Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (6-1991)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.54 KB, 25 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
`
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
-----***-----

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (6-1991)

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NGÀNH: LỊCH SỬ
MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện là đội tiên phong cách mạng, là người mở đầu cho mọi thắng lợi vĩ
đại của dân tộc Việt Nam. Những cương lĩnh do Đảng khởi thảo và ban
hành là kết quả của cả một quá trình sáng tạo, tìm tòi, là những mốc son
chói lọi đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng qua từng cương
lĩnh. Từ khi thành lập Đảng đã có 4 lần thông qua Cương lĩnh. Các cương
lĩnh ấy đã cùng với Đảng và nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Hội nghị thành lập Đảng đầu tháng 2 năm 1930 đã thông qua Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Tuy vắn tắt nhưng đây là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, đã vạch ra
con đường cách mạng khoa học cho cách mạng Việt Nam. Đến tháng
10/1930, bản Luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo đã được công
bố. Tuy còn hạn chế nhưng Luận cương đã xác định được những vấn đề
chiến lược của cách mạng nước ta. Cách mạng Tháng Tám thành công
nhưng nhân dân ta vẫn phải tiếp tục công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Để kháng chiến mau thắng lợi hoàn toàn, tháng 2 năm 1951, tại Đại hội II,
Đảng đã thông qua bản “Chính cương Đảng lao động Việt Nam”. Như


vậy, ba cương lĩnh chính trị trên của Đảng đã bao gồm những nội dung rất
cơ bản, định hướng cho cách mạng Việt Nam trên con đường đấu tranh
giành chính quyền và giải pháp dân tộc.
Nhưng chỉ đến Cương lĩnh thứ tư của Đảng (6-1991): “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông
qua tại Đại hội VII của Đảng mới thực sự là một cương lĩnh mang một
màu sắc mới của thời đại mới: Màu sắc của tư duy đổi mới được vạch ra
từ Đại hội VI (12-1986). Đây là một cương lĩnh đổi mới rất sáng tạo của
Đảng.
2
Việc nghiên cứu về Cương lĩnh thứ 4 này của Đảng mang những ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất có giá trị. Đó chính là lý do chúng tôi chọn
đề tài này để nghiên cứu.
Có rất nhiều người đã nghiên cứu về vấn đề này trên nhiều khía
cạnh và góc nhìn khác nhau. Vì vậy, trên tinh thần tiếp thu, học hỏi những
vấn đề phù hợp, chúng tôi sẽ cố gắng đi sâu thêm trong công trình của
mình những khía cạnh mới.
Trong công trình nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ tập trung vào
giải quyết những vấn đề xung quanh cương lĩnh xây dựng đất nước của
Đảng: nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử..
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991).
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu chung của
khoa học lịch sử.
Bố cục cơ bản: Chia làm 3 phần:
I. Hoàn cảnh ra đời
II. Nội dung Cương lĩnh
III. Ý nghĩa Cương lĩnh
3

NỘI DUNG CHÍNH
I. Hoàn cảnh ra đời
1.1. Thành tựu, hạn chế sau 5 năm đổi mới
1.1.1. Thành tựu
Đại hội VI của Đảng (12-1986) diễn ra trong bối cảnh quốc tế là
cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc, đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản vẫn diễn ra gay gắt… Đồng thời, lúc đó Việt Nam sau 10
năm (1975 - 1985) đi lên theo mô hình cũ, đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng; sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước
bị bao vây về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Và sau gần 5
năm phấn đấu gian khổ, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước
đầu rất quan trọng cả về kinh tế - xã hội, chính trị, đối ngoại.
Đánh giá tổng quát việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI ta thấy
công cuộc đổi mới 5 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa rất quan trọng:
+ Đạt được những tiến bộ rõ rệt trong 3 chương trình kinh tế lớn,
nhất là lương thực - thực phẩm. Lần đầu tiên nước ta đã có đủ gạo ăn, có
dự trữ và trở thành nước thứ 3 trên thếgiới về xuất khẩu gạo.
+ Kinh tế đối ngoại có phát triển. Nước ta tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá. Đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước.
+ Nước ta đã cơ bản xoá được cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang
hạch toán theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành bước đầu nên
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, kinh tế thị trường có những mặt tiêu
cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hoá
giàu - nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền quá mức… Do đó đi vào
4
kinh tế thị trường phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa

những khuynh hướng tiêu cực đó.
+ Đã bước đầu ngăn chặn, kìm chế được lạm phát, giữ vững ổn định
đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ ở Việt Nam trong khi không còn tiền viện
trợ chuyển đổi kinh tế…
+ Đã điều chỉnh được chiến lược quốc phòng theo hương quốc
phòng toàn dân, giảm được 60 vạn quân thường trực mà cẫn ổn định chính
trị, có lợi cho đổi mới kinh tế. Đây là thành tựu rất quan trọng vì giữ vững
ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh, tạo lập môi trường hoà
bình, chính là điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
+ Đã thực hiện được các chính sách xã hội tiến bộ, động viên, huy
động được các nguồn lực trong dân và hoạt động tăng thu nhập, cải thiện
đời sống, làm giàu chính đáng. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện, mỗi năm có thêm một triệu người có việc làm, nhiều nhà
ở, đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nôgn thôn và
thành thị. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được
nâng lên. Người lao động phát huy được tính chủ động, sáng tạo.
+ Hoạt động văn hoá, khoa học, báo chí, văn học nghệ thuật thể
thao khá phát triển: hệ thống thông tin phát triển nhanh.
Những thành tựu nêu tren tuy mới bước đầu, chưa vững chắc, đất
nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, song có ý nghĩa quan
trọng. Nó khẳng định đường lối, tư duy đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
là đúng và tạo nên niềm tin, điều kiện để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn,
cao hơn nữa.
1.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu nêu trên thì 5 năm đổi mới (từ Đại hội
VI) ta không thể không tránh khỏi những hạn chế, cụ thể là:
+ Tăng trưởng kinh tế còn chậm, lạm phát còn cao. Chúng ta chưa
thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất. Tiết kiệm trong tiêu dùng.
5
+ Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề cần phải giải

quyết; có mặt nghiêm trọng. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công
chưa ngăn chặn được. Sự phân hoá giàu - nghèo bắt đầu hình thành. chất
lượng giáo dục, y tế ở nhiều nơi còn thấp. Tệ nạn xã hội còn nhiều…
+ Việc lãnh đạo,xây dựng quan hệ sản xuất có phần vừa lúng túng,
vừa buông lỏng.
+ quản lý Nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Hệ thống luật pháp
và chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, việc thực hiện lại chưa nghiêm.
1.2. Đại hội VII của Đảng - Quá trình hình thành cương lĩnh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp từ ngày 24 đến
27-6-1991 tại Hà Nội. Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 2,1
triệu đảng viên của toàn Đảng. Nhiều đoàn đại biểu quốc tế đã đến dự:
đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng nhân dân cách mạng Lào,
Đảng nhân dân cách mạng Campuhia, Đảng Cộng sản Cu Ba và nhiều
khách quốc tế đã đến dự.
1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Đại hội VII diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức
tạp. Các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lâm vào “cuộc khủng hoảng
toàn diện và nghiêm tọng nhất từ trước tới nay”, chủ nghĩa xã hội đang ở
giai đoạn khó khăn, thử thách gay go. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ
ở các nước Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đứng trước thử thách
quyết liệt nhất, công cuộc cải tổ của Goocbachốp vấp phải nhiều khó khăn
trở ngại, kinh tế sụp đổ, khó khăn về chính trị, tệ nạn xã hội, xung đột sắc
tộc, dân tộc, Đảng Cộng sản Liên Xô bị chia rẽ thành nhiều phe phái, các
thế lực chống chủ nghĩa xã hội ngóc đầu dậy.
Đay là tổn thất nặng nề nhất của chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế
giới; đặc biệt là sự kiện 8-1991 (ngay sau đại hội VII) dẫn đến sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô. Tình hình này không thể không tác
động đến tiến trình công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra từ sau đại hội VI
của Đảng.
6

1.2.2. Bối cảnh trong nước
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-
1986), công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc đã diễn ra trên đất nước ta
và cho đến đại hội VII (tháng 6-1991) đã giành được những thành tựu
quan trọng (đã trình bày ở phần 1). Tuy vậy, nền kinh tế xã hội nước ta
vẫn còn nhiều khó khăn và vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội.
Xét cả tình hình thế giới và những khó khăn trong nước, năm 1991
là thời điểm thách thức rất nặng nề đối với quá trình đổi mới theo con
đường của chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới từ sau Đại hội VI, Đảng
ta ở Đại hội VII đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm về đổi mới, rèn luyện bản
lĩnh chính trị vững vàng nhưng khó khăn thử thách mới, nhận thức rõ hơn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn
của 5 năm đổi mới, làm rõ những vấn đề lý luận chung và lý luận về thời
kỳ quá độ ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII xác định: Đảng ta lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Lần đầu tiên trong các văn kiện của
Đảng nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoá của nhân
dân…
Đại hội đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh một
cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc.
Nguyễn Văn Linh, tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc
báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương và các văn kiện Đại hội
VII. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

7
độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000, Báo cáo chính trị, báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều
lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo ủa Ban chấp hành Trung ương khoá VI.
II. Nội dung cương lĩnh
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã công bố Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Cương lĩnh có bố cục 4 phần, 12 nội dung.
2.1. Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm
Có hai nội dung:
2.1.1. Nội dung 1
Nêu lên sự phát triển của lịch sử và những thắng lợi vang dội của
Đảng và dân ta trong suốt 45 năm kể từ khi thực hiện Cương lĩnh năm
1930, làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, đánh bại thực dân Pháp xâm lược với chiến dịch
Điện Biên Phủ 1954, giải phóng miền Bắc. Kháng chiến chống Mĩ thắng
lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc sau đại thắng mùa xuân
1975. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đạt được
những thành tựu quan trọng kể từ sau cột mốc lịch sử quan trọng: Đại hội
VI của Đảng.
2.1.2. Nội dung 2
Từ thực tiễn, rút ra 5 bài học khác nhau lớn:
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:

Có 2 nội dung
8
2.2.3 Nội dung 3
Nêu lên những hoàn cảnh quốc tế quan trọng có ảnh hưởng đến thới
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là những biến đổi to lớn và
sâu sắc của quốc tế.
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra
mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở những mức độ khác nhau, vừa tạo
thời cơ, vừa đặt ra những thách thức gay gắt
- Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được nhiều
thành tựu, song nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lầm vào khủng hoảng
trầm trọng. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội diễn ra
gay gắt.
- Chủ nghĩa tư bản còn có những tiềm năng phát triển kinh tế, song
mâu thuẫn tồn tại trong nó vẫn không khắc phục được.
- Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp
bách có liên quan đến vận mệnh loài người.
- Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song, loài
người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật
tiến hoá của lịch sử.
2.2.4. Nội dung 4
Nói về quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội của Đảng, những khó
khăn, thuận lợi trong thời kỳ quá độ cụ thể, cương lĩnh xác định 6 đặc
trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta
xây dựng.
- Đặc trưng thứ nhất: Do nhân dân lao động làm chủ “Chế độ ta là
chế độ dân chủ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Quyền hạn
và trách nhiệm đều ở nơi dân” (Hồ Chí Minh). Chế độ xã hội là chế độ xã
hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo, vạch đường chỉ lối. Nhưng Đảng lại là

người đại diện chân chính cho lợi ích của nhân dân lao động, “vì lợi ích
của nhân dân lao động” “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Công
9
- nông vẫn là gốc của cách mạng, là chủ của cách mạng thì sẽ là chủ của
chế độ. Đây là đặc trưng hàng đầu.
- Đặc trưng thứ hai: có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa có một trình độ phát triển
kinh tế cao hơn với phương thức sản xuất khác trong lịch sử phát triển của
xã hội loài người. Điều này thể hiện ở cả trong quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất. Hai yếu tố của phương thức sản xuất có quan hệ khăng
khít với nhau. Chủ nghĩa xã hội ở đây mới chỉ là giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản, vẫn còn có những tư liệu sản xuất thuộc sở hữu khác.
Song, đây vẫn là một nền sản xuất công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
- Đặc trưng thứ 3: Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặc trưng này khẳng định chúng ta phải xây dựng một nền văn hoá Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Văn hoá bao gồm tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra. Định hướng đi lên con đường chủ
nghĩa xã hội, ta phải xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, hiện đại, xã hội
chủ nghĩa. Bên cạnh đó phải bảo lưu những giá trị truyền thống mang đậm
bản sắc cảu dân tộc Việt mà qua nghìn năm Bắc thuộc vẫn không phai
nhạt. Đó chính là những nét đẹp của dân tộc cần được bảo tồn. Tuy nhiên,
hiện nay, rất nhiều giá trị văn hoá bị mai một, đứng trước nguy cơ bị huỷ
hoại, nhiều giá trị văn hoá bị coi nhẹ. Cần phải có những giải pháp phù
hợp và hiệu quả để phát triển một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Đặc trưng thứ tư: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn bộ cá nhân. Đây là những đặc
điểm bản chất về quyền của con người trong chủ nghĩa xã hội, những gì

mà một con người trong xã hội chủ nghĩa được hưởng. Đó là những quyền
hết sức cơ bản. Con người không bị áp bức, bóc lột, làm theo năng lực,
hương theo lao động, được hưởng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
10

×