Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

đấu tranh giai cấp và vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghãi xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.03 KB, 32 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. Tư bản chủ nghĩa: TBCN
2. Xã hội chủ nghĩa: XHCN
3. Chủ nghĩa xã hội: CNXH
4. Kinh tế - xã hội: KT-XH.
5. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH, HĐH

1


MỞ ĐẦU
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội dung
cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhờ thống nhất được tính cách mạng và
khoa học, lý luận mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã vượt qua các trào
lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đây để trở thành kim chỉ nam cho phong
trào cách mạng của giai cấp vơ sản. Lý luận đó đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
phong trào cách mạng từ thế kỷ XIX đến nay, tạo ra những biến động to lớn
trong đời sống chính trị – xã hội trên tồn thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường
như sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, sự đổi mới
của các nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển đổi của các
nước xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường song hành với sự tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, làm cho nhiều người lầm tưởng
rằng, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp khơng cịn phù hợp nữa. Thời gian
vừa qua đã xuất hiện những quan điểm lệch lạc, sai trái và cả những quan điểm
của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng: “trong
điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự
chia rẽ, phân hoá nội bộ… làm phá vỡ khối đại đồn kết dân tộc” hay: “hiện
nay, nói đến đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là đi ngược lại xu thế của thời đại,
là lạc hậu, không thức thời, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện
nay”. Thực tế cuộc sống đã chứng minh rằng, nếu hiểu rõ thực chất của lý luận


giai cấp và đấu tranh giai cấp sẽ tránh được những sai lầm tả khuynh hoặc hữu
khuynh, sẽ nhận thức đúng đắn được vai trò thực sự của các giai cấp trong xã
hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.Vậy nên, việc nâng cao nhận thức khoa
học về đấu tranh giai cấp sẽ góp phần đấu tranh phòng chống những quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của
Đảng trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa thiết thực. Với
ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài với tựa đề “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
2


về giai cấp và vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay” để làm Tiểu
luận cuối khóa mơn Triết học. Rất mong nhận được sự góp ý và chia sẻ của quý
thầy cô về nội dung nghiên cứu để bản thân tác giả có những nhận thức sâu sắc
và đầy đủ hơn về vấn đề trên, xin chân trọng cảm ơn!

3


NỘI DUNG
Chương 1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1.1. Vấn đề nguồn gốc giai cấp
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại C.Mác, Ph.Ăng-ghen và
V.I.Lênin đã đưa lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp lên một tầm cao mới.
Trong thư gửi Iơxíp Vâyđơmaye ngày 05 - 03 - 1852, C.Mác đã viết: “Về phần
tơi, thì tơi khơng có cơng lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các giai cấp trong
xã hội hiện đại, cũng khơng có cơng lao là đã phát hiện ra cuộc đấu tranh giữa
các giới và sự đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà sử học tư sản
trước tơi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử cuộc đấu tranh giai cấp đó,
cịn các nhà kinh tế tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh tế của các giai cấp.

Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1) Sự tồn tại của các giai cấp chỉ
gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. 2) Đấu tranh
giai cấp tất yếu dẫn tới chun chính vơ sản. 3) Bản thân nền chuyên chính này
chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội khơng có giai
cấp”1.
Lý luận mácxít đã khắc phục được những quan điểm duy tâm về giai cấp
trước kia, đưa ra sự luận giải khoa học về những vấn đề cơ bản như nguồn gốc
giai cấp, tiêu chí để phân biệt giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Xuất phát từ những con người cá nhân hiện thực và đứng trên lập trường
duy vật về lịch sử, C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã tìm ra quy luật phát sinh và phát
triển của xã hội có giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp. Nếu các nhà tư tưởng
trước Mác cho rằng: nguồn gốc của xã hội có giai cấp, của chế độ tư hữu là do
tư tưởng tư hữu của con người, thì ngược lại C.Mác chỉ rõ, chính những tiền đề
vật chất do xã hội tạo ra đã làm nảy sinh ra tư tưởng tư hữu. Bởi vì, như các nhà
kinh điển mác xít đã khẳng định: Do sự phát triển của sản xuất đã đưa đến sự
phân công lao động trong xã hội và sự phân công lao động xã hội lại thúc đẩy sự
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, đó là nguồn gốc cơ
1

C.Mac và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 28, tr 661 – 662.
4


bản để sinh ra chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội. Thực tiễn lịch
sử phát triển và tiến hoá của nhân loại đã chỉ ra rằng, nguyên nhân vật chất,
nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân cơ bản, sâu xa sản sinh ra giai cấp và xã hội
có giai cấp. Sự tồn tại, phát triển và diệt vong của giai cấp và xã hội có giai cấp
là do nguyên nhân kinh tế – vật chất quyết định – suy cho đến cùng. Như vậy, tư
tưởng biện chứng duy vật về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác –
Lênin hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm, tôn giáo đã tồn tại rất lâu trong

lịch sử. Tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh
giai cấp, về sự ra đời, tồn tại và diệt vong của nó đã góp phần vào cuộc đấu
tranh, khắc phục tư tưởng ảo tưởng, chủ quan về vấn đề hồ hợp giai cấp, xố
nhồ đấu tranh giai cấp trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế,
hoặc muốn đi tìm lời giải, một động lực ở ý thức tư tưởng để thúc đẩy sự phát
triển giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay.
Trong vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa Mác – Lênin đã có
sự đánh giá rất khách quan, khoa học đối với sự ra đời của xã hội có đối kháng
giai cấp, các ơng đã khẳng định sự ra đời của xã hội có giai cấp thay thế xã hội
cộng sản nguyên thuỷ là một bước tiến hoá, phát triển của lịch sử nhân loại,
Ph.Ăng-ghen viết: “từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xã hội xuất hiện thì
chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm muốn
quyền lực đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển của lịch sử”. Trong xã hội có
giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trị nhất định trong lịch sử, kể cả giai cấp
thống trị bóc lột. Sự tồn tại của các giai cấp đối kháng đều do sự quy định của
điều kiện kinh tế, quan hệ kinh tế. Theo đó, sự ra đời, tồn tại, phát triển của giai
cấp tư sản cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử và cũng đã từng đóng vai
trị hết sức cách mạng trong lịch sử, bởi chính giai cấp tư sản đã làm cách mạng
xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời lạc hậu để mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển, hình thành những thị trường và quốc gia rộng lớn, mở ra sự
hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Từ các quan điểm mác xít về sự hình thành giai cấp theo lập trường duy vật
về lịch sử, đã cho chúng ta thấy rõ những vấn đề cơ bản sau:
5


Một là, sự xuất hiện xã hội có giai cấp là một tất yếu khách quan, trước hết là
tất yếu về kinh tế, chính “cái có thể chiếm hữu” đã sinh ra tư tưởng chiếm hữu.
Hai là, xã hội có giai cấp là một giai đoạn tất yếu của lịch sử phát triển của
nhân loại, nó chính là nhân tố để thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao.

Ba là, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trị nhất định,
trước hết là vai trị trong phát triển kinh tế, đây cũng chính là lý do tồn tại của
mỗi giai cấp và quy định địa vị chính trị – xã hội của nó.
Như vậy, sự nảy sinh, tồn tại, phát triển của các giai cấp là một tất yếu lịch
sử, nó được nảy sinh từ sự phát triển của lịch sử xã hội và vì sự phát triển của xã
hội. Tất nhiên vai trị của mỗi giai cấp đều có giới hạn lịch sử của nó, khi giai cấp
đã lỗi thời, cản trở sự phát triển của xã hội, thì tất yếu nó sẽ bị lịch sử gạt bỏ thông
qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Đó là cách nhìn nhận vấn đề giai cấp
một cách khách quan, khoa học khơng có sự thù hận giai cấp.
1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội
Để phân biệt giai cấp này với giai cấp khác trong xã hội phải có một hệ
thống tiêu chí khách quan, khoa học. Dựa trên quan điểm duy vật về lịch sử chủ
nghĩa Mác – Lênin đã đưa những tiêu chí cơ bản về giai cấp, đây là cơ sở khoa
học để chúng ta xem xét và phân biệt các giai cấp trong xã hội.
Từ sự kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế – chính trị học tư sản trước đó,
C.Mác đã cho rằng, trong xã hội tư sản tồn tại “những người chỉ sở hữu có sức
lao động, những kẻ sở hữu tư bản và những kẻ sở hữu ruộng đất, mà nguồn thu
nhập tương ứng là tiền công, lợi nhuận và địa tô, tức là công nhân làm thuê,
nhà tư bản và địa chủ, đó là ba giai cấp lớn của xã hội hiện đại dựa trên
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”2. Theo đó, tiêu chí của giai cấp trước
hết phải gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, gắn liền
với phương thức sản xuất. Khơng có tiêu chí chung cho mọi giai cấp trong mọi
thời đại lịch sử, các tiêu chí đó ln vận động biến đổi khơng ngừng theo thực
tiễn của sản xuất và đời sống xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, thì tiêu chí
cơ bản quan trọng hàng đầu để phân biệt giai cấp này với giai cấp khác, đó là
2

C.Mac và Ph.Ăng-ghen. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 25, tr 643.
6



vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vai trò tổ chức, quản lý sản xuất và gắn liền với
nó là sự thu nhập từ các quyền sở hữu đó.
Chính sự sở hữu tư liệu sản xuất trong những lĩnh vực khác nhau sẽ hình
thành nên những giai tầng khác nhau trong xã hội: người sở hữu tư liệu sản xuất
trong cơng nghiệp hình thành nên giai cấp tư sản, những kẻ sở hữu ruộng đất là
giai cấp địa chủ, còn những người chỉ sở hữu sức lao động của mình và bán sức
lao động cho nhà tư bản cơng nghiệp là giai cấp công nhân. Đồng thời, những ai
là chủ tư liệu sản xuất sẽ đóng vai trị tổ chức, quản lý, điều hành q trình sản
xuất, cịn những người khơng có tư liệu sản xuất thì phải chịu sự tổ chức, quản
lý, điều hành của kẻ có tư liệu sản xuất. Theo đó, sự hưởng thụ các sản phẩm
trong xã hội cũng có sự khác nhau, nguồn thu nhập của người làm thuê là tiền
công, là một phần rất nhỏ trong tổng số giá trị lao động mà chính họ tạo ra, cịn
nguồn thu nhập của chủ tư bản là lợi nhuận. Đó là sự phân phối bất bình đẳng, là
sự bóc lột của giai cấp tư bản, địa chủ đối với giai cấp công nhân, người làm
thuê.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về tiêu chí giai cấp đã được
V.I.Lênin kế thừa, phát triển, xây dựng và hồn thiện thành tiêu chí giai cấp nói
chung và tiêu chí cụ thể cho từng giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”
V.I.Lênin viết: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần
của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn người này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ
các tập đồn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”3. Như
vậy, theo V.I.Lênin, để đánh giá đúng đắn, khách quan về một giai cấp cần phải dựa
trên những tiêu chí khoa học.


3

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 39, tr 17 – 18.
7


Thứ nhất, giai cấp trước hết phải là tập đoàn người to lớn, đông đảo trong
xã hội, gắn liền với một hệ thống sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy với một
vài cá nhân đơn lẻ không thể là giai cấp, mặc dù họ có thể nắm giữ những vị trí,
vai trị quan trọng có ảnh hưởng to lớn trong đời sống tinh thần xã hội. Cũng
không phải mọi tập đồn đơng đảo, to lớn trong xã hội sẽ là giai cấp, giai cấp
không phải là sự cộng lại đơn thuần, là tổng số của các cá nhân, mà đó phải là sự
gắn bó, hợp lại với nhau trên cơ sở có chung một địa vị trong hệ thống sản xuất
nhất định của xã hội. Mặt khác, không phải mọi hệ thống sản xuất đều sinh ra
giai cấp, mà chỉ hệ thống sản xuất nào tạo ra tiền đề để những tập đồn này có
quan hệ và địa vị khác nhau trong quá trình sản xuất mới tạo ra giai cấp khác
nhau, chỉ có những xã hội dựa trên những quan hệ sản xuất nhất định nào đó
mới tạo ra giai cấp.
Thứ hai, sự khác nhau giữa các giai cấp được thể hiện trên những phương
diện cơ bản sau:
- Quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất (thường thì được pháp luật quy
định và thừa nhận). Vai trị đó được thể hiện ở các quyền cơ bản: quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu… Nền kinh tế càng phát triển thì các quyền này càng được mở
rộng, biến đổi và hình thành các quyền mới, đáp ứng sự phát triển của thực tiễn
sản xuất.
- Vai trò tổ chức và phân công lao động trong quản lý, tổ chức sản xuất.
Tập đoàn người nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì nắm quyền điều
hành, tổ chức, quản lý sản xuất. Ở đây cần phân biệt rõ ràng giữa việc tổ chức,
quản lý sản xuất với quyền quyết định tổ chức, quản lý sản xuất, bởi trước yêu
cầu phát triển sản xuất hiện nay mà việc tổ chức quản lý ngày càng địi hỏi cao,

phức tạp, có nhiều người cùng tham gia quản lý trong đó có cả người khơng nắm
tư liệu sản xuất, song vai trị quyết định quá trình sản xuất, quản lý sản xuất phải
là người nắm phần lớn tư liệu sản xuất.
- Phương thức, quy mơ thu nhập. Tập đồn nào nắm quyền sở hữu tư liệu
sản xuất thì nắm quyền về tổ chức phân phối sản phẩm. Sự phân phối sản phẩm
xã hội phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tiến hành theo những phương thức khác
8


nhau. Trong xã hội hiện đại, sự phân phối sản phẩm xã hội được phân phối cho
các cá nhân sau khi đã khấu trừ các phần cơ bản: phần để mở rộng sản xuất; lập
quỹ dự trữ; bảo hiểm để phòng ngừa tai nạn rủi ro; phần khấu trừ chi phí quản lý
chung, khơng trực tiếp sản xuất; phần để đáp ứng những yêu cầu về giáo dục, y
tế, văn hố cho tồn xã hội; phần lập quỹ ni những người khơng có khả năng
lao động.
Các đặc trưng phân biệt giai cấp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là
nguyên nhân và là kết quả của nhau, là tiền đề, điều kiện của nhau trong quá trình
vận động và phát triển. Trong đó, đặc trưng chủ yếu quan trọng nhất để phân biệt
các giai cấp là đặc trưng về mối quan hệ giữa các tập đoàn người đối với tư liệu sản
xuất, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì có quyền quyết định q
trình tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội.
Như vậy, định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin là cơ sở phương pháp luận để
phân biệt các giai cấp khác nhau trong những giai đoạn lịch sử xác định. Theo
đó, giai cấp là một phạm trù xã hội, gắn liền với sản xuất vật chất, đặc biệt là với
quan hệ sản xuất, do đó các tiêu chí do V.I.Lênin đưa ra chủ yếu là những tiêu
chí về kinh tế và vật chất. Nhưng chúng ta cũng cần thấy rằng, sự khác biệt về
vật chất giữa các giai cấp sẽ dẫn tới sự khác biệt về chính trị, tinh thần. Thừa
nhận sự khác biệt giữa các giai cấp về kinh tế thì khơng thể khơng thừa nhận sự
khác biệt về chính trị, tinh thần, bởi trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống
trị về lực lượng vật chất thì sẽ thống trị về mặt tinh thần, chính trị trong xã hội.

Nói cách khác, tư tưởng thống trị đó chính là biểu hiện tinh thần của những quan
hệ vật chất dưới hình thức tư tưởng. Với cách xem xét trên sẽ làm cho lý luận
giai cấp có tính khoa học và có tính thực tiễn cao.
Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin còn thể hiện thực chất của quan hệ giai
cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là sự chiếm đoạt sức lao động của giai
cấp thống trị, nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất đối với những người có ít hoặc
khơng có tư liệu sản xuất.
Ở Việt Nam hiện nay, có ý kiến cho rằng, cần phải thay đổi quan niệm về
bóc lột và phải coi lợi nhuận là một sự phân phối tất yếu trong nền kinh tế hàng
9


hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Theo họ, nếu khơng có sự
thay đổi quan niệm về bóc lột sẽ gây ra tâm lý nặng nề trong xã hội, khơng tạo
ra được sự cổ vũ, khích lệ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển
tiềm năng của mình.
Chúng ta cần thấy rằng: Nếu thừa nhận lịch sử xã hội có giai cấp là lịch sử
các cuộc đấu tranh giai cấp và là một trong những động lực thúc đẩy xã hội có
giai cấp phát triển, thì phải thừa nhận một trong những nguyên nhân cơ bản của
đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nếu phủ nhận thực
chất quan hệ giai cấp là quan hệ bóc lột và bị bóc lột thì sẽ phủ nhận vấn đề cần
phải xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, phủ
nhận lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Thực tiễn lịch
sử và thực tiễn trong thế giới hiện đại đã chứng minh rằng, hiện nay con người
vẫn chưa thể xố bỏ được áp bức, bóc lột, quan hệ các giai cấp trong xã hội đó
chính là bóc lột và bị bóc lột. Song, vấn đề là ở chỗ nhận thức về sự tồn tại của
sự bóc lột ấy như thế nào, để từ đó tìm hướng giải quyết nó trong từng điều kiện
lịch sử cụ thể.
Ở nước ta hiện nay, đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh
tế – xã hội đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong xã

hội tất yếu vẫn cịn tồn tại tình trạng bóc lột và bị bóc lột, nhưng đó khơng phải
là bản chất xã hội, bởi, toàn Đảng, toàn quân, tồn dân ta đang nỗ lực phấn đấu
để xố bỏ bóc lột, xây dựng xã hội theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh”. Nếu chỉ nhìn vào bốn chữ “chủ nghĩa xã
hội” mà né tránh vấn đề bóc lột, cho rằng Việt Nam khơng cịn bóc lột nữa là
siêu hình, mơ hồ, xa rời thực tiễn và lý luận cách mạng. Chúng ta phải thẳng
thắn đối diện với nó thì mới tìm ra được con đường, biện pháp để xố bỏ nó.
Hơn nữa, sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh ở Việt Nam
đang có vị trí quan trọng trong phát huy nội lực đất nước, tạo ra động lực thúc
đẩy mạnh mẽ sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước. Vì vậy, nếu né
tránh, phủ nhận vấn đề bóc lột là biểu hiện của sự vi phạm quy luật khách quan
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
10


1.3. Quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp
V.I.Lênin đã dạy rằng: “Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để tìm
ra những quy luật trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngồi ấy, đó là: quy
luật đấu tranh giai cấp”. Thực tế, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp được
C.Mác và Ph.Ăng-ghen kế thừa từ những tư tưởng của các triết gia trước đó và
trên cơ sở thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân cuối thế kỷ XIX để xây
dựng nên lý luận đó, sau này, những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen phát
triển lên một trình độ hồn thiện và khoa học hơn. Đây là một học thuyết vừa
mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học, phản ánh xu thế vận động, phát
triển tất yếu khách quan của lịch sử, lý luận ấy đã soi sáng con đường cách mạng
tiến tới giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại và con người.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh
giai cấp là tất yếu khách quan, lịch sử loài người cũng đã chứng minh rằng: lịch
sử tất cả các xã hội có giai cấp tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp giữa những “Người tự do và người nơ lệ, q tộc và bình dân, chúa đất

và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và
người bị áp bức luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh
không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng
kết thúc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai
giai cấp đấu tranh với nhau”4.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn giai cấp, song theo
V.I.Lênin, nguyên nhân trước hết là do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. V.I.Lênin
cho rằng: đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống
lại một bộ phận khác, là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị
áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”5. Như vậy, thực chất của
cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp có lợi ích cơ bản
đối lập nhau khơng thể điều hồ được.
4
5

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 596 – 597.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 7, tr 237 – 238.
11


Theo quan điểm mácxít, lợi ích giai cấp là những giá trị khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp, đảm bảo cho giai cấp đó tồn tại và phát
triển. Lợi ích giai cấp khơng phải do ý thức giai cấp sinh ra và quy định, mà nó do
địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp đó tạo nên, do đó, muốn chỉ ra lợi ích giai cấp và
sự đối kháng lợi ích giai cấp phải phân tích tình hình, điều kiện phát triển cụ thể của
từng giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp khi có sự đối kháng gay gắt sẽ dẫn tới đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội, khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy tồn bộ xã hội có giai cấp phát triển. Chính vì vậy, đấu tranh giai

cấp trở thành một trong những động lực cơ bản, quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong đời sống xã hội, nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn
trong quá trình sản xuất vật chất, mà trước hết và trực tiếp là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do tính cách mạng, ln vận động biến đổi
của lực lượng sản xuất, do đó, quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất luôn vận động từ chỗ phù hợp tới không phù hợp và mâu thuẫn. Khi quan
hệ sản xuất khơng phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì
phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Song, để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, giai cấp
thống trị ln tìm mọi cách bảo vệ quan hệ sản xuất hiện có, cản trở, kìm hãm sự
phát triển của quan hệ sản xuất mới. Do đó, muốn mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách
mạng xã hội. Trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tiên tiến với giai cấp
thống trị đã phản động, lỗi thời luôn diễn ra gay go quyết liệt, song giai cấp mới
tiên tiến sẽ tất yếu giành thắng lợi, bởi cuộc đấu tranh của họ ngày càng được
quần chúng ủng hộ, vì cuộc đấu tranh của giai cấp mới phù hợp với xu thế phát
triển của xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp là phương thức cơ bản để giải quyết
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, để cho phương thức sản
xuất mới trở thành phương thức sản xuất thống trị trong xã hội, cùng với đó, một
chế độ chính trị mới, văn hố mới ra đời. Nói cách khác, thông qua đấu tranh
giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội sẽ dẫn tới sự ra đời của một
12


hình thái kinh tế – xã hội mới, cao hơn. Tồn bộ q trình phát triển của lịch sử
xã hội lồi người đã chứng minh cho tính khoa học đúng đắn của chủ nghĩa Mác
về vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội, nhưng đó khơng phải là động lực duy nhất, mà đó chỉ là động

lực cơ bản, ngồi ra trong xã hội cịn có rất nhiều động lực khác. Bởi vì, trong
đời sống xã hội, con người có vơ vàn các hoạt động khác nhau với những nhu
cầu, mục đích, động cơ khác nhau, trong đó những nhu cầu sống, nhu cầu về vật
chất, tinh thần, nhu cầu chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ… cũng là những động lực
quan trọng, trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động và tạo ra sự phát triển của xã
hội. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
còn hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ mọi nhu cầu vật chất của con người, chính
vì vậy, đấu tranh để địi lợi ích kinh tế, đảm bảo điều kiện sống cho con người trở
thành những cuộc đấu tranh có quy mơ lớn, quyết liệt nhất để dẫn tới những sự
chuyển biến lớn lao trong xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp theo quan điểm mác
xít, vấn đề cơ bản của nó khơng phải là vấn đề chính trị thuần tuý, đạo đức thuần
tuý, mà thực chất và cơ bản là vấn đề kinh tế.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh
giai cấp không chỉ cho ta thấy nguồn gốc của cách mạng, của sự phát triển xã
hội, mà nó cịn là cơ sở lý luận quan trọng cho cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản trong thời đại hiện nay.

1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vơ sản mang tính triệt để.

13


Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo đó, nguyên nhân sâu xa của việc
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hố
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã sớm thực hiện cuộc cách
mạng trong lĩnh vực công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất

xã hội hố và ngay từ đầu nó đã mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng cao, càng
gay gắt. Đó chính là nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng kinh tế – xã
hội trong chủ nghĩa tư bản, chính vì vậy, giai cấp tư sản ln tìm mọi cách để
điều chỉnh quan hệ sản xuất dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, nhưng
sự điều chỉnh ấy lại dẫn tới hệ quả đó là, sự tập trung tư bản càng lớn, do đó,
mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Những tiền đề mà chủ nghĩa tư bản
tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển đã dẫn tới sự đấu tranh giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản với mục tiêu là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản
về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Mục tiêu đó là
địi hỏi tất yếu khách quan của lịch sử và nó được xuất phát từ nhu cầu giải
phóng lực lượng sản xuất, giải phóng con người tiến tới một xã hội khơng có
giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử, bởi vì, sau cuộc
đấu tranh ấy, chế độ công hữu về cơ bản là phải chiếm ưu thế, giữ vai trị thống
trị trong xã hội. Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản là triệt để nhất, nó đã xố bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nguyên nhân
của mọi mâu thuẫn trong xã hội.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản dựa trên chiến lược liên
minh công nông rộng lớn.
Mọi cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới liên minh giai cấp, đó là một
vấn đề có tính quy luật để tập hợp và phát huy sức mạnh, để giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh đó.

14


Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp vô sản lãnh đạo và thực hiện nó khác
hẳn với các cuộc cách mạng trước kia trong quan niệm và thực hiện vấn đề liên
minh giai cấp với giai cấp nông dân. Nếu như trước đó, sự liên minh giữa các
giai cấp tiến hành cách mạng với giai cấp nông dân chỉ mang tính chất tạm thời,

thì nay trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản liên minh giữa công nhân với
nông dân là sự liên minh chiến lược và rộng lớn. Sự liên minh ấy được xuất phát
trước hết từ bản chất, mục tiêu của cuộc cách mạng mà giai cấp cơng nhân thực
hiện.
Theo quan điểm mácxít, tất cả những phong trào cách mạng trước đó
trong lịch sử đều là do thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho thiểu số, cịn
phong trào cách mạng vơ sản là phong trào của đa số, mưu cầu lợi ích cho đa số.
Sự liên minh của giai cấp vô sản với nông dân và các tầng lớp lao động bị áp
bức xuất phát từ sự thống nhất về lợi ích cơ bản và lâu dài giữa giai cấp vô sản
với các giai cấp, tầng lớp bị áp bức trong xã hội. Trong tác phẩm “Đấu tranh
giai cấp ở Pháp”, C.Mác đã chỉ ra rằng, chừng nào mà tình trạng của các tầng
lớp trung đẳng trong xã hội tư sản, tức là tầng lớp tiểu tư sản và nơng dân cịn
nặng nề và sự đối lập của họ với giai cấp tư sản càng trở nên gay gắt, họ sẽ càng
phải liên minh với giai cấp vô sản và “Họ tất nhiên phải thừa nhận rằng,
nguyên nhân của sự nghèo khổ của họ là do sự thất bại của giai cấp vô sản” 6.
Trong đó, giai cấp nơng dân là đối tượng cơ bản đầu tiên mà giai cấp vô sản cần
liên kết, bởi vì, ở đâu giai cấp nơng dân cũng bị bóc lột tàn nhẫn, bị xem như là
một đồ vật, thậm chí là một “súc vật thồ” hoặc cịn tệ hại hơn thế nữa. Trong xã
hội tư bản, giai cấp nơng dân và giai cấp vơ sản “kẻ bóc lột vẫn là một: đó là tư
bản”7. Việc cùng có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản khiến cho liên minh
công – nông càng bền chặt và được khẳng định như là một nhân tố cơ bản quyết
định sự thành bại của phong trào công nhân. Từ thực tế của cuộc đấu tranh giai
cấp ở Pháp (1848 – 1850) và Công xã Pa-ri 1871, C.Mác đã chỉ rõ, nếu giai cấp
vô sản không hát được “bài đồng ca” với giai cấp nơng dân thì “bài đơn ca”
của họ sẽ trở thành một “bài ai điếu”.
6
7

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 7, tr 48.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 5, tr 128.

15


Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin đã phát
triển lý luận về liên minh giai cấp trong điều kiện mới của giai cấp vô sản. Trước
hết, V.I.Lênin khẳng định liên minh công – nông là “nguyên tắc cao nhất” của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, liên minh ấy phải được đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Đồng thời, V.I.Lênin còn chỉ rõ, liên minh công – nông
không chỉ được thực hiện để giành lấy chính quyền, thiết lập chun chính vơ
sản, mà nó cịn cần được tiếp tục duy trì, phát triển trong quá trình giữ vững
chính quyền “…Nếu khơng liên minh được với nơng dân thì khơng thể có chính
quyền của giai cấp vơ sản, khơng thể nghĩ đến việc duy trì chính quyền…” 8. Do
đó, liên minh cơng – nơng chính là nguyên tắc, điều kiện tối cao để giai cấp vô
sản giữ vững vai trị lãnh đạo đối với tồn xã hội và giữ vững chính quyền cách
mạng của mình.
Liên minh cơng – nơng, theo V.I.Lênin, đó khơng chỉ là liên minh về
chính trị, mà cịn cần phải chuyển sang liên minh về kinh tế, trong đó, giai cấp
vơ sản cần phải đem lại ruộng đất cho nông dân, V.I.Lênin khẳng định, đây
chính là một đặc trưng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, và ông viết “…
Nếu không tống cổ bọn đại địa chủ đi và không chia ruộng đất cho nơng dân thì
cách mạng chỉ là cách mạng tư sản thôi chứ không phải là cách mạng xã hội
chủ nghĩa”9. Vì vậy, trong và sau cách mạng, V.I.Lênin ln u cầu phải lấy lợi
ích thiết thân của cá nhân nông dân làm cơ sở trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, rằng liên minh công – nông chỉ thực sự
vững chắc khi nào mối quan hệ giữa công nghiệp và nơng nghiệp trở nên cân đối
hài hồ và cơng nghiệp có thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của đời
sống nông dân và sự phát triển kinh tế của nông dân.
Như vậy, liên minh công – nông dựa trên lợi ích căn bản và lâu dài của
họ, nó được thể hiện trong thời kỳ giành chính quyền và giữ chính quyền, từ liên
minh chính trị chuyển sang liên minh kinh tế trong suốt cả thời kỳ quá độ. Đó là

một đặc điểm của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
8
9

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 57.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 8.
16


- Sự thống nhất giữa giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản .
Khác với những giai đoạn lịch sử trước kia, ngay từ khi mới ra đời giai
cấp tư sản đã có vai trị to lớn trong sự hình thành nên nhiều dân tộc trên thế
giới, đặc biệt là ở châu Âu. Cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá bỏ tình trạng phân tán của tư liệu sản xuất, tài
sản và dân cư, chính từ sự tập trung về kinh tế đã dẫn tới sự tập trung về chính
trị. Nhờ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã khiến
“Những địa phương độc lập liên hệ với nhau gần như chỉ bởi những quan hệ
liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau thì đã tập
hợp thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một pháp luật
thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính giai cấp và một thuế quan
thống nhất”10. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc xuyên suốt trong
tồn bộ cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản và ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc đấu
tranh này. Dân tộc được đề cập trong mối quan hệ với giai cấp đó là một cộng
đồng người bền vững dựa trên những cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, văn hố,
lãnh thổ, kinh tế… Do đó, dân tộc có thể ra đời cùng hoặc trước khi sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản.
Trong mỗi dân tộc có một giai cấp đứng đầu thống trị dân tộc, giai cấp đó
sẽ dân tộc hoá các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nó, và nó cũng giai

cấp hố hình thức phát triển của dân tộc. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước hết là quan hệ giữa giai
cấp vô sản và dân tộc, mà giai cấp vô sản là một bộ phận cấu thành nên dân tộc
ấy. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản là giai cấp thống trị dân tộc, điều đó đã
làm cho cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vơ sản trong từng nước đều nhằm
vào việc lật đổ chính quyền tư sản, chuyển nó vào tay giai cấp cơng nơng.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Mục đích trước mắt của những người
cộng sản là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác tổ chức những

10

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 603.
17


người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô
sản giành lấy chính quyền”11.
Chính việc đấu tranh giành chính quyền trong từng dân tộc là đòi hỏi
khách quan của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản, đó là điều kiện để giai cấp
vơ sản tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc, xố
bỏ dân tộc tư sản để hình thành dân tộc xã hội chủ nghĩa, dân tộc vơ sản. Vì vậy,
“Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung không phải là cuộc
đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc”12.
Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc còn được thể hiện trong mối quan hệ
giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. Khi giai cấp bóc lột cầm quyền,
giữ vai trò lãnh đạo dân tộc, do theo đuổi những mục đích giai cấp cục bộ của
mình, bao giờ cũng tìm cách mở rộng lãnh thổ, mở rộng thị trường, thi hành
chính sách đối nội, mở rộng áp bức, bóc lột với các dân tộc khác trên thế giới
nhằm thoả mãn khát vọng về lợi nhuận kinh tế và địa vị chính trị. Từ đó có thể
khẳng định rằng, nguồn gốc của áp bức dân tộc là từ áp bức giai cấp, do đó

muốn xố bỏ áp bức dân tộc phải xoá bỏ áp bức giai cấp, C.Mác đã viết: “Hãy
xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc
khác cũng sẽ bị xoá bỏ”13. Như vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản là tiền đề
của cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại, nhưng ngay từ đầu nó phải diễn ra trên
địa bàn dân tộc.
Quan điểm mácxít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách mạng
vô sản được V.I.Lênin tiếp tục phát triển trong thời đại mới, khi mà chủ nghĩa tư
bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, và phong trào giải phóng dân tộc đã
phát triển mạnh mẽ. V.I.Lênin khẳng định: kẻ thù chung của giai cấp vô sản ở
các nước tư bản và thuộc địa lúc này là đó chính là giai cấp tư bản, nhà nước đế
quốc, do đó, giai cấp vơ sản phải liên kết với các nước thuộc địa, cho dù ở các
nước thuộc địa đó giai cấp nào lãnh, và V.I.Lênin đã chuyển khẩu hiệu “Vơ sản
các nước đồn kết lại” của C.Mác thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và
11

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
13
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 625.
12

18


các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”. Đó là một bước phát triển mới về lý luận
đấu tranh giai cấp của V.I.Lênin trong điều kiện mới, điều đó đã làm cho phong
trào cách mạng vơ sản có thêm được lực lượng hùng hậu để có thể giành thắng
lợi.
Đối với các nước thuộc địa có phong trào vơ sản phát triển mạnh mẽ, theo
V.I.Lênin, phải có sự liên kết phong trào vơ sản ở những nước đó với phong trào

vơ sản ở chính quốc. Đồng thời, ơng cho rằng, khi các “dân tộc xã hội chủ nghĩa
lớn” được hình thành, quần chúng lao động tự giải phóng khỏi ách áp bức của
giai cấp tư sản sẽ hướng toàn lực của họ vào việc liên minh và thống nhất với
các dân tộc xã hội chủ nghĩa để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng chủ
nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản khác với mọi cuộc đấu tranh giai cấp trước
đó, ở chỗ, các lực lượng ln được mở rộng và phát triển khơng ngừng. Đó là q
trình chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác, từ đấu tranh của một giai cấp thành
đấu tranh của liên minh giai cấp, đấu tranh của cả dân tộc, từ cuộc đấu tranh trong
phạm vi quốc gia chuyển thành cuộc đấu tranh trên phạm vi quốc tế.
Như vậy, mặc dù đã được xuất hiện từ rất sớm, nhưng chỉ đến C.Mác và
Ph.Ăng-ghen thì lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp mới thực sự mang tính
cách mạng và khoa học. Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, các nhà kinh điển mác xít đã luận chứng làm rõ những vấn đề về nguồn gốc
giai cấp, tiêu chí phân biệt giai cấp, cũng như nguyên nhân, điều kiện, mục tiêu
cuối cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản. Từ lý luận đó, C.Mác và
Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ đặc thù của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản, nhiệm vụ
lịch sử mà nó phải giải quyết, cũng từ lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng nên chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận
này đã xoá tan mọi ảo tưởng về xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ áp bức dựa trên cơ sở
thuần tuý về giáo dục đạo đức mà không xuất phát từ kinh tế, lực lượng sản
xuất.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã được V.I.Lênin kế thừa và
phát triển trong điều kiện lịch sử mới, khi mà giai cấp vô sản đã giành được
19


chính quyền. Những tư tưởng của V.I.Lênin đã giúp chúng ta thấy được mục
đích, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, đồng
thời, nó cũng chỉ rõ rằng, giai cấp vô sản cần phải vận dụng một cách linh hoạt,

sáng tạo các quan điểm mác xít để nhận thức và giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể của cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là giá trị lớn lao của học thuyết mác xít về
đấu tranh giai cấp.

20


Chương 2
THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Những đặc điểm cơ bản của vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay
2.1.1. Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay nảy sinh từ yêu cầu khách
quan của sự phát triển kinh tế
Mâu thuẫn cơ bản (xét đến cùng) quyết định sự vận động, phát triển của xã
hội đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với tính chất quốc tế hóa ngày càng
cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt xu hướng, quan hệ sản
xuất cũ sẽ trở thành xiềng xích, trói buộc lực lượng sản xuất, muốn có phương
thức sản xuất mới buộc phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ. C.Mác khẳng định: Tất
cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp và tất cả các cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp, dù dưới hình thức chính trị tất yếu của chúng thế nào
đi nữa - vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Cho nên, mục tiêu
đấu tranh giai cấp là giải quyết lợi ích kinh tế, nếu khơng giải quyết được lợi ích
kinh tế thì quyền lực chính trị cũng dần dần mất đi và động lực của sự phát triển
xã hội nằm ngay trong chính phương thức sản xuất với việc giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải nhận thức rõ tính tất
yếu của đấu tranh giai cấp. Đó là khi giai cấp vơ sản giành được chính quyền
nhưng mới chỉ thắng giai cấp tư sản về mặt chính trị, trong khi giai cấp tư sản
vẫn cịn lực lượng, vẫn tìm mọi cách giành lại địa vị đã mất. Vì vậy, giai cấp vơ

sản phải tiếp tục đấu tranh để củng cố thắng lợi, xây dựng xã hội mới và đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Và để thực hiện được sứ mệnh lịch sử này đòi
hỏi phải tăng cường vai trò lãnh đạo và chất lượng lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, phát huy cao độ tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Đảng
phải phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi giai tầng trong xã hội vì mục tiêu phát
21


triển kinh tế, chuyển từ nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại theo hướng
CNH, HĐH. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, Đảng ta đã chủ trương
phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lí của Nhà nước - nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chính điều đó dẫn đến cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi; do đó, đấu
tranh giai cấp trong nền kinh tế nhiều thành phần mang tính tất yếu khách quan,
vì nó tồn tại những xu hướng, lợi ích vừa thống nhất, vừa đối lập, đấu tranh với
nhau.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp khơng phải là động
lực duy nhất để thúc đẩy xã hội phát triển, mặc dù nó là động lực rất quan trọng,
là “địn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng hiện đại”. Ngoài đấu tranh giai cấp ra còn
nhiều động lực khác như: đạo đức, tư tưởng, văn hóa, giáo dục… vị trí, vai trò
của mỗi động lực là khác nhau. Nhận thức được điều này sẽ giúp chúng ta sẽ
tránh được tư tưởng tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp.
2.1.2. Đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đấu tranh tôn giáo gắn bó
chặt chẽ, đan xen lẫn nhau diễn ra hết sức cam go, quyết liệt và lâu dài
Xét trong mối quan hệ giai cấp và dân tộc, dân tộc không được độc lập thì
mọi giai cấp đều bị nơ dịch. Cho nên, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Do đó, dân tộc Việt Nam muốn có sức mạnh để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cần tiếp tục cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Đảng ta đã nhận định rằng: Mặc dù chủ nghĩa
xã hội đang đứng trước những thử thách đầy nghiêm trọng có sự thụt lùi, thối

bộ của một số nước nhưng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
vẫn cịn. Lồi người tiến bộ ngày càng nhận thức rõ hơn giá trị đích thực của
chân lí độc lập, dân tộc dân chủ hịa bình và tiến bộ xã hội.
Hiện nay, nước ta đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa với việc thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lí thống nhất của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, với nền kinh tế đan xen nhiều loại hình sở hữu khác nhau cho
nên lợi ích kinh tế giữa các giai cấp cũng khác nhau. Đặc biệt, mâu thuẫn chủ
22


yếu nổi lên là giữa phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế thị
trường với việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước bước vào thời
kì đẩy mạnh CNH, HĐH thì nhiệm vụ ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực; trong đó, lĩnh vực kinh tế giữ vai trị
hàng đầu, có ý nghĩa sống cịn của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa thì đất nước mới có nền độc lập dân tộc thực sự và
trọn vẹn, quốc phòng và an ninh quốc gia mới được củng cố và tăng cường, mới
đẩy lùi được tệ quan liêu và tham nhũng, buôn lậu và làm thất bại âm mưu
“chiến lược diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Cuộc đấu tranh giai
cấp trong thời kì quá độ ở nước ta hiện nay thực chất là cuộc đấu tranh chống xu
hướng tự phát lên tư bản chủ nghĩa với giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Cần nhận thức và quan niệm đúng đắn về vị trí, vai trị của các giai cấp và
các tầng lớp xã hội; khắc phục xu hướng tuyệt đối hóa thành phần giai cấp, dân
tộc trong mọi lĩnh vực. Cho nên, Đảng và Nhà nước cần có đường lối chiến lược
và sách lược đúng đắn, xử lý có hiệu quả các vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc,
vấn đề tôn giáo, nhân quyền không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là làm sao phát huy được chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc, tăng cường và huy động được mọi
nguồn lực dân tộc của khối đoàn kết toàn dân, để phát triển KT-XH, chống

nghèo nàn lạc hậu, giải quyết tốt chính sách xã hội, quan tâm phát triển KT-XH
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo một cách bền vững. Nhằm giữ vững độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi những nguy cơ mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định, báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: Nội
dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bức, bất công; đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
23


Đảng ta thừa nhận: hiện nay và trong cả suốt thời kì q độ ở nước ta cịn tồn
tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, sẽ là chủ
quan, sai lầm nếu xóa nhòa ranh giới giữa các giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai
cấp hoặc hiểu một cách phiến diện cực đoan về đấu tranh giai cấp, tuyệt đối hóa
mặt bạo lực, trấn át của đấu tranh giai cấp… cũng không nên hiểu đấu tranh giai
cấp là điều hịa lợi ích giữa các giai cấp.
2.1.3. Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là một phức hợp, diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, tư tưởng lí luận,
quốc phịng an ninh, trật tự an toàn xã hội và đối ngoại)
Để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh giai cấp, chúng ta cần đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
-Về kinh tế: Trọng tâm là phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện CNH, HĐH
đất nước; cho phép các thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh, lợi ích của các
thành phần kinh tế thống nhất với lợi ích của đất nước, thống nhất với lợi ích
quốc gia, dân tộc. Đảng ta khẳng định: Ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc,

thì Đảng khơng có lợi ích gì khác.
-Về đối ngoại: Việt Nam muốn là bạn với các nước và các dân tộc trên thế
giới với tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa trong mối quan hệ quốc tế nhưng
phải đảm bảo giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia với tinh thần độc lập dân tộc
và tự lực tự cường.
- Về quốc phòng an ninh: Giữ vững an ninh quốc gia và trật tự xã hội, ngăn
chặn âm mưu của các thế lực thù địch gây mất ổn định chính trị nhằm chuyển
hóa con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Về tư tưởng - lý luận: Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lí luận vẫn
diễn ra phức tạp và gay gắt. Phải thắng được “giặc dốt” để giữ vững nền tảng tư
tưởng của Đảng, phải có trình độ cao, có năng lực hành động tốt, có khả năng
phê phán, loại bỏ ảnh hưởng của những tư tưởng sai trái thù địch. Phải thường

24


xuyên nghiên cứu, bổ sung và phát triển lí luận Mác - Lênin một cách sáng tạo,
phù hợp.
2.1.4. Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải đối mặt với nhiều nguy
cơ, trong đó có nguy cơ “diễn biến hịa bình”
“Diễn biến hịa bình” do các thế lực thù địch gây ra làm xuất hiện tình trạng
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Thực chất của “diễn biến hịa
bình” là cuộc chiến tranh kiểu mới, sử dụng tổng hợp nhiều phương thức, thủ
đoạn, lực lượng, phương tiện… khác nhau, tiến công vào nước ta trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội để chống phá tồn diện nước ta về kinh tế, chính
trị, văn hóa, tư tưởng… nhằm chuyển hóa nội bộ nước ta.
Với phương châm “không đánh mà thắng” sự nguy hiểm của chiến lược “diễn
biến hịa bình” thể hiện ở chỗ, chúng lấy địn chiến tranh tâm lí và lí luận để tiến
công, làm cho ta mất cảnh giác, ru ngủ ý chí đấu tranh, gây mơ hồ chính trị, giai
cấp, tạo dần khoảng trống trong ý thức hệ, thẩm thấu dần lối sống tư sản, xa rời

chuẩn mực đạo đức truyền thống, truyền bá hệ tư tưởng tư sản vào trong đời
sống chính trị, tinh thần, làm thay đổi ý thức hệ của họ tiến tới nhằm xóa bỏ chế
độ xã hội chủ nghĩa bằng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khi có điều kiện kết
hợp với bạo loạn lật đổ.
Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực thù địch sử dụng cho thấy cuộc đấu
tranh giai cấp hiện nay so với trước đây không kém phần quyết liệt và phức tạp.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cả trong việc bảo vệ lí tưởng
cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin và trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong điều kiện “mở cửa” và hội nhập quốc tế, Đảng càng phải đề cao
cảnh giác, mài sắc ý chí cách mạng, kiên định lập trường giai cấp, nhận dạng
thật rõ các hành động và âm mưu thù địch để có biện pháp đấu tranh có hiệu
quả.

25


×