nam là giá trị chính nghĩa và nhân đạo. Ngày
nay, trong hợp tác phát triển, chúng ta vẫn mong muốn một
sự “hợp tác thành thật” cùng có lợi và tơn trọng lẫn nhau.
Khơng lợi dụng hợp tác để phá hoại, lật đổ và “diễn biến hịa
bình”. Trong điều kiện hiện nay, để xử lý được tình thế nhiều
phức tạp và ngày càng có tính đan xen địi hỏi những người
làm ngoại giao phải có sự linh hoạt và tinh tế, có bản lĩnh
chính trị cao, có nghiệp vụ, chun mơn giỏi và đặc biệt phải
có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa chẳng những của dân tộc
mình mà cả của đối tác là các quốc gia, dân tộc khác. Có như

vậy mới làm chủ được tình thế và xử lý được theo nguyên tắc
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sáng
tạo là một nguyên tắc của sự tiến bộ và phát triển. Khi nói
đến vận dụng lý luận hay học hỏi kinh nghiệm, chủ tịch Hồ
Chí Minh ln nhắc “phải sáng tạo”. Muốn có những nhà ngoại
giao tài ba, muốn có những chuyên gia hoạt động quản lý nhà

21


nước về đối ngoại nhất định phải khuyến khích và nuôi dưỡng
sự sáng tạo trong công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao.
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta đã đạt những thành tựu to lớn. Việt Nam từ một
nước thuộc địa đã trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu đã vươn mình trở
thành một quốc gia phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt trong
những năm đổi mới, cùng với kinh tế không ngừng tăng
trưởng là vai trò quốc tế của Việt Nam không ngừng mở rộng,
giao thương ngày càng đi vào chiều sâu và bền vững. Tất cả
những thành tựu đó khơng tách khỏi đường lối đúng đắn của
Đảng và đặc biệt là quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của chủ tịch Hồ Chí Minh.

I

PHẦN KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng và

phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt
Nam. Những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
22


độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa văn hóa nhân loại
đã được chắt lọc qua tư duy độc lập và bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định của Người và tiếp thu và kế thừa chủ nghĩa
Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh,
của Đảng và nhân dân ta vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Nó có giá trị to lớn và ảnh hưởng sâu sắc đối với
phong trào cách mạng thế giới, phong trào giải phóng dân
tộc; đối với cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đối với sự lựa
chọn con đường đi lên của nhiều quốc gia dân tộc trên thế
giới. Trong thời đại ngày nay, đấu tranh cho độc lập dân tộc
vẫn là mối quan tâm lớn của các quốc gia dân tộc trên thế
giới. Do sự tác động của tình hình, cuộc đấu tranh giữ vững
nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chống mọi hình thức
lệ thuộc và phụ thuộc có nhiều nét mới, ngày càng phong
phú, đa dạng. Hướng tới chủ nghĩa xã hội khơng cịn là vấn đề
xa lạ, mà đã trở thành vấn đề trực tiếp của nhiều quốc gia
dân tộc trên thế giới. Nhân dân các nước trên thế giới ngày
càng nhận thấy rằng, chủ nghĩa xã hội là biểu tượng cho hịa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho những giá trị mà nhân
loại phải phấn đấu và hướng tới, vị thế chủ nghĩa xã hội ngày
càng gắn với phát triển của lịch sử nhân loại. Di sản Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn còn

nguyên giá trị thời sự, tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đối với đời
sống nhân loại với những biểu hiện mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam góp phần mở ra một
23


trang mới cho công cuộc đổi mới tiếp tục ở Việt Nam, đồng
thời góp phần vào sự tiến bộ chung của nhân loại tiến bộ
trong thế giới này. Bởi vì, như bà Mácxêla Lômbácđô, Giám
đốc trung tâm nghiên cứu triết học, chính trị xã hội Mêhicơ
nói: “Tên tuổi Hồ Chí Minh được biết đến và kính trọng trên
khắp thế giới”, và tên Người – Hồ Chí Minh được kỷ niệm như
một trong những vĩ nhân mà lịch sử loài người sinh ra”. Bà
phân tích: “Rõ ràng là những sự kiện bây giờ cho thấy thế giới
đang chuẩn bị cho thiên niên kỷ thứ ba; và sự đối đầu sẽ
không phải bằng vũ khí quân sự nữa, mà bằng sức mạnh tư
tưởng. Ngày nay cuộc đấu tranh giữa hai thứ triết học về cuộc
sống trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết. Đó là: một loại triết học
nhìn thế giới như một cái gì đó bất biến, trong đó mọi thay đổi
chỉ là những mơ hoặc; và loại kia nhìn thế giới như như một
q trình mà ở đó những thay đổi là cội nguồn của sự giàu có,
tiến bộ và nhằm tìm kiếm ước muốn nhân đạo trong lĩnh vực
đạo đức. Vì thế mà những con người như Hồ Chí Minh ngày
càng trở nên vĩ đại, vì họ là những người đã cho chúng ta lý
do để sống và khả năng để thực hiện những giấc mơ của
mình”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


24


1.

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại

2.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV – NXB Sự thật.
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Bộ giáo dục và đào tạo –

3.

NXB Chính trị quốc gia - 2005.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội – Nguyễn Bá Linh – NXB Chính trị quốc gia –

4.
5.

6/2005
Hồ Chí Minh tồn tập.
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Trường đại học Tây
Nguyên

ĐÁNH GIÁ
25



×