Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

TƯ TƯỞNG đạo GIA NHỮNG GIÁ TRỊ và hạn CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.71 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA SAU ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI : TƯ

TƯỞNG ĐẠO GIA.
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ .

GVHD : TS BÙI VĂN MƯA
SVTH : NGUYỄN THỊ NGỌC LAN
Khóa
: CH. 19
Lớp
: Đêm 1

Tháng 03 Năm 2010


GIỚI THIỆU
Gần đây triết học Phương động được các nhà nghiên cứu quan tâm sâu sắc. Ngo ài
Phật Gíao, Khổng Gíao thì Đạo gia cũng được đặc biệt chú trọng. Tuy nhi ên điều
đáng nói là trong ba tơn giáo ấy Đạo giá thường được nghiên cứu ít hơn trong khi nó
lại từng có ảnh hưởng ở nhiều nước châu Á, nhất là Trung Quốc và Việt Nam. Ta
có thể thấy những ảnh hưởng của nó trong tư tưởng vẫn còn giá trị cho đến bây giờ
như : lấy nhu thắng cương ,sống thảnh thơi chết bình thản , hay người biết nói khơng
biết rộng, người biết rộng khơng biết nói….

Tuy nhiên bên cạnh đó có ý kiến cho rằng Đạo gia l à mang tư tưởng duy tâm siêu


hình, thể hiện một phản ứng tiêu cực trước thời cuộc bấy giờ.
Vì vậy để nhằm hiểu rõ và ứng dụng đúng đắn những t ư tưởng của đạo giáo Nội
dung bài viết này xoay quanh đề tài “ TƯ TƯỞNG ĐẠO GIA. NHỮNG GIÁ TRỊ
VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ” bao gồm:

Chương 1 :

Tổng quan về Đạo gia

Chương 2:

Phân tích những giá trị và hạn chế của Đạo gia

Chương 3:

Kết luận

.


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẠO GIA ........................................................................1
1.1 CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM....................................................................................1
1.1.1 LÃO TỬ VÀ TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH ............................................................. 1
1.1.2 TRANG TỬ TỬ VÀ NAM HOA KINH .......................................................................2
1.2 NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐẠO GIA ..........................................................................3
1.2.1 Học thuyết về Đạo ........................................................................................................3
a. Khởi nguyên vũ trụ .................................................................................................3
b. Tư tưởng biện chứng về thế gi ới ( xem xét sự vật, hiện t ượng trong trạng thái
biến đổi) ...................................................................................................................... 5

1.2.2 Quan điểm chính trị xã hội ........................................................................................... 7
a. Quan điểm vô vi ......................................................................................................7
b.Đạo trị nước .............................................................................................................7
1.2.3 Phương châm xử thế ......................................................................................................8
a. Quy tắc xử thế .........................................................................................................8
b. Ba đức tính cần có của con người..........................................................................8
c. Tri túc phải biết dừng khi đủ ...................................................................................9
1.2.4 Tư tưởng vị ngã : trọng kỷ quý sinh ..............................................................................9
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH NH ỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐẠO GIA .........11
2.1 NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA ĐẠO GIA ........................................................................11
2.1.1 Lý luận về đạo mang tính khái quát cao ......................................................................11
2.1.2 Nhận thấy hai mặt đối lập trong một thể thống nhất ..................................................12
2.1.3 Gía trị nhân bản cao .....................................................................................................13
a. Tư tưởng bình đẳng, tự do ....................................................................................13
b. Tư tưởng trọng hịa bình ....................................................................................... 14
c. Tấm lịng khoan dung ........................................................................................... 15
d. Nếp sống tự nhiên giản dị ..................................................................................... 16
2.1.4 Chủ nghĩa vô vi : Con người không thể tách khỏi tự nhi ên.........................................16
2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐẠO GIA…………………………………………… 20
2.2.1 Lý luận về đạo mang ý nghĩa duy tâm, si êu hình ........................................................ 19
2.2.2 Tuyệt đối hóa chủ nghĩa vô vi ..................................................................................... 19
2.2.3 Phản kinh nghiệm, phản ta thức. ..................................................................................20
2.2.5 Thái độ vị ngã : thái độ tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc ...................................22
CHƯƠNG 3 : KẾT LUẬN……………………………………………………………….25


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẠO GI A
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tập trung trong bộ Đạo Đức Kinh và bộ Nam Hoa
Kinh. Đạo Đức Kinh có khoảng 5000 từ do L ão Tử soạn. Nam Hoa Kinh gồm các
bài do Trang Tử và một số người theo phái Đạo gia viết.

1.1 CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
1.1.1 LÃO TỬ VÀ TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH
Theo Sử ký Tư Mã Thiên , phần Liệt truyện, thiên 63 thì Lão Tử là người nước Sở,
huyễn Khổ làng Lệ xóm Khúc Nhân ở tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ông họ Lý, t ên Nhĩ, tự
là Bá Dương. Ông làm quan s ử giữ nhà chứa sách của nhà Chu. Theo nhiều ý kiến
khác nhau mà Tư Mã Thiên ghi lại nhưng không khẳng định đúng hay sai thì Lão
Tử có thể chính là Lý Nhĩ là Lão Lai tử hoặc là Đam cũng sinh sống cùng một thời
với Khổng Tử.
Lão Tử là một nhân vật huyền bí , cũng huyền bí giống nh ư tác phẩm Đạo Đức
Kinh, khơng một điều gì được viết về Lão Tử Hoặc Đạo Đức Kinh mà có thể xem là
chắc chắn có tính lịch sử. Tr ên thực tế người ta khơng biết gì về Lão Tử vào thời Tư
Mã Thiên cho đến thế kỷ thứ 3 TCN Lão Tử không hề được xem là người sáng lập
bất cứ một trường phái đạo học nào. Đối với các văn nhân thời ấY, L ão Tử chỉ được
xem là một trong hàng ngũ các triết gia khác. Cả Khổng Tử cũng khơng có một lời
nào nói về Lão Tử. Những trích dẫn từ quyển Đạo Đức Kinh mới chỉ đ ược Trang Tử
và Liệt Tử đề cập sau này vào thế kỷ IV và III TCN.
Tác phẩm Đạo Đức Kinh được Tư Mã Thiên cho rằng là tác phẩm của Lão Tử gồm
trên năm ngàn chữ. Về thời gian ra đời của Đạo Đức Kinh cũng có nhiều ý kiến
khác nhau. Có thuyết nói sách này ra đời vào cuối thời Xuân thu, có ý kiến cho rằng
đầu thời Chiến quốc. Ngày nay nhiều người cho là vào giữa thời chiến quốc.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 1



Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Bản lưu hành Đạo Đức Kinh phổ biến lâu nay l à bản chú thích của Vương Bật đời
Ngụy. Bản này gồm 81 chương chia làm hai phần : 37 chương đầu là Đạo Kinh,44
chương sau là Đức Kinh.
Năm 1973 giới khảo cổ học của Trung Quốc đ ã khai quật những ngôi mộ đời Hán ở
Trường Sa ( tỉnh Hồ Nam) phát hiện bản Đạo Đức Kinh chép tay đ ược coi là bản
chép tay xưa nhất. Bản này đặt Đức Kinh trước Đạo Kinh.
Về chủ đích thì đối với nhiều người thì Đạo Đức Kinh thiết yếu là một tác phẩm
phúng thích bút chiến chống các trường phái nho gia và pháp gia.( A. Waley), ngư ời
khác lại nghĩ rằng Đạo Đức Kinh dụng ý viết ra cho các học giả kinh th ành đã chán
ghét chốn đô thị và muốn trở về với thiên nhiên qua trực thị và cảm xúc, tập sách
này viết ra cho những các nhân đ ã mệt mỏi về thế tục (A. Riencourt). Chan Wubg tsit lại thấy chủ đích của Đạo Đức Kinh l à để cho các bậc vua chúa quan quyền biết
cách trị dân trong ơn hịa thư thái. Có kẻ lại chủ trương giả thuyết Đạo Đức Kinh là
một tập sách khai tậm cho các tập vi ên đạo gia hoặc ít ra sách gối đầu giường cho
các bậc triết gia vô vi muốn lánh đời v à xa rời hoạt động .
1.1.2 TRANG TỬ TỬ VÀ NAM HOA KINH
Trang Tử sống vào thời Chiến quốc cùng thời với Lương Huệ Vương, Tề Tuyên
Vương. Ông là bạn thân của Huệ Thi.Trang Tử qu ê ở huyện Mông nay là đông bắc
huyện Thương Khâu tỉnh Hà Nam. Ông là người nước Tống ( có người cho rằng ơng
là người nước Lương, nhà nghèo, thường sinh sống bằng nghề đan gi ày, câu cá có
khi cịn đi vay gạo của quan Gíam hà hầu. Ngay khi vào yết kiến Ngụy vương ông đi
giày rơm , mặc vải thô. Tuy vậy ông cũng không m àng đến quyền uy, quan chức v à
xem thường quan lại lúc bấy giờ. Sở Uy v ương lấy lễ trọng đại ông và mời ông làm
tước nước Sở nhưng ông một mực từ chối.
Trang Tử để lại cho đời sách Trang Tử c òn gọi là Nam Hoa Kinh. Sách sử ký Lão tử
hàn Phi liệt truyện chép sách Trang Tử d ài hơn mười vạn chữ. Sách Han thư Nghệ

văn chí ghi: sách Trang T ử gồm 52 thiên. Lục Đức Minh đời Đường trong sách Đinh

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 2


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

điển thích văn tự lục ghi chép nhiều bản chú thích nh ư bản chú của Tư Mã Bưu của
Hước Tú và đặc biệt là của Qúach Tượng. Bản Trang Tử ngày ngay được sử dụng là
bản của Qúach Tượng ( Ngụy Tấn) 33 thiên gồm nội thiên 7, ngoại thiên 15 và Tạp
Thiên11
Hiện nay có hai ý kiến khác nhau về sách của Trang Tử
Ý kiến thứ nhất cho rằng 7 thiên trong sách của trang tử mối là của Trang Tử còn
Ngoại và Tạp thiên đều là của người sau ngụy tạo. Ý kiến thứ hai cho rằng to àn bộ
33 thiên của sách Trang Tử đều là phản ánh tư tưởng của Trang Tử.

1.2 NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐẠO GIA
1.2.1 Học thuyết về Đạo

a. Khởi nguyên vũ trụ
Trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, chữ “ đạo” mang một khái niệm triết học ho àn
toàn khác với “ đạo” trong Nho học. Nghĩa đen của nó là con đường. Có lẽ ở thời
Xuân Thu chiến quốc Tử Sản là người đầu tiên đề cập đến Đạo “ Đạo trời xa, Đạo
người gần khó lịng mà nắm bắt được”( Thiên Đạo viễn, nhân Đạo nhĩ, phi sở cập
dã, Tả truyện, Chiêu công thập cửu niên)
Đạo là một phạm trù triết học vừa để chỉ bản ngun vơ hình, phi cảm tính, phi

ngơn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật vừa để chỉ con đường quy luật chung của
mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế giới.
Trong Đạo Đức Kinh có nhiều từ ngữ diễn rả mối t ương quan giữa Đạo và trời đất
vạn vật: đạo có trước trời đất, đạo là cội nguồn của trời đất, là mẹ của vạn vật, là mẹ
của thiên hạ và là tổ tơng của vạn vật. Lão Tử cịn gọi Đạo là gốc rễ của đất trời.
Đạo như gốc rễ không những có nghĩa l à ngọn nguồn mà cịn là cùng đích là nơi trở
về của vạn vật. Đạo cịn được là cửa vào ra qua đó vạn vật đi vào sự sống. Tất cả
những hình thức diễn tả về đạo trên đây đều nói đến tương quan của đạo đối với
hiện tượng, mỗi từ diễn đạt một h ình thức tương quan.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 3


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Nhưng cịn có một từ điễn tả không những mối t ương quan giữa đạo và thế giới hiện
tượng mà còn được đồng nhất với đạo đó l à từ nhất với nghĩa là một.” Đạo sanh
Nhất, nhất sanh Nhị, Nhị sanh Tam tam sanh vạn vật van vật c õng âm ôm dương,
điều hịa bằng khí trùng hư”
Đạo được tạm hiểu như là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn mập
mờ thấp thống khơng có đặc tính khơng có h ình thể là cái mắt khơng thấy tai không
nghe , không thể nắm bắt được, không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ, l à cái năng động
tự sinh sơi nảy nở, biến hóa.Đạo ở đây l à quy luật.
Theo Lão Tử, đạo vừa là cái có trước vừa là cái nằm trong bản thân sự thật, nh ưng
khi có sự can thiệp của con người thì đạo khơng cịn là đạo nữa. Ơng viết có một vật
hỗn mang thành tựu trước trời đất, yên lặng mênh một, một mình độc lập, tản mác

khắp nơi , khơng ngừng ở đâu coi như mẹ của thế gian… Cái hỗn mang ch ưa có
tên nên tạm gọi là đạo
Đức là một phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo l à cái hình
thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau là cái lý sâu sắc để
nhận biết vạn vật.
Theo Lão Tử đạo sinh ra vạn vật đức nuôi nấng bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ đạo
mà được sinh ra nhờ đức mà được thể hiện và khi mất đi là lúc vạn vật quay về với
đạo. Đạo sinh ra một ( khí thống nhất) Một sinh ra Hai( âm d ương đối lập) Hai sinh
ra Ba ( trời đất người) Ba sinh ra vạn Vật.
Tóm lại đạo khơng chỉ là nguồn gốc bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã
đang và sẽ tồn tại. Điều này cho phép hiểu đạo như một nguyên lý thống nhất vận
hành của vạn vât- nguyên lý Đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan (
vơ vi) vừa mang tính phổ biến v ì vậy trong thế giới khơng đâu là khơng có đ ạo
khơng ai theo đạo.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 4


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

b. Tư tưởng biện chứng về thế giới ( xem xét sự vật, hiện tượng trong
trạng thái biến đổi)
Trong triết học của Lão tử, quan niệm biện chứng về thế giới gắn liền với quan niệm
về đạo – đức. Nhờ đức mà đạo nằm trong vạn vật ln biến hóa. Đạo l à cái vô. Cái
vô sinh ra cái hữu . Cái hữu sinh ra vạn vật.
Đạo là mẹ của vạn vật, cho nên vạn vật có những tính cách của đạo v à phải theo

những qui luật của đạo.
b.1 Phác
Có thể Lão tử nhận thấy rằng trong vũ trụ, sinh vật nào càng nhỏ, càng thấp như con
sâu, thì cơ thể và đời sống càng đơn giản, chất phác; cịn lồi người thì thời thượng
cổ, tính tình chất phác, đời sống rất giản dị, tổ chức x ã hội rất đơn sơ; càng ngày
người ta càng hố ra mưu mơ, xảo quyệt, gian trá, đời sống càng phúc tạp, tổ chức
xã hội càng rắc rối, mà sinh ra loạn lạc, chiến tranh, lồi người chỉ khổ thêm; rồi từ
nhận xét đó mà ông cho rằng một tính cách của đạo l à “phác” (mộc mạc, chất phát),
loài người cũng như vạn vật do đạo sinh ra đều phải giữ tính cách đó thì mới hợp
đạo, mới có hạnh phúc

.

b.2 Tự nhiên

:

Một tính cách nữa – cũng có thể nói một qui luật nữa – của đạo là tự nhiên. Phác là
một hình thức tự nhiên, nhưng tự nhiên không phải chỉ là phác. Nghĩa rộng hơn
nhiều. Trong Đạo Đức kinh, tiếng tự nhi ên được dùng nhiều hơn tiếng phác; tự
nhiên là một điểm quan trọng vào bậc nhất trong học thuyết L ão tử, nên chương 25
ông bảo: “đạo phác tự nhiên”, nghĩa là đạo theo tự nhiên, đạo với tự nhiên là một
Một vật gì trời sinh ra, khơng có bàn tay con người, ta gọi là tự nhiên; một cử động,
ngơn ngữ phát ra tự lịng ra mà khơng tính tốn t rước, ta cũng gọi là tự nhiên.
Đạo sinh ra vạn vật rồi, để cho chúng vận h ành, diễn biến theo luật riêng, theo bản
năng của chúng, chứ không can thiệp v ào, cho nên Lão tử bảo đạo là tự nhiên
Không can thiệp vào đời sống vạn vật cịn có nghĩa là để cho vạn vật tự do phát
triển. Vậy Lão tử có thể là người đầu tiên chủ trương chính sách tự do, một thứ tự do
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan


Trang 5


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

cho nhân quần, xã hội, khác sự tự do cho cá nhân, cho bản thân, của một nghệ sĩ
phóng

đãng

như

Trang

tử

trong

thiên

Tiêu

dao

du.

Bốn mùa cứ thay đổi nhau mà vận hành, vạn vật cứ theo bản năng m à tự thích nghi
với hồn cảnh: cá cứ tự mọc ra vây, chim tự mọc ra cánh, con n ịng nọc khi lên ở

trên cạn thì tự đứt đi mà mang biến thành phổi; con tầm tự làm kén để sau đục kén
ra mà biến thành con bướm; và lồi vật nào cũng đói thì tìm ăn, no rồi thì thơi, lúc
nào mệt thì nghỉ

.

b.3 Luật phản phục
Tính cách và qui luật thứ ba của đạo, quan trọng nhất, l à phản phục, tức là quay trở
về.Vạn vật do đạo sinh ra và do đức mà trưởng thành, tất nhiên phải theo qui luật
phản phục
Luật phản phục của đạo đó – tức luật tuần hồn của vũ trụ - loài người đã nhận thấy
từ hồi sơ khai: mặt trời mọc, lên tới đỉnh đầu rồi xuống, lặn, hôm sau lại nh ư vậy;
mặt trăng tới ngày rằm thì trịn, rồi khuyết lần tới cuối tháng, rằm sau tr òn trở lại;
bốn mùa thay phiên nhau, rồi năm sau trở lại mùa xuân; thuỷ triều lên lên xuống
xuống; cây cối từ đất mọc l ên, lá rụng trở về đất, thành phân nuôi cây; con ngư ời “từ
cát bụi trở về cát bụi”.
Lão tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập.
Chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau. Ông viết : Ai cũng biết đẹp l à đẹp tức là có
xấu; hai mặt dài ngắn tựa vào nhau, mới có hình thể hai mặt cao thấp liên hệ với
nhau , mới co chênh lệch và trong vạn vật không vật nào không cõng âm bồng
dương. Trong vạn vật các mặt đối lập khơng chỉ thống nhất m à chúng cịn xung đột,
đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau tạo ra sự thay đổi, biến hóa khơng ngừng của vạn vật
trong vũ trụ.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 6


Tiểu luận triết học


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

1.2.2 Quan điểm chính trị xã hội

a. Quan điểm vơ vi
Vạn vật khi đã phát triển đến cực điểm thì bị “tổn” lần lần cho tới khi trở về “vô”.
Vậy “vô” là chung cục trong một giai đoạn mà cũng là khởi điểm giai đoạn sau. H ơn
nữa nó cịn là “bản thuỷ của trời đất”. Vì vậy Lão tử rất q “vơ”; có thể nói học
thuyết của ơng là học thuyết “vơ”, ngược hẳn với học thuyết của các nhà khác
Vô không có nghĩa là hồn tồn khơng có gì, trái h ẳn với hữu. Vơ là vơ sắc, vơ
thanh, vơ hình đối với cảm quan của ta, nh ư đạo. Vô có tính cách huyền diệu, huyền
bí, nó sinh ra hữu, rồi hữu trở về vô, thành thử vô, hữu không tương phản mà tương
thành.
Vì lấy “vơ” làm gốc, Lão tử mới khuyên ta vô vi, vô ngôn, vô dục, vô sự ,cũng
chính lấy “vơ” làm gốc nên ơng mới chủ trương tuyệt học, tuyệt thánh khí trí; cũng
chính vì lấy “vô” làm gốc nên ông mới trọng sự hư tĩnh, tinh thần bất tranh v à ơng
mới “ngoại kì thân, hậu kì thân” .Một nửa nhân sinh quan, chính trị quan của ông
xây dựng trên chữ “vô”

.

Lão tử sống ở thời loạn, thấy người ta càng cứu loạn thì càng loạn thêm, cho nên
ông chủ trương đừng hữu vi, đừng làm trái thiên nhiên, tức phải vơ vi, do đó ông
trọng “vô”;

b.Đạo trị nước
.Lão tử không cực đoan như Trang tử mà đưa ra chủ trương vơ chính phủ. Ơng vẫn
cịn duy trì ngơi vua, nhưng nhiệm vụ và quyền hành của vua bị giảm thiểu gần nh ư
khơng cịn gì. Vua chỉ có mỗi việc là vơ vi, nghĩa là không can thiệp vào đời sống

của dân, chỉ coi chừng cho dân sống theo tự nhi ên, ngăn ngừa trước cho dân khỏi
đánh mất bản tính thuần phác Hơn nữa, vua tuy ở trên dân mà khơng q bằng dân,
vì:
“Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền” (Quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi c ơ).
Các vua chúa mới tự xưng là cô (côi cút), qu ả (ít đức), bất cốc (khơng tốt) chính l à

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 7


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

lẽ đó. (ch.ương 39 Đạo Đức Kinh)

.

Vậy vua phải tự đặt mình ở dưới, ở sau dân

:

“Sông biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch [nghĩa là nơi qui tụ của mọi khe] vì khéo ở
dưới thấp nên làm vua trăm khe lạch. Vì thánh nhân [tức hạng vua chúa] muốn ở
trên dân thì phải nói lời khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau. (chương 66
Đạo Đức Kinh)
Nếu Khổng Tử chủ trương xây dựng xã hội đại đồng thì Lão Tử chủ trương xóa bỏ
hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con ng ười để trả lại cho con
người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại

nguyên thủy chất phác, mơ ước cơ lập cá nhân với xã hội để hịa tan con người vào
đạo. Ông chủ trương xây dựng nước nhỏ, dân ít có thuyền xe nh ưng khơng đi, có
gươm giáo nhưng không dùng b ỏ văn tự từ tư lợi, không học hành.. Dân hai nước
cạnh nhau dù cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con m ương cạn cùng nghe
tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sàng nhưn đến già đến chết họ cũng không bao giờ
qua lại thăm hỏi nhau.
1.2.3 Phương châm xử thế

a. Quy tắc xử thế
Lão coi vạn vật như nhau, không phân biệt q, tiện, như vậy là chủ trương bình
đẳng; ơng lại bảo phải để cho vạn vật tự nhi ên phát triển theo bản tính của chúng,
khơng can thiệp vào, như vậy là chủ trương tự do. Bình đẳng và tự do là những giá
trị ngược với chế độ phong kiến dựng tr ên quân quyền, phụ quyền và nam quyền

b. Ba đức tính cần có của con ng ười
Từ thuyết vô vi Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là : từ ái , cần
kiệm, khiêm nhường, khoan dung.
Lão tử đã từng nói “ Ta có ba báu vật, ta hết sức nắm giữ chắt chiu. Một l à khoan từ.
Hai là tiết kiệm. Ba là khơng dám đứng trước thiên hạ (coi mình hơn người). Khoan
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 8


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

từ nên mới hùng dũng. Tiết kiệm nên mới rộng rãi. Không dám đứng trước người,
nên mới được hiển dương.”


c. Tri túc phải biết dừng khi đủ
Lão

tử



lẽ



người

đầu

tiên

khun

ta

tri

túc.

“Biết thế nào là đủ thì khơng nhục, biết lúc nào nên ngừng thì khơng nguy” (Tri túc
bất

nhục,


tri

chỉ

bất

đãi



Chương

44

Đạo

Đức

Kinh)

“Họa khơng gì lớn bằng khơng biết thế nào là đủ, hại khơng gì bằng tham muốn cho
được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới ln ln đủ” (Tri
túc

chi

túc

thường


túc





chương

46

Đạo

Đức

Kinh

)

Tri túc là điều kiện cốt yếu của hạnh phúc m à phương Đông chúng ta coi tr ọng.
Ngoài hai câu dẫn trên trong Đạo Đức kinh, người Trung Hoa cịn những châm ngơn
này nữa: “Tri túc, tiện thị túc, đ ãi túc hà thời túc?” (Biết thế nào là đủ thì sẽ đủ, đợi
cho có đủ thì bao giờ mới đủ?) và “Nhân dục vơ nhai, hồi đầu thị ngạn” (L ịng dục
của con người khơng có bờ bến, nhưng nhìn lại phía sau mình thì đó là bờ bến đấy).
Tri túc thì “Khứ thậm, khứ xa, khứ thái” (bỏ những cái g ì thái quá – chương 29 Đạo
Đức Kinh ) và khơng cho tình trạng nào, dù tốt tới mấy, phát triển tới cực điểm, v ì
theo luật tuần hồn trong vũ trụ, hễ phát tới cực điểm th ì sẽ quay trở lại (phản phục),
sẽ suy.
1.2.4 Tư tưởng vị ngã : trọng kỷ quý sinh
Trang Tử đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của L ão Tử thành chủ nghĩa

tương đối và thuyết ngụy biện từ đó ông xâ y dựng quan niệm nhân sinh thoát tục –
vị ngã- tồn sinh đầy tính duy tâm, tiêu cực trong trường phái Đạo gia.
Xuất phát từ quan niệm của L ão Tử coi vạn vật đều do đạo sinh ra Trang tử cho rằng
trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là một mà đã là một thì cần chi phân
biệt cái này cái kia làm gì. Từ đó ơng cho rằng đúng – sai , trên – dưới, sang hèn
đều là như nhau mà nếu chúng là như nhau thì cần loại bỏ chúng ra một b ên để tiến
vào vương quốc tiêu dao coi sống chết bằng nhau, quên vật quên ta, trời đất với ta
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 9


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

là một, coi đời là một cuộc giải trí, một cõi mộng mơ mà khi tỉnh dậy khơng biết ta
hóa bướm hay bướm hóa ta..( Trang Tử mơ thấy mình hóa bướm)
Do thốt tục mà phải sống trong trần tục nên Trang Tử chủ trương phải toàn sinh và
vị ngã nghĩa là phải yên theo thời mà ở thuận vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả
không khen chể phải trái tốt xấu làm gì phải lánh nạn để bảo tồn sinh mạng, hay
can thẳng mà họ khơng nghe thì ta nên lui chớ cãi bởi vì một người quân tử chết vì
nghĩa và một kẻ tiểu nhân chết vì của cải thì hai cái chết đó như nhau.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 10


Tiểu luận triết học


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH NH ỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
CỦA ĐẠO GIA

2.1 NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA ĐẠO GI A
2.1.1 Lý luận về đạo mang tính khái quát cao
Đạo là phạm trụ triết học vừa để chỉ bản nguy ên vơ hình , phi cảm tính, phi ngơn từ,
sâu kín, huyền diệu của vạn vật vữa để chỉ con đ ường, quy luật chung của mọi sự
sinh thành biến hóa xảy ra trong thế giới. Theo L ão Tử đạo vừa là cái có trước vừa
là cái nằm trong bản thân sự vật .Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng bảo tồn vạn vật.
Vạn vật nhờ đạo mà được sinh ra, nhờ đức mà thể hiện và khi mất đi là lúv vạn vật
quay trở về với đạo. Đạo sinh ra Một. Một sinh ra Hai ( âm d ương đối lập) Hai sinh
ra Ba ( trời, đất , con người) Ba sinh ra VẠN VẬT. Nh ư vậy đạo không chỉ là nguồn
gốc bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã đang và sẽ tồn tại trong thế giới.
Điều nay cho phép hiểu đạo nh ư nguyên lý thống nhất- vận hành của vạn vậtnguyên lý Đạo Pháp tự nhiên ( nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo
pháp tự nhiên) Đạo vừa mang tính khách quan vừa mang tính phổ biến. Nh ư vậy
quan niệm về đạo của trường phái Đạo gia đã thể hiện một trình độ khái quát cao
của tư duy về những vấn đề bản nguyên thế giới được xem xét trong tính chỉnh thể
thống nhất của nó.
Ý kiến cho rằng đạo của Lão Tử là duy vật là do trong Đạo Đức Kinh có câu như
sau Đạo là cái gì đó hình thành trong tình trạng hỗn tạp của sự vật. Vậy Đạo l à một
thực thể không xác định rõ ràng, nó mờ mờ ảo ảo nhưng lại có hình tượng. Nó mờ
mờ ảo ảo nhưng lại có vật thực. Ngoài ra trong triết học của Lão Tử căn bản phủ
định sự tồn tại của : Thần, phủ nhận : Thần” sáng tạo v ào chúa tể mn lồiTheo Từ

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 11



Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Thụ thì cách đây hơn hai nghìn năm sách Đạo đức Kinh đã bao hàm tư tưởng vơ
thần đó quả thật là xuất sắc.
Ơng hồn tồn có tinh thần vơ thần, về điểm đó suốt thời Ti ên Tần khơng ai hơn
ơng, vì ngay Tuân tử cuối thời Chiến Quốc, tuy b ài xích dị đoan, chủ trương rằng
việc trời khơng liên quan gì tới việc người, trời khơng làm hại người – trái hẳn với
Mặc

tử

-

nhưng

vẫn

cịn

cho

trời



cao


hơn

cả.

Lão tử lại có thái độ rất “triết”, khơng lớn tiếng mạt sát, đả đảo tín ng ưỡng của
người đương thời, chỉ suy tư, tìm hiểu, đưa ra một giả thiết về vũ trụ.
Ông lại khiêm tốn, thận trọng: khiêm tốn khi ông nhận ngay ở ch ương đầu rằng vũ
trụ vơ cùng huyền bí, khơng thể hiểu được, giảng được; thận trọng khi ơng nói về
đạo, ơng dùng những tiếng lửng: tượng (có lẽ), tự (giống nh ư), nhược (hình như),
hoặc (hoặc là). Ơng chỉ thành thực trình bày ý nghĩ của ơng, dị dẫm tìm chữ để diễn
tả hình ảnh về đạo hiện trong óc ơng, nh ư trong các chương 14 và 21, v ừa cơ động,
vừa thâm th, vừa bóng bẩy, hiếm thấy trong triết học Trung Hoa.
2.1.2 Nhận thấy hai mặt đối lập trong một thể thống nhất
Lão Tử là một trong những nhà triết học cổ đại Trung Quốc đầu ti ên chỉ ra rằng
mọi sự việc hiện tượng đều tồn tại không phải trong trạng thái cô lập mà liên hệ
thống nhất với nhau. Hiện t ượng thống nhất các mâu thuẫn đối lập l à hiện tượng phổ
biến không những trong tự nhi ên mà cả trong xã hội. Trong tự nhiên các mặt như
lớn nhỏ, cao thấp dày mỏng, trắng đen , lạnh nóng đều tồn tại b ên nhau. Trong xã
hội các mặt như xấu đẹp , thiện ác, họa phúc, đúng sau cũng tồn tại b ên nhau. Nếu
mặt này mất đi thì mặt kia cũng khơng thể tồn tại đ ược.
“ Có và khơng cùng tồn tại, khó và dễ cùng tồn tại, dài và ngắn cùng tồn tại, cao và
thấp cùng tồn tại , thanh và âm cùng tồn tại, trước và sau cùng tồn tại” ( Chương 2
Đạo Đức Kinh).
“ Bên cạnh cái họa có cái phúc trong l ịng cái phúc đã có cái họa”( chương 58 Đạo
Đức Kinh).

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 12



Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Người đời nói cung chỉ thấy mặt n ày mà không thây mặt kia. Lão tử hơn người ở
chỗ thấy cả hai mặt
2.1.3 Gía trị nhân bản cao

a. Tư tưởng bình đẳng, tự do
Dân tộc Trung Hoa tới đầu đời Chu (thế kỉ thứ XII TCN ) đã văn minh lắm: xã hội
được tổ chức hồn chỉnh trên cơ sở tơn qn quyền, phụ quyền v à nam quyền:
Quyền trị dân thuộc về giai cấp q tộc, h ọ nắm ln quyền tơn giáo (chỉ thi ên tử
mới được tế trời đất, bốn phương, chư hầu chỉ được tế phương mình ở, người dân
chỉ được tế tổ tiên); họ có bổn phận che chở dân, dân phải nuôi họ, tuân lệnh họ.
Trong nước thì như vậy, cịn trong nhà thì người cha nắm quyền, đàn ơng có quyền
hơn đàn bà. Trong xã hội thì kẻ sĩ đứng đầu, rồi tới nơng dân, cơng đứng sau nông,
thương bị coi rẻ hơn cả. Tổ chức đó chặt chẽ, có tơn ti hẳn h ịi, xã hội nông nghiệp
nào hồi đầu cũng như vậy cả.
Nhưng Lão coi vạn vật như nhau, khơng phân biệt q, tiện, như vậy là chủ trương
bình đẳng; ơng lại bảo phải để cho vạn vật tự nhi ên phát triển theo bản tính của
chúng, khơng can thiệp vào, như vậy là chủ trương tự do. Bình đẳng và tự do là
những giá trị ngược với chế độ phong kiến dựng tr ên quân quyền, phụ quyền và nam
quyền.

vua

phải


tự

đặt

mình



dưới,



sau

dân:

“Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngồi


thân

mới

cịn

được”.(

chương

7)


Lão tử khơng nói tới phụ quyền (quyền của cha), nh ưng cứ theo qui vô vi, bất can
thiệp thì nhiệm vụ và quyền của cha cũng giảm thiểu nh ư quyền của vua. Cha chỉ
phải nuôi con, che chở chúng, h ướng dẫn chúng sống theo tự nhi ên, như vậy là “từ
phụ”

(cha

hiền

từ)

rồi.

Ơng cũng khơng nói đến nam quyền (quyền của đ àn ông, của chồng), nhưng rõ ràng
ơng trọng nữ tính hơn nam tính.

Chương 28 ông khuyên ta ph ải:

“Biết trống (nam tính) mà giữ mái (nữ tính) (Tri kì hùng, thủ kì thư).

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 13


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


Vì trọng nữ tính cho nên ơng cho đạo là nữ tính, chứ không như Khổng cho Thượng
đế
Ngay trong chương đầu ông đã bảo đạo là “mẹ của vạn vật” (vạn vật chi mẫu).
Rồi chương 25, chương 52: “mẹ của vạn vật trong thiên hạ” (thiên hạ mẫu).
Chương

20:

“mẹ

ni

mn

lồi”

(từ

mẫu).

Chương 6 ơng dùng “thần hang” để tượng trưng cho đạo: thể của đạo hư vô, nên gọi
là hang, dụng của nó vơ cùng, nên gọi là thần; nó sinh ra vạn vật cho n ên gọi nó là
“mẹ

nhiệm

mầu”

(huyền


tẫn).

Trọng nữ tính tức là trọng nữ, ngược hẳn với Khổng, Mặc, với x ã hội đương thời.
Tôi khơng chắc ơng có ý trở lại chế độ mẫu hệ; nh ưng một xã hội theo quan niệm
ông, một xã hội mà quyền và bổn phận của vua chúa, của gia tr ưởng rất giảm thiểu,
nữ được trọng hơn nam, một xã hội như vậy khơng cịn là xã hội phong kiến, tôn ti
nữa, mà giống xã hội thời sơ khai, khi lồi người cịn sống thành các bộ lạc.

b. Tư tưởng trọng hịa bình
Lão tử chủ trương bất tranh thì tất nhiên phản chiến hơn ai hết. Trong Đạo Đức kinh
có tới sáu bảy chương bàn về vấn đề đó

.

“Người giữ đạo mà phị vua thì khơng dùng binh lực để mạnh hơn thiên hạ. Vì việc
như vậy thường hay quay ngược trở lại [hiếu chiến thì lại chết vì chiến tranh].
( chương 30 Đạo Đức Kinh)

.

Dù có mạnh lên một thời rồi cũng suy, “cường tráng thì rồi sẽ già”, đó là luật phản
phục, luân phiên của các tương phản

.

Tiếp ngay chương sau, Lão tử lại bảo

:

“Binh khí là vật bất tường, ai cũng ghét cho nên người giữ đạo khơng thích d ùng

nó”.
Và ơng khun các vua chúa – nước lớn cũng như nước nhỏ - phải khiêm nhu để
tránh chiến tranh cho thiên hạ

:

“Nước lớn nên ở chỗ thấp, chỗ qui tụ của thi ên hạ, nên giống như giống cái trong

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 14


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

thiên hạ. Giống cái nhờ tĩnh mà thắng giống đực [ham động], lấy tĩnh làm chỗ thấp.
Cho nên nước lớn mà khiêm hạ đối với nước nhỏ thì được nước nhỏ xưng thần;
nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước lớn thì được nước lớn che chở. Như vậy là một
bên khiêm hạ để được [nước nhỏ xưng thần], một bên khiêm hạ mà được [nước lớn
che chở]. Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi n ước nhỏ, nước nhỏ chẳng qua
muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý muốn; nhưng nước lớn phải
khiêm hạ mới được”

.

Thế giới mà dân tộc nào cũng khiêm nhu, bất tranh; cá nhân nào đối với nhau cũng
khiêm nhu bất tranh như vậy thì nhân loại cực kì văn minh rồi


c. Tấm lòng khoan dung
Trong thời kỳ loạn lạc Xuân Thu Chiến Quốc v à trong thời gian Khổng giáo lấy “
chính trực thắng gian ác “ thì Lão Tử lại đề cao lấy “ ân đức đáp trả ác th ù “( dĩ đức
báo ốn – chương 63)
Lịng Từ là vật báu thứ nhất trong ba vật báu m à Lão tử hằng ơm ấp và nắm giữ.
Lịng từ của Lão tử giúp con người hối cải mà trở về, lấy cái lịng của trăm họ làm
lịng của mình, nếu cáo phải tranh đấu thì cũng phải tranh đấu bằng l òng Từ như thế
mới thật thắng, mới giữ vững. L òng Từ quan trọng đến nỗi nếu Trời muốn cứu ai th ì
cũng cứu bằng lịng Từ. Điều quan trọng là Lão Tử chủ trương một lòng Từ với mọi
người không chút phân biệt cả ng ười lành lẫn người dữ, không một ai bị loại bỏ. L ão
Tử hỏi : Với kẻ không lành, tại sao lại bỏ họ?” ( Chương 62 Đạo Đức Kinh)
Không phải đây là một chiến thuật để dụ người : với kẻ chẳng lành, cũng lấy lành
mà ở, để được lành, với kẻ khơng thành tín, cũng lấy tín mà ở để được tín ( chương
49, Đạo Đức Kinh) Lão Tử cho biết lý do : người theo đạo thì xem tất cả mọi người
như con mình và nhất là lấy chính Đạo làm mẫu mực mà Đạo thì khơng những là
chỗ ẩn náu sâu kín cho vạn vật l à của trân châu cho người lành mà còn là nơi nương
tựa dựa cho kẻ khơng lành. Đến nỗi Đạo cịn ban ơn cho mọi kẻ cầu xin và tha thức
cho kẻ có lỗi, cũng vì thế mà đạo là “ vậy quý của thiên hạ”( chương 62 Đạo Đức

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 15


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Kinh) Những ai khơng biết được điều đó chỉ q người lành mà khơng biết u
thương người khơng lành, thì dẫu học có được gọi là bậc trí thì thực ra họ cũng chỉ

là kẻ mê lầm to

d. Nếp sống tự nhiên giản dị
- Chất phác quy chân. Đây là đời sống lý tưởng của Lão Tử và tất cả những ai, là
người tu Đạo chân chính. Bối cảnh dựng l ên lý tưởng này có hai mặt: Về mặt chính
trị, là thái độ ghét bỏ hành động bạo lực và đời sống xa xỉ, tâm tư dối trá của tầng
lớp quyền thế trong xã hội đương thời; về mặt cá nhân đã gọi là "Ẩn quân tử", thì
chất phác quy chân (Đời sống đ ơn giản bình dị, trở về với chân thật, với thiên
nhiên), mới thật là đúng với cảnh sống mà Lão Tử hằng mơ ước.
- Công thành phất cư. Đây là nguyên tắc ở đời mà Lão Tử đem ra dạy đời. Đời bao
giờ cũng khuyến khích người ta, gắng sức làm để được hưởng thành quả tốt đẹp, do
cơng lao của mình tạo nên. Nhưng Lão Tử cho rằng, mọi thành quả đó, rất có thể
đưa lại tai họa cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, tr ường
nhi bất tể, thi vi nguyên đức". (Sống mà không giữ của, làm mà chẳng ỷ công, dù
lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới là cái đức ngun vẹn) và rằng: "Cơng toại
thân thoái, thiên chi đạo". (Khi đã đạt tới thành quả rồi thì rút lui ngay, là đúng với
lẽ trời) và "Vi giả bại chi, chấp giả thất chi". (Kẻ ham l àm sẽ gặp thất bại, kẻ ôm giữ
sẽ bị mất mát). Vê điểm này Phạm Lãi làm được, Văn Chủng làm không được. Cả
hai đều là công thần của Việt Vương Câu Tiễn, lịch sử đã chứng minh ai họa ai
phước.
2.1.4 Chủ nghĩa vô vi : Con ng ười không thể tách khỏi tự nhi ên
Từ quan niệm cốt lõi củ Đạo ( Đạo pháp tự nhiên) Lão tử cho rằng xã hội con người
không thể tách khỏi tự nhiên. Max Kaltenmax, trong phần kết cuốn Lao Tseu bảo
thời đại chúng ta ở Âu Mĩ, nhiều ng ười thích thuyết vơ vi, hư tĩnh của Lão tử, mà
xét cho cùng, thái độ thuận theo tự nhiên, bất can thiệp của Lão không trái tinh thần
khoa học chút nào cả, vì một tinh thần thực khoa học bao giờ cũng tôn trọng luật
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 16



Tiểu luận triết học

thiên

nhiên

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

.

Hơn nữa hai nhà khoa học: Lynton K. Caldwell trong cuốn In Defense of Earth
(1972) và Victor C. Ferkiss trong cu ốn Technological Man (1969), đều khuyên
người phương Tây trở về sống với thiên nhiên

.

Caldwell bảo phải tuân theo luật thi ên nhiên, hễ làm trái với thiên nhiên thì tất gặp
tai hoạ, và chúng ta nên ôn lại thuyết của Lão tử, ca thỏnh Franỗois (tr.285 bn
ting Phỏp: La Terre en danger của nh à Editions Internationales). L ời đó đúng. Vì
khoa học, kĩ thuật tiến bộ quá, l àm mất sự qn bình, mất sự điều hồ trong vũ trụ
đã lần lần thành lập trong mấy tỉ năm, từ khi có trái đất, do đó mà nhân loại ngày
nay phải đối phó với các tai hoạ bộc phát nhân số (hậu quả l à một phần ba nhân loại
đang thiếu ăn và sẽ có hằng trăm triệu người chết đói); hoạ ơ nhiễm mơi sinh , đất
đai, sơng ngịi, khơng khí… bị nhiễm uế vì cùng hơi độc của các nhà máy, các xe
hơi, vì các chất sát trùng, các phân hố học. Chỉ nội hai cái hoạ đó thơi cũng đ ã gây
ra cả ngàn cuộc thảo luận của các nh à khoa học khắp thế giới mà vẫn chưa có cách
nào giải quyết nổi, chúng thành cái nguy cơ trước mắt của nhân loại.
Mất sự điều hoà trong vũ trụ, mà mất cả sự điều hoà trong bản thân ta, trong tâm
hồn ta: ham tiến bộ, ham vật chất q th ì tâm hồn khơng được n tĩnh, đạo đức suy,

tình nghĩa giảm, đời sống cũng khơng hạnh phúc. Nhiều thanh ni ên Âu Mĩ đã chán
cái văn minh tiêu thụ, hùng hục làm từ sáng tới tối để sản xuất cho nhiều, rồi ti êu thụ
cho nhiều lại để sản xuất cho nhiều; họ phản kháng lại x ã hội của họ như bọn hippy,
bọn provo; họ đọc Lão tử, Thoreau, rủ nhau sống nhởn nh ơ trong những vườn hoa,
cánh đồng, gần gũi với thiên nhiên

.

Còn Ferkiss thì đưa ra một triết lí mới, mà ơng gọi là Tân chủ nghĩa thiên nhiên.
Theo chủ nghĩa đó, con người là một phần của thiên nhiên hơn là một cái gì cách
biệt với thiên nhiên. Tồn thể vũ trụ là một diễn trình biến hố, một chuyển động
khơng ngừng và con người là một phần của chuyển động đó. Chủ nghĩa của ông ta
cũng giống như tư tưởng của Đạo gia.

.

Là một phần của thiên nhiên thì khơng thể tách rời thiên nhiên được mà phải sống
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 17


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

theo thiên nhiên, trong thiên nhiên, s ống chất phác, giản dị, cũng nh ư Caldwell đã
khuyên.

SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan


Trang 18


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐẠO GI A
2.2.1 Lý luận về đạo mang ý nghĩa duy tâm , siêu hình
Ý kiến cho rằng Đạo của Lão Tử là duy tâm là do những câu như “ Đạo sinh ra Một
, Một sinh ra Hai, Hai sinh ra Ba, Ba sinh ra vạn vật. ”
Một có thể hiểu là ngun khí tức là chỉ vật chất ban đầu. Như vậy Đạo có trước vật
chất. Đạo của Lão tử là duy tâm từ đầu đến cuối.
Đạo của Lão tử ngoài ý nghĩa bản thể luận cịn bao hàm nội dung quy luật nữa.
Đạo ln vận hành, không bao giờ ngưng nghỉ, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì.
Đạo vận hành theo quy luật. Quy luật đó khơng phải cái g ì khác mà chính lã lẽ tự
nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn mực rồi, con người chỉ cần noi theo lẽ tự nhi ên
là đủ khơng cần phải làm gì khác ngồi tự nhiên nữa.. Đạo của Lão Tử là cái gì bất
biến cho nên đạo của Lão tử không những duy tâm mà cịn siêu hình. Bởi vì Lão tử
hâu như chỉ nói đến vận hành chứ khơng nói đến phát triển. Khơng chỉ ri êng Lão tử
mà có lẽ trong tồn bộ từ điển của Đạo gia cũng khơng hề có khái niệm “ phát triển”
cũng tư tiến bộ . Lão tử nói “ Trở lại là vận động của Đạo, Mềm k à biểu hiện của
Đạo”( chương 40 Đạo Đức Kinh ) hay “ Sự vật muôn màu đều trở về nguồn gốc của
nó” ( chương 16 Đạo Đức Kinh) Vậy nên đối vời xã hội loài người cũng vậy. Xã hội
con người không phải phát triển đi đâu xa cả m à chính là ln nhớ trở về cái
nguyên sơ của nó, trở về : nước nhỏ dân ít, với thời kỳ mông muội chẳn g cần văn
minh , văn hóa nào cả. “ Người dân chỉ cần thắt nút dây cũng đủ để sử dụng rồi”(
chương 80 Đạo Đức Kinh )
2.2.2 Tuyệt đối hóa chủ nghĩa vơ vi

Vơ khơng có nghĩa là hồn tồn khơng có gì, trái h ẳn với hữu. Vô là vô sắc, vô
thanh, vơ hình đối với cảm quan của ta, như đạo. Vơ có tính cách huyền diệu, huyền
bí, nó sinh ra hữu, rồi hữu trở về vô, thành thử vô, hữu không tương phản mà tương
thành. Lão tử sống ở thời loạn, thấy ng ười ta càng cứu loạn thì càng loạn thêm, cho
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 19


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

nên ông chủ trương đừng hữu vi, đừng làm trái thiên nhiên, tức phải vơ vi, do đó
ơng trọng “vơ.” Tư tưởng của ông đối lập lại t ư tưởng hữu vi của Khổng Tử. Hữu vi
là phát huy tính năng động chủ quan cố sức thi thố đạo đức nhân nghĩa ban h ành
pháp lệnh chính sách, bày vẽ lễ nghi giáo huấn. Tuy nhiên tất cả những thứ đó theo
Lão tử càng làm càng khiến cho xã hội ngày một xấu mà thôi.
Theo ông con người sống theo lẽ tự nhiên, không hành động trái bản chất tự nhiên,
không làm trái quy luật tự nhiên. Vua phải ít can thiệp vào chuyện của dân , phải
thực hiện khiêm nhu bất tranh. Ông bài xích cả khoa học tiến bộ, chủ tr ương con
người trở về với cuộc sống thuần phát hoang s ơ. Do hạn chế bở thời đại ông không
chứng minh được cái lý tận cùng cuộc sống là cạnh tranh, là phát triển. Vì ngay cả
cây cỏ mng thú cũng có cạnh tranh để tồn tại : cây cỏ cạnh tranh v ươn ra chỗ ánh
sáng, có nguồn nước, mng thú giành nahu mơi trước có thức ăn. Từ vơ thức đến
hữu thức. Vì vậy bất tranh khơng phải l à quy luật tồn tại phát triển mà là quy luật
triệt tiêu
2.2.3 Phản kinh nghiệm, phản ta thức.
Lão Tử viết: "Tuyệt học vơ tư . (Có bỏ học mới hết ưu phiền); "Vi học nhật ích, vi
Đạo nhật tổn". (Càng có học cho lắm, càng có hại cho việc tu Đạo); "Tri giả bất

ngôn, ngôn giả bất tri". (Người có học vấn chẳng bao gi ờ nói, kẻ hay nói mới là
người khơng hiểu biết), Sở dĩ phải phản kinh nghiệm, phản trí thức, theo L ão Tử có
hai lý do: Một là kinh nghiệm và trí thức khiến cho người ta hay lo âu, cho nên bảo
"Tuyệt học vơ tư ; hai là, kinh nghiệm và trí thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ
hiểu biết nhiều chừng nào, thì càng thúc đẩy lịng ham muốn, đòi hỏi của người ta,
đồng thời cũng dễ làm cho người ta nảy sinh cảm giác bất m ãn với hiện tại, cho nên
đã báo "Học nhiên hậu tri bất túc” (Câu này có nghĩa là: Học mà biết cho nhiều, rồi
mới thấy đời người hãy còn thiếu lắm thứ quá. Lâu nay ng ười ta thường hiểu ìâm là:
Càng học càng thấy sự hiểu biết của mình hãy cịn non kém). Bởi Lão Tử nhận định
ràng, việc tu Đạo cần phải tĩnh mịch, đạm bạc, đẹp hết l òng ham muốn đi mới được.
Nghĩa là Đạo của Lão Tử chẳng có liên hệ gì tới trí thức và kinh nghiệm cả, mà là
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 20


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

thứ công phu thủ tĩnh, quả dục, đặng có thể đạt tới cảnh giới thanh tịnh, vô vi. Trở
lại câu "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". Cần phải hiểu ý nghĩa chữ "Tri" n ày là
thứ tri trực giác, chẳng học m à tự mình ngộ ra chân lý của trời đất. Sở dĩ sau hai
triều nhà Hán, Nho, Đạo và Thích, tam giáo có thể kết hợp nhau được, là thông nhau
ở chỗ thanh tĩnh quả dục.
Nhưng rõ ràng trong cuộc sống nếu khơng có học thức th ì sẽ khơng có tri thức và
khơng thể cống hiến cho cuộc đời một cách đúng đắn. X ã hội phát triển cần phải có
những

con


người

hiểu

biết

đóng

góp

sức

mình.

2.2.4 Rơi vào chủ nghĩa tương đối
Lão Tử hơn người ở chỗ thấy được hai mặt đối lập trong một thể thống nhất. Nhưng
ơng đã tuyệt đối hóa mặt thống nhất xem nhẹ mặt đối lập n ên cuối cùng ông cũng
không rơi vào chủ nghĩa tương đối.
Lão tử thường thây hai mặt trong một sự việc nh ưng ông thường nhấn mạnh cái kia
trong khi người đời thường chỉ chú ý mặt này. Đối với Có và Khơng Lão Tử trọng
cái Khơng hơn là Có

:

Chương 11 ơng viết

:

“Ba mươi tay hoa cùng qui vào m ột cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống khơng

trong cái bầu mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nh ờ
khoảng trống ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa và cửa sổ để làm nhà,
chính nhờ cái trống khơng đó mà nhà mới dùng được.Vậy ta tưởng cái “có” [bầu,
chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới l àm cho cái “có” hữu dụng”.
Vương

An

Thạch

đời

Tống

đã

phản

đối

ơng,

đại

ý

bảo:

“Cơng dụng của cái bánh xe tuy ở chỗ trống giữa ba m ươi sáu cái rẻ quạt châu lại,
nhưng ở ngồi phải có vành trịn thì mới có chỗ trống ấy. Cơng dụng của các đồ đạt

tuy ở chỗ trống của nhiều thứ đó, nhưng phải có cái vỏ chung quanh th ì đồ đạc mới
có chỗ trống. Cơng dụng của cái nh à tuy ở chỗ trống trong nhà nhưng phải có tường,
vách, nền, mái thì cái nhà mới có chỗ trống. Như vậy thì những cơng dụng của các
vật kia phải ở cái có, khơng ở cái khơng”
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 21


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

2.2.5 Thái độ vị ngã : thái độ tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc
Thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN). Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ
chiếm hữu nơ lệ sang chế độ phong kiến, c ịn gọi là thời Đơng Chu, do Chu Bình
Vương dời đơ về phía Đơng (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay.Đây là lúc Trung Qu ốc
bước vào giai đoạn xã hội biến thiên trọng đại. Khi một con người cảm thấy khó
thích ứng với cuộc diện thay đổi trọng đại đó, họ sẽ phản ứng ra sao? Ph ương thức
của nhà Nho, đứng đầu là Khổng Tử, gồm cả Mạnh Tử sau này, thì một mặt mong
muốn trở lại với quy phạm hành vi ngun thủy, như duy trì quy tắc lơn pháp dưới
chế độ phong kiến nhà Chu; đồng thời mặt khác,sáng tạo nấc thang giá trị mới.
Mong được xã hội cơng nhận, như cổ súy, đề cao đức tính Nhân Ái luân lý Trung
Hiếu. Còn phương thức của Đạo gia, đứng đầu l à Lão Tử, gồm cả Trang Tử sau n ày,
thì bài bác, chống phá trật tự xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt
mình ra ngồi vịng xã hội đó, bằng hành vi tiêu cực, như đi ẩn náu, mai danh lánh
nạn chẳng hạn. Có thể nói rằng đây là phản ứng tiêu cực trước sự bế tắc của thời
cuộc bây giờ . Lão Tử cũng như Trang Tử không đưa ra một giải pháp để giải phóng
hay phát triển xã hội đương thời mà chấp nhận sự việc. Trong Tề vật Luận Trang
Tử nêu nhiều ví dụ như người ta ngũ dưới đất ẩm thị bị bệnh, ng ược lại con trùn thì

khơng. Mao Tường, Lệ Cơ là những cơ gái đẹp tuyệt trần đới x ưa thế nhưng chim
chóc hưu nai trơng thấy đều sợ chay. Vậy ở đời khơng có ti êu chuẩn khách quan nào
cả cho nên đúng hay sai lấy gì mà phân biệt. Đã khơng biết được thì làm gì có tiêu
chuẩn để xác định cái biết đúng hay sai. H ơn nữa theo Trang tử đời người có hạn
cịn cái biết thì vơ hạn cho nên con người làm sao có thể chạy theo cái cần biết đ ược.
Từ chỗ cho rằng Đạo không t hể biết đến chủ nghĩa tương đối đến chủ nghĩa vô vĩ là
logic tất yếu của Trang Tử cũng nh ư Khổng Tử.Nói chung Đạo gia khơng hề đề cao
nỗ lực chủ quan của con ng ười .
Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn . Mâu thuẫn
là tai họa của xã hội. Ông viết khi đạo lớn bị phá bỏ th ì xuất hiện nhân nghĩa khi trí
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Lan

Trang 22


×