Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận tư tưởng QUAN điểm của hồ CHÍ MINH về đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết QUỐC tế vận DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.71 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA

MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC, ĐỒN KẾT QUỐC TẾ. VẬN
DỤNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO NƯỚC
TA HIỆN NAY.
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:

Tp.HCM, ngày , tháng , năm 20

MỤC LỤC


2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mặc dù mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng
trong sự thống nhất và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, nhưng trong tiến trình lịch
sử lâu dài dựng, giữ và phát triển đất nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh đấu tranh
kiên cường và giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược. Do đó, đồn kết các dân tộc
là một nhu cầu khách quan, cấp thiết và trở thành truyền thống quý báu của nhân dân
ta.


Việc xây dựng và củng cố đồn kết giữa các dân tộc có ý nghĩa hết sức quan trọng,
vừa có thể phát huy hết tiềm năng và sức mạnh nội lực của đất nước tạo nên một thế
trận vững chắc, một sức mạnh tổng hợp vừa có thể khắc phục được mặt trái của những
vấn đề như mâu thuẫn, xung đột dân tộc hay sự lợi dụng của các thế lực thù địch...
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng
cường khối đồn kết giữa các dân tộc ở nước ta. Việc thực hiện các chính sách đã đem
lại những kết quả tốt đẹp đáng ghi nhận, kinh tế phát triển, đời sống đồng bào các dân
tộc được nâng cao hơn, chính trị ổn định, chất lượng giáo dục, y tế đã có nhiều tiến bộ,
bản sắc văn hóa được giữ gìn và phát huy, an ninh, quốc phịng được giữ vững...
Những biểu hiện đó đã cho thấy những chính sách của Đảng và Nhà nước đã tác động
tích cực tới việc củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc ở
nước ta. Tuy nhiên, việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
vào thực tiễn do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn một số hạn chế, bất cập, cần
nhanh chóng phát hiện và khắc phục kịp thời.
Trước ý nghĩa to lớn và vai trò đặc biệt quan trọng của việc củng cố, tăng cường khối
đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta trong tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến đổi hiện nay, trước những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách đồn kết
dân tộc của Đảng ta hiện nay, đồng thời với niềm đam mê nghiên cứu vấn đề này của
bản thân đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “Đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài của nhóm em.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích nghiên cứu: Khái quát những quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc và kết quả thực hiện quan điểm, chính sách đó ở
nước ta trong những năm đổi mới vừa qua, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả của chính sách đồn kết các dân tộc và đồn kết quốc tế

3



Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn cần giải quyết một số
nhiệm vụ sau: Chỉ ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc và những nội dung cơ bản trong chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu nhiều khía cạnh xung quanh vấn đề đồn kết các dân tộc ở nước ta: từ cơ
sở lý luận (khái niệm dân tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết dân tộc…), cơ sở thực tiễn (đặc điểm của các
dân tộc, quan hệ dân tộc ở nước ta…) đến một số giải phápnhằm tăng cường khối
đoàn kết dân tộc Việt Nam ta. Tuy nhiên có thể nói rằng số lượng các cơng trình
chun sâu tập trung nghiên cứu về vấn đề đoàn kết các dân tộc ở nước ta là chưa
nhiều. Đặc biệt là chúng tơi thấy rất ít tác giả cơng bố nghiên cứu về chính sách của
Đảng và Nhà nước về đoàn kết các dân tộc ở nước ta, kết quả thực hiện chính sách
trong thời gian qua và hệ thống những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
chính sách ấy, mà theo tác giả luận văn thì đây là vấn đề hết sức quan trọng. Chính vì
vậy, chúng tơi khi lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc và
đoàn kết quốc tế” đã coi đây là đối tượng nghiên cứu chính cần tập trung nghiên cứu.

4


KIẾN THỨC CƠ BẢN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH
1.
1.1.
-

-


-

-

-

CƠ SỞ LÝ LUẬN
Kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã đắp bồi
nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt cách của con người
Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết.
Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn
kết, cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu
điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Triết lý
nhân sinh của dân tộc: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hịn
núi cao”. Tư duy chính trị được phản ánh: “Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà,
đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí
nhân thay cường bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách
nhiệm cá nhân với cộng đồng mà hàng đầu là bổn phận đối với Tổ quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc", hướng về dân,
lấy dân làm gốc, “Chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân
như nước”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến “Hội nghị Diên Hồng”, những
kiểu “tập hợp bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên dưới một lòng, hòa nước sơng
chén rượu ngọt ngào”.
Văn hóa Việt Nam là nền vãn hóa khoan dung hịa hợp. hịa đồng. Điểm này có
nguồn gốc từ cội rễ của văn hóa Việt Nam là mọi người Việt Nam cỗi gốc tích, tổ
tiên chung. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh khi nói về con
Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. Người nhấn mạnh:


“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
5


Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang”.
1.2.
-

-

1.3.

2.
-

Kế thừa và phát triển những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại Đơng –
Tây
Văn hóa phương Đơng trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều điều
không hợp lý, có nhiều điểm tích cực.
Chẳng hạn thuyết Đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo
Khổng Tử, “thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta khơng sợ thiếu
chỉ sợ có khơng đều”. Quan điểm "nước lấy dân làm gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là
của Nho giáo. Trong Phật giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ,
đại bi, cứu khổ cứu nạn”, “cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt)
mang sức mạnh đoàn kết.

Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học trên ghế
Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài. Người
đã chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư
sản Mỹ. trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư sản Pháp.
Người đã học được tư tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai thác tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản trong
Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ
Chí Minh.
Kế thừa và phát triển các quan điểm về đoàn kết lực lượng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lenin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn
cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mac - Lênin. Cách
mạng Nga chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân
dân là người làm nên lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ
chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp
vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong
học thuyết Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân và nông dân làm nền tảng, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin là tấm gương sáng chói về
thực hành đồn kết, đồn kết trong nước, đồn kết quốc tế. hiện thân cho tình
anh em bốn bể. Có thể nói những quan điểm đồn kết trong học thuyết Mác Lênin là cơ sở tư tưởng lý luận quan trọng nhất, bởi nó khơng chỉ trang bị thế
giới quan, phương pháp luận, mà còn chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong
q trình thực hiện đồn kết.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã phân tích nguyên nhân thất bại của
các cuộc đấu tranh trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Dưới ngọn cờ
Cần Vương và các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân
6


-


tộc Việt Nam chưa thật sự có đường lối đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ, có đồn
kết rộng rãi. Hồ Chí Minh rút ra rằng đã làm cách mạng, dù là cách mạng tư sản
như cách mạng Mỹ 1776, cách mạng tư sản Pháp 1789 hay vơ sản, thì điều chủ
chốt là “dân chúng công nông là gốc cách mạng. Cách mạng thì có tổ chức rất
vững bền mới thành công. Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mạng được
nhiều. Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống lại”.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên thế giới chưa giành được
thắng lợi khơng phải vì thiếu lịng u nước, căm thù bọn xâm lược, mà thiếu lực
lượng lãnh đạo, thiếu tổ chức, chưa biết đoàn kết phạm vi trong nước và trên thế
giới. Vì vậy, muốn giành được thắng lợi như cách mạng Nga năm 1917 thì phải
dân chúng cơng nơng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy
sinh, phải thống nhất.

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC
1.
1.1.
-

-

-

VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG
Có ý nghĩa chiến lược và quyết định thành công của cách mạng
Thế nào là vấn đề có ý nghĩa chiến lược?
+ Về khái niệm: Chiến lược được hiểu là phương châm và biện pháp có tính
tồn cục được vận dụng trong suốt tiến trình cách mạng.

+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh Đoàn kết là mốt chiến lược chứa đựng hệ thống
những luận điểm thể hiện những nguyên tắc, biện pháp giáo dục, tập hợp
những lực lượng cách mạng tiến bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc
và quốc tế trong sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
+ Chiến lược là cái nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng, thể hiện cả vấn
đề lý luận lẫn vấn đề thực tiễn (43% bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh đề cập
đến vấn đề đồn kết).
Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ
khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần thiết điều
chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng, song đại đồn kết là vấn đề sống cịn,
quyết định thành bại của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chân lý về vai trị của khối đại
đoàn kết:
7


Đoàn kết làm ra sức mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đồn kết
chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi
thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó”, “Đồn kết là một lực
lượng vơ địch của chúng ta để khác phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”.
+ “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
+ Đồn kết là then chốt của thành cơng.
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng đơn thuần là phương pháp tập hợp lực
lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách
mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất

qn chứ khơng thể là một thủ đoạn chính trị.
Cách mạng muốn thành cơng, đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, mà trên cơ sở
đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
+ Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ
Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc”.
+ Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về
cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng tháng Tám và
trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân
tốc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng
chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thơi. Bây giờ mục đích của tuyên
truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là
đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đồn kết dân tộc cịn là nhiệm vụ hàng đầu của tồn dân tộc. Bởi vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Từ trong đấu tranh mà nảy sinh nhu
cầu khách quan về đồn kết, hợp tác. Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng; chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát đó
thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đồn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp to lớn để hoàn thành các mục tiêu cách mạng.
LỰC LƯỢNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết tồn dân
Đứng trên lập trường giai cấp cơng nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh
đã đề cập vấn đề “dân” và “nhân dân” một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết
phục, tha phục lịng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí
Minh thường dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một
người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiếu số, có tín
+

1.2.

-

-

-

2.
2.1.
-

8


-

-

2.2.
-

-

ngưỡng hay khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo,
quý tiện”. Như vậy dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu
với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần
chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của
khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đồn kết tồn
dân.
Nói đại đồn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người
dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái

niệm đại đồn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều
tầng nấc, nhiều cấp độ các quan hệ nên kết qủa lại giữa các thành viên, các bộ
phận, các lực lượng xã hội của dân lộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong
ra ngoài, từ trên xuống dưới. Hồ Chi Minh đã nhiều lần nói: “Đồn kết của ta
khơng những rộng rãi mà cịn đồn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đồn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói
trên, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
Người cịn chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng
vững trên lập trường giai cấp cơng nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ giai cấp
– dân tộc để tập hợp lực lượng, khơng được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn
là lực lượng đó có lịng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt
gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đồn kết
rộng rãi như vậy. Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng
dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Điều kiện thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố
và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân
tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi
con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các Vua Hùng dựng
nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Truyền
thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng
mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được
giữ vững.
Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong
mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điêm, mặt
9



-

-

tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lịng khoan dung,
độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Sông to, biển rộng bao nhiêu
nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì
một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng
như cái chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn
ngón dài, nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết
phải thực hiện đại đồn kết. Người cho rằng: “Trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta.
Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng
thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải dùng tình nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đồn kết,
có đại đồn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh khơng phải là một sách lược nhất
thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái,
bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời
theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường lối, chính
sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người
nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành
hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu
gọi tất cả những ai có lịng u nước, khơng phân biệt tầng lớp. tín ngưỡng,
chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cũng nhau đồn kết vì
nước, vì dân. Để thực hiện được đồn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần

phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong
mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm lịng u nước” tiềm ẩn
bên trong. Tấm lịng u nước đó có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức
tỉnh lương tri con người thì lịng u nước đó lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự
hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc. Hồ Chí Minh đã chân
thành lơi kéo, tập hợp được chung quanh mình nhiều người trước đây vốn là
quan đại thần của Nam triều cũ, như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại
thần Phan Kế Toại,…vào khối đại đoàn kết tồn dân, tạo điều kiện để họ có đóng
góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Để thực hành đồn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh,
yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước
lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự
quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
10


3.
3.1.
-

-

3.2.

Theo Người, dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và
vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền gốc và
chủ thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên –
Việt toàn quốc, tháng 1 – 1955. Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết là
phải đoàm kết đại đa số nhân dân. mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông

dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề, gốc của đại đồn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải
đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
HÌNH THỨC CỦA KHỐI ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống
nhất
Hồ Chí Minh chủ trương đại đồn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất,
có tổ chức vì cả dân tộc hay tồn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức
mạnh vô địch khu được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại
thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn;
nếu khơng, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu người cũng chỉ là
một số đơng khơng có sức mạnh.
Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh
chủ trương đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng
đối tượng quần chúng và từng bước phát triển của cách mạng, đồng thời Người
chủ trương thành lập Mặt trân dân tộc thống nhất để tập hợp tất cả các tổ chức và
cá nhân yêu nước phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng chung.
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc
thống nhất
Để Mặt trận hoạt ộng một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc
hoạt động sau:

-

Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh cơng nơng và lao động trí
óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của
dân tộc, quyền lợi cơ bản của tầng lớp nhân dân.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày
càng rộng rãi và bền vững.

Hoạt động đooàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự,
chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Vận dụng tư tưởng này, yêu cầu cách mạng đặt ra trong giai đoạn hiện nay:

11


Phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiên đại
hóa đất nước vì mục tiêu của CNXH.
- Một số giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong
bối cảnh hiện nay:
+ Phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu và là nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
+ Lấy mục tiêu của sự nghiệm cách mạng là điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng
hướng tới tương lai.
+ Đảm bảo cơng bằng và bình đẳng xã hội.
+ Đại đồn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị.
-

12


CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
QUỐC TẾ
1.
1.1.
-


-

-

-

-

-

VAI TRỊ CỦA ĐỒN KẾT QUỐC TẾ
Thực hiện đồn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh
dân tộc tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
Người đã xuất phát từ chính thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc trong nước:
phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX không thành công là do nhiều nguyên nhân
một trong số đó là do chưa hướng ra bên ngoài, phong trào yêu nước đầu thế kỉ
XX thất bại là do đã biết hướng ra bên ngồi nhưng mang tư tưởng cầu viện.
Tóm lại là phải có sự hướng ra bên ngồi nhưng đúng hướng.
Thực chất của đoàn kết quốc tế là nhằm tập hợp lực lượng bên ngồi, thanh thủ
sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng chiến thắng kẻ thù chung.
Vì lợi ích chung: đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, thực
hiện đồn kết quốc tế khơng phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
cịn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của
thời đại.
Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần,
song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường

dân tộc, sức mạnh của tinh thần đồn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất
khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử
thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đồn kết dân tộc phải gắn liền với đại đoàn kết
quốc tế, đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn quốc tế.
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đồn
kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản chủ nghĩa
nói chung; đồn kết với nước Nga xơ viết, với liên xô và sau này mở rộng ra tất
cả các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là đoàn kết
với Lào và Campuchia, hai nước có cùng cảnh ngộ với Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đồn kết dân tộc phải gắn liền với
đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc
tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
13


cách mạng Việt Nam, thì đồn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn tồn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.
Thực hiện đồn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vơ sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đồn kết quốc tế;
thực hiện đồn kết quốc tế khơng phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước
mà cịn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bơ trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu của cách mạng
của thời đại.

2.
LỰC LƯỢNG ĐỒN KẾT VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
2.1.
Các lực lượng đoàn kết
- Khái niệm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song chủ
yếu tập trung vào ba lực lượng: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hịa bình, dân chủ thế giới, trước hết
là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới – lực lượng nịng cốt của
đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đồn kết của giai cấp vô sản quốc tế
là một bảo đảm vững vàng cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá rất
cao vai trị của khối đại đồn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 năm
1920, tại đại hội Tua của đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân
dân toàn thể loài ngời, nhân dân tất cả đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả,
chúng tôi kêu gọi: Các đồng chú, hãy cứu chúng tôi”. Tiếp nhận học thuyết Mác
– Lenin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, tìm thấy “cái cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của các dân tộc
bị nơ dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng ửng hộ mạnh mẽ cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là một phong trào cộng
sản và công nhân thế giới; là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa; là
quốc tế thứ ba và sau này là cục thông tin quốc tế. Từ đó, người đã giành nhiều
thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết, thống nhất phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
- Chủ trương đồn kết giai cấp vơ sản các nước, đồn kết giữa các Đảng cộng sản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trị của giai cấp vô
sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi tồn thế giới.
- Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là
kẻ thù chung của nhân dân lao động tồn thế giới. Trong hồn cảnh đó, chỉ có
sức mạnh của sự đồn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động

14


-

-

-

-

2.2.
-

-

tồn thế giới theo tinh thần “Bốn phương vơ sản đều là anh em” mới có thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Thắng lợi hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam khơng thể tách
rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác, các Đảng cộng sản và cơng nhân thế giới. Nó khẳng định trên thực tế
những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa đế quốc vơ sản mà sinh thời Hồ Chí
Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ.
Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối
kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc… nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị ban
phương đông quốc tế cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn về đoàn kết lại
để lập cơ sở cho một liên minh phương đông tưởng lai, khối liên minh này sẽ là

một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Thêm vào đó, để tăng cường
đồn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản chính quốc như hai cách
của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh cịn đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng mọi
cách phải “Làm cho đội tiền phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với
giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này;
chỉ có sự hợp tác này mới đảm bảo cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng
lợi cuối cùng”. Người nói, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp
vơ sản chính quốc và nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
Đối với các lực lượng tiến bộ những người u chuộng hịa bình dân chủ, tự do
và cơng lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.
Sau khi Việt Nam giành độc lập, thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần
tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hồ bình”. “thái độ
nước Viêt Nam đối với những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với ngũ
cường là một thái độ bạn bè”.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hịa bình, tự do, và cơng
lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ tạo nên những tiếng
nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sử trí thức và từng con
người trên hành tinh.
Hình thức đồn kết
Đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề sách lược,
một thử đoạn chính trị nhất thời mà là vẫn đề có tính ngun tắc, một địi hỏi
khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Đối với các dân tộc trên các bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh giành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
15


-


-

-

3.
3.1.
-

-

tương đồng về lịch sử, văn hóa, và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp năm
1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết
định thành lập riêng một mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam,
Lào, Campuchia, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh.
Mở rộng các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt tinh thần “Vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc,
nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam; thực hiện
đồn kết các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc. Với các dân
tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hịa bình mới
thực hiện được.
Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các
quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm tạo
thế dựa cho cách mạng Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đại đồn kết vì thắng lợi cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận
đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt trận nhân dân Á
– Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to
lớn nhất của tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh.
NGUN TẮC ĐỒN KẾT QUỐC TẾ

Các nguyên tắc
Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình:
+ Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng đồn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng
nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và cơng nhân tồn thắng”.
+ “Có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin,
xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới, vận dụng chủ nghĩa Mác –
Lenin sáng tạo, hiệu quả vào thực tế của mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều.
+ “Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng của những người cùng chung lý tưởng,
mục tiêu đấu tranh. Khắc phục tư tưởng so sánh, “nước lớn”, “đảng lớn”.
Khơng áp đặt, nói xấu, cơng kích, dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế gây
sức ép cho nhau.
+ “Có lý”, “có tình” thể hiện tính nguyên tắc và là một nội dung chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó giúp củng cố khối đồn
kết quốc tế của giai cấp cơng nhân và tình đồn kết trong nhân dân lao động.
Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tư do và bình đẳng giữa các dân tộc:
+ Độc lập tự do được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải khơng ai chối cãi
được”. Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh cho sự độc lập, tự do của dân tộc mình
và cả các dân tộc khác.
16


Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, cổ vũ, ủng hộ nhiệt thành cho đấu tranh của các
dân tộc vì các quyền cơ bản của hộ. Nêu cao tư tưởng độc lập tự do và bình
đẳng. Hồ Chí Minh là ngưởi khởi sướng, cầm cờ và là hiện thân của những
khát vọng của các dân tộc, thực hiện đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên
thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Đồn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới trên cơ sở hịa bình trong cơng
lý:
+ Hịa bình, chống chiến tranh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nó bắt nguồn từ truyền thống hịa hiếu của dân tộc Việt Nam kết

hợp với chủ nghĩa nhân đạo và những giá trị văn hóa nhân loại.
+ Hịa bình và đấu tranh bảo vệ hịa bình là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí
Minh. Nhưng khơng phải là một nền hịa bình trừu tượng, mà là “một nền hịa
bình chân chính xây trên cơng bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh
xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia.
Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường:
+ Nội lực là nhân tố quyết định sự đoàn kết. Nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy
tác dụng thông qua lực nội sinh. Hồ Chí Minh nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người ta giúp cho, thì trước hết
phải tự giúp mình đã”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Người nhấn mạnh:
phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to
tiếng mới lớn…
+ Muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự
chủ đúng đắn. Thắng lợi của cách mạng tháng tám 1945 và kháng chiến chống
thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo
của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Với đường lối độc lập tự chủ trên cơ sở
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hịa lợi ích dân tộc và quốc tế,
nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc và Liên Xơ đã đóng góp lớn và thắng
lợi trước đế quốc Mỹ.
Ý nghĩa
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp phát triển kinh tế quốc
phòng, an ninh, đối ngoại. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Tham khảo và
tiếp thu kinh nghiệm của nước ngồi nhưng khơng bị áp đặt hoặc bị lệ thuộc. Có
tiềm lực kinh tế đủ mạnh, cơ cấu kinh tế hợp lý, sức cạnh tranh, phát triển kết
cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, có một số ngành cơng nghiệp then chốt.
Phải có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mơ, bảo đảm an ninh lương thực, an tồn năng lượng, tài chính, mơi
trường.
+

-


-

3.2.
-

-

17


KIẾN THỨC VẬN DỤNG
1. TƯ TƯỞNG ĐỒN KẾT TƠN GIÁO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: đã là người Việt Nam dù là lương hay giáo đều có chung cội

-

nguồn sâu xa cùng nịi giống “con Rồng cháu Lạc”, cùng chung vận mệnh dân tộc
và gắn bó với nhau bởi truyền thống đồn kết. Truyền thống đoàn kết của dân tộc
đã được xây dựng trên cơ sở sự tương đồng, thống nhất về nhu cầu và lợi ích. Lợi
ích đó là: Đất nước phải có độc lập, nhân dân phải được sống trong tự do. Trong
kháng chiến chống Pháp, Hồ Chủ tịch viết: “Cuộc kháng chiến toàn quốc đã bước
sang năm thứ tư. Đồng bào đều biết rằng: ngày bắt đầu kháng chiến, lực lượng quân
sự của giặc Pháp mạnh hơn ta. Thế mà ta càng ngày càng thắng lợi. Đó là nhờ sức
mạnh đại đoàn kết của toàn dân và sự hăng hái tham gia kháng chiến của mọi
người, giáo cũng như lương”. Sau khi miền Bắc được hồn tồn giải phóng và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn cho miền Nam để hồn
thành cách mạng giải phóng dân tộc trong cả nước, lúc này động lực giải phóng dân
tộc vẫn là hàng đầu. Bên cạnh động lực này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến
những động lực khác: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các

tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống ấm no, xây dựng Tổ quốc, phải chấp hành
đúng chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả các tơn giáo”. Người cịn chỉ
rõ: “Đảng Cộng sản chẳng những khơng tiêu diệt tơn giáo mà cịn bảo hộ tôn giáo.
Đảng Cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột người”.
Đồn kết tơn giáo được xây dựng trên cơ sở kết hợp đúng đắn các lợi ích cơ bản
của công dân trong xã hội làm mẫu số chung.
Đồn kết tơn giáo là một trong những cơ sở nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, là bộ phận hữu cơ bảo đảm cho cách mạng giành được thắng lợi dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, để bảo đảm sự đoàn kết giữa các lực lượng
được bền chặt, thống nhất phải dựa trên cơ sở lợi ích: kết hợp giữa lợi ích dân tộc
với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, trong đó có bộ phận quan trọng là
đồng bào có tơn giáo.
Để thực hiện chiến lược đại đồn kết tồn dân, đồn kết tơn giáo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trương phát huy những yếu tố tương đồng, dùng cái tương đồng để
khắc phục những dị biệt, kiên quyết tránh xúc phạm đến đức tin của đồng bào có
tơn giáo. Người đã tìm thấy mẫu số chung có ý nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho đại
đoàn kết tồn dân, đồn kết tơn giáo là “khơng có gì quý hơn độc lập tự do”; là xây
dựng đất nước Việt Nam độc lập, hồ bình, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh,
mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới. Tháng 1/1946, trước vận mệnh Tổ quốc lâm nguy, khi
18


-

mà thực dân Pháp rắp tâm quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết bài đăng trên báo Cứu quốc, Người nhấn mạnh: “Nước khơng độc
lập thì tơn giáo khơng được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã”.
Để đồn kết tơn giáo, Hồ Chủ tịch có thái độ ứng xử rất mềm dẻo, tế nhị với các
chức sắc tôn giáo, quan tâm đến cuộc sống đời thường của tín đồ. Hơn ai hết,

Người ln hiểu rằng: chức sắc các tôn giáo là những người thay mặt đức Chúa,
đức Phật... “chăn dắt” phần hồn tín đồ các tơn giáo, giáo dân tin họ, nghe theo họ
tức là tin và nghe theo đức Chúa, đức Phật; vì vậy, uy tín và tiếng nói của họ đối với
tín đồ tơn giáo là rất lớn. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln bày tỏ thái độ
thân thiện, đồn kết thân ái và cộng tác khá chặt chẽ với nhiều vị Giám mục, Linh
mục, Hoà thượng, Thượng toạ, Chưởng quản... chẳng hạn như Giám mục Lê Hữu
Từ, Hoàng Quỳnh, Linh mục Phạm Bá Trực, Thượng toạ Thích Mật Thế, Chưởng
quản Cao Triều Phát... Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ Nô-en,
Người viết: “Nhân dịp lễ Nô-en, tơi kính chúc Cụ mọi sự lành để phụng sự Đức
Chúa và để lãnh đạo đồng bào Công giáo tham gia kháng chiến, đặng tranh lại
thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”.
Đối với Phật giáo, nhân những ngày lễ lớn như ngày Đức Phật Thích Ca thành đạo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư chúc mừng, điều đó làm cho các tín đồ Phật
giáo rất phấn khởi vì Cụ Chủ tịch mặc dù rất bận song vẫn quan tâm đến ngày vui
của họ. Lời lẽ, ngôn từ trong thư rất giản dị, mộc mạc nhưng lại hết sức gần gũi với
kinh sách nhà Phật. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các vị tăng ni và các tín đồ thân
mến. Nhân dịp lễ Đức Phật Thích Ca thành đạo, tôi thân ái gửi đến các vị tăng ni và
đồng bào tín đồ lời chào đại hồ hợp”.
Đối với tín đồ các tơn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ quan tâm đến đời
sống tâm linh của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, Người đặc biệt quan tâm đến
đời sống hằng ngày của người dân có tơn giáo. Người thường xuyên nhắc nhở cán
bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào, từ ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải được chữa bệnh. Người đã nói: giáo
dân khơng thể chịu đói, chịu rét đi lễ nhà thờ, do vậy phải chăm lo cho họ “phần
xác” no ấm, “phần hồn” vui vẻ; các cơ sở thờ tự của các tơn giáo như đình chùa,
miếu mạo, thánh thất, nhà thờ phải được tu sửa, bảo vệ.
Là một lãnh tụ cộng sản, trên cương vị Chủ tịch nước nhưng Hồ Chí Minh hồn
tồn khơng xa lạ với đồng bào và chức sắc các tôn giáo. Ngược lại, với thái độ chân
thành, bằng phương pháp cách mạng mềm dẻo song rất kiên quyết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trở nên gần gũi, thân thuộc với đồng bào và chức sắc các tơn giáo... Hồ

thượng Thích Đơn Hậu đã may mắn được gặp Hồ Chủ tịch ba lần, tâm sự chân
thành: “Tơi đã hiểu vì sao Người là một lãnh tụ sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam mà Người vẫn thu hút được tất cả các thành phần khác trong xã hội về đứng
19


-

chung quanh mình làm việc lớn cho dân cho nước... Tơi là một tu sĩ có tham gia
hoạt động cách mạng, tôi nguyện suốt đời đi theo con đường yêu nước, yêu dân mà
Hồ Chủ tịch đã vạch ra... Nhớ ơn Người, khơng có gì q hơn thực hiện lời dạy bảo
của Người”.
Hồ Chủ tịch luôn đánh giá đúng giá trị nhân bản trong các tôn giáo, phân biệt các tổ
chức và giáo dân chân chính với tổ chức, cá nhân giả danh tơn giáo để đồn kết tập
hợp lực lượng cách mạng. Thật vậy, Hồ Chí Minh đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu tất
cả các tơn giáo đang có mặt ở Việt Nam và Người rút ra nhận xét khái quát: các tôn
giáo ở Việt Nam dù là nội sinh hay ngoại sinh, đều chứa đựng trong giáo lý của
mình những lời khuyên làm điều thiện, tránh điều ác. Với những lời văn mộc mạc,
chân thành có sức thuyết phục lịng người, khi nói về các vị sáng lập ra các tơn
giáo, Hồ Chí Minh viết:
“Chúa Giê-su dạy: đạo đức là bác ái
Phật Thích Ca dạy: đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa”.
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tơn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả…”.
Bên cạnh tuyệt đại bộ phận tín đồ tơn giáo chân chính, cũng cịn một bộ phận lợi
dụng tơn giáo để hoạt động chống phá cách mạng, phá hoại khối đoàn kết tơn giáo.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra chuẩn mực để phân biệt rõ ngay - gian, chính - tà. Người ca
ngợi những tín đồ chức sắc tơn giáo nêu cao chính nghĩa tận tâm, tận lực đấu tranh
vì sự nghiệp giải phóng nhân dân khỏi ách nơ lệ, áp bức, đói nghèo… Khi nói về

vai trị bổn phận của người Cơng giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “chỉ tay, day trán”
vạch mặt Ngơ Đình Diệm: “Tự xưng là Cơng giáo nhưng nó đang ra tay khủng bố
đàn áp, giết hại đồng bào miền Nam. Vì vậy Diệm là tay sai của Sa Tăng chứ nào
phải tín đồ của đức Chúa”.
Trên đây là một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn
giáo. Quán triệt, vận dụng và thực hiện tốt những nội dung cơ bản nêu trên là thiết
thực góp phần xây dựng khối đồn kết tơn giáo, làm cơ sở xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vững mạnh.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tơn giáo, trong đó, các tôn giáo lớn trên thế giới
như: Công giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành đều có mặt ở Việt Nam. Bên cạnh đó
cịn có một số tơn giáo ra đời trong lòng dân tộc như: đạo Cao đài, đạo Hoà hảo…
cũng xuất hiện khá sớm càng làm cho “bức tranh” tôn giáo ở nước ta đa dạng nhiều
mầu sắc. Đồng bào theo tôn giáo chiếm số lượng khá đông (khoảng 20% dân số cả
nước). Đại đa số đồng bào có đạo là người lao động, ln “đồng hành” cùng dân
tộc và có nhiều cơng lao đóng góp trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây,
20


cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Tuy
nhiên, tôn giáo là một lĩnh vực tinh tế và nhạy cảm trong đời sống xã hội, các thế
lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để chống phá chủ nghĩa xã hội và thực tiễn
chứng minh rằng kẻ thù chưa khi nào từ bỏ lợi dụng tôn giáo để chống phá cách
mạng Việt Nam. Trong chiến lược “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng nước ta, chúng luôn sử dụng vấn đề "dân tộc, tôn giáo" để
gây mất ổn định chính trị, chia rẽ đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo, hịng làm suy
yếu và tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đồn kết tơn giáo trong tình hình hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định quan điểm, chính sách tôn giáo nhất quán là: “Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất qn
chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo tôn

giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đồn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không
theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo...”.
2. GIẢI PHÁP

Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tơn giáo, giáo dục
lịng u nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá tốt đẹp của đất nước.
Đây là giải pháp có vai trị quan trọng để nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết cho
nhân dân, là cơ sở quan trọng để nhân dân hiểu rõ hơn về nguồn gốc, bản chất của
tôn giáo, trên cơ sở đó có hành động đúng đắn, phù hợp. Thơng qua cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, góp phần định hướng nhận thức cho nhân dân, giúp nhân
dân hiểu được giá trị, vị trí to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong đời sống xã hội nước ta. Đặc biệt, phải hết sức coi trọng tuyên truyền
giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo để
nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng và thực hiện tốt, tạo niềm tin của nhân dân không phân
biệt tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, phát huy vai trị, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện tư tưởng
Hồ Chí Minh về đồn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Đây là giải pháp quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết tơn giáo ở Việt Nam. Bởi vì, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đồn
kết tơn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc trước hết vào sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trị, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã
hội trong tồn bộ hệ thống chính trị các cấp. Đảng, Nhà nước ta luôn bám sát thực
tiễn đất nước, kịp thời đề ra những chủ trương, biện pháp thích hợp để thực hiện
21


chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo... nhằm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của cách mạng.

Ba là, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống
nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đơng đồng bào theo
tơn giáo.
Đây là giải pháp cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang tính chiến
lược lâu dài đối với cơng tác tơn giáo. Bởi vì, nước ta với hơn 2/3 dân số là nông
dân, điều kiện kinh tế - xã hội tuy đã được cải thiện song cịn khơng ít khó
khăn. Đặc biệt trong đó đồng bào theo tơn giáo phần đông là người lao động nghèo
(chủ yếu là nông dân) đời sống cịn nhiều khó khăn, thu nhập thấp so với mặt bằng
chung của tồn xã hội. Chỉ có ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện và từng
bước nâng cao đời sống nhân dân, đưa ánh sáng của Đảng đến với vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đơng đồng bào theo tơn giáo thì mới là
giải pháp hữu hiệu nhất, giúp nhân dân cảnh giác với sự tuyên truyền xuyên tạc của
kẻ thù, không bị thủ đoạn truyền đạo trái phép lừa bịp.
Bốn là, ngăn chặn kịp thời và kiên quyết trừng trị những âm mưu hành động lợi
dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán: tôn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo và tự do
khơng tín ngưỡng tơn giáo của công dân, kiên quyết trừng trị các âm mưu hành
động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của kẻ thù. Quan điểm trên chính là
sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tơn giáo nói
chung, về đồn kết tơn giáo nói riêng trong hồn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng
nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo cho đến nay vẫn cịn nguyên giá trị, là
cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước ta vận dụng trong thực hiện chính sách tơn
giáo ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tư tưởng của Người chính là góp phần xây
dựng, củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc vững mạnh.
3. MỤC ĐÍCH

Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các
dân tộc, các tôn giáo. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh:

Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương
đồng; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, tôn trọng
22


những điểm khác biệt khơng trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc để tập hợp
rộng rãi tất cả đồng bào và chức sắc tôn giáo vào khối đại đồn kết dân tộc.
Đồng thời, chủ động phịng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc hoặc những hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo trái quy định của pháp luật.
4. HẠN CHẾ
- Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây mất ổn

định chính trị - xã hội.
Lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tơn giáo, một số phần tử cực đoan trong tôn
giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt
Nam tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu có
nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước Việt Nam,
nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc Đảng và
Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “khơng có tự do tơn giáo”. Họ cho
rằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo (trước đây) và Luật Tín ngưỡng, tơn giáo hiện
nay là sự “đàn áp tôn giáo” bằng pháp luật của Nhà nước Việt Nam, không tạo điều
kiện cho các tôn giáo phát triển; từ đó, kht sâu mâu thuẫn giữa các tơn giáo với
chính quyền các cấp. Đồng thời, móc nối, câu kết với một số tổ chức, cá nhân ở
trong nước và nước ngồi thành lập hoặc tích cực tham gia các hội, nhóm trái pháp
luật, mang danh nghĩa tơn giáo để tập hợp, phát triển lực lượng chống đối. Một số
chức sắc cực đoan lợi dụng các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp để kích động tín
đồ xuống đường biểu tình, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Điển hình như, lợi
dụng sự cố mơi trường ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra, một số chức sắc

cực đoan trong Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ chức, kích động giáo dân tổ
chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo vệ mơi trường”, gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các địa phương, gây bức xúc trong quần chúng
nhân dân những người không theo tôn giáo, khiến cho mối quan hệ đồn kết lương
- giáo có nơi, có lúc bị rạn nứt nghiêm trọng.
-

Lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc,
gây mất an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội.
Tranh chấp, khiếu kiện, địi/xin lại, mua bán, lấn chiếm, chuyển nhượng, hiến tặng
đất đai trái pháp luật, xây dựng cơ sở sinh hoạt, thờ tự trái quy định liên quan đến
tơn giáo có chiều hướng gia tăng về số vụ, việc. Lợi dụng đường lối, chính sách đổi
mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta, các tôn giáo đều
gia tăng các hoạt động mở rộng cơ sở vật chất, dẫn đến phát sinh nhiều vụ tranh
23


chấp, khiếu kiện đất đai liên quan đến tôn giáo. Đáng chú ý, số đối tượng cực đoan
trong các tôn giáo cũng như các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Nhà nước Việt
Nam ở trong nước và nước ngoài đã triệt để lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện
về đất đai liên quan đến tôn giáo để kích động các hoạt động chống đối, gây tâm lý
bức xúc và phản ứng của tín đồ đối với chính quyền; gây chia rẽ giữa chính quyền
với tơn giáo. Nghiêm trọng hơn, họ cịn cố tình chính trị hóa sự việc, xuyên tạc, vu
cáo chính quyền “lấy đất đai của tôn giáo, bỏ quên quyền lợi nhân dân, bao che cho
doanh nghiệp, tàn phá mơi trường”, kích động tâm lý so bì, cho rằng Nhà nước đối
xử khơng bình đẳng giữa các tôn giáo. Một số tổ chức, cá nhân tơn giáo khơng hợp
tác với chính quyền trong việc kê khai, làm các thủ tục để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, nhằm lấn chiếm đất để mở rộng cơ sở thờ tự.
-


Thành lập các hội, nhóm mang danh tơn giáo, đạo lạ, gây mất đồn kết dân tộc và
đe dọa ổn định chính trị - xã hội
Lợi dụng vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào một số dân tộc thiểu số; sự sa sút
tính chân truyền trong các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; điều kiện khó
khăn về kinh tế, xã hội..., một số đối tượng đã thành lập các hội, nhóm mang danh
nghĩa tôn giáo, hoạt động vi phạm pháp luật, gây mất đoàn kết dân tộc. Chẳng hạn,
một số thế lực nước ngoài câu kết với số đối tượng xấu trong nước lập ra các tổ
chức dưới danh nghĩa tôn giáo nhưng mang màu sắc chính trị, như cái gọi là “Tin
Lành Đêga”, Hà Mòn ở khu vực Tây Nguyên, các tổ chức Tin Lành riêng của người
Mông ở khu vực Tây Bắc và tổ chức “Liên đoàn Khmers Kampuchea Krom”
(KKF) ở khu vực Tây Nam Bộ, để kích động các hoạt động ly khai, tự trị ở các
vùng trọng điểm, chiến lược, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đoàn kết toàn dân
tộc và sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trên thực tế, các hoạt động này là
một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội ở Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, như sự kiện “Vương quốc Mông” diễn ra ở tỉnh
Điện Biên vào tháng 5 – 2011; bạo loạn ở Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004,
2008...

-

Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã
hội.
Thời gian gần đây, tại một số cơ sở tôn giáo xuất hiện hiện tượng thương mại hóa
hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo, cụ thể là lợi dụng lòng tin của người dân để trục lợi,
phát triển các hoạt động tâm linh mang màu sắc mê tín, như hoạt động dâng sao giải
hạn, bói tốn, xem quẻ, cúng oan gia trái chủ, chữa bệnh bằng tâm linh... Các tổ
chức, cá nhân thiếu thiện chí đã triệt để lợi dụng các vấn đề đó để cơng kích, bịa
đặt, xun tạc, gây mất đồn kết trong nội bộ một số tơn giáo, kích động tín đồ tạo
24



phe phái để chống đối lẫn nhau, ly khai, thành lập tổ chức khác. Đây đều là các yếu
tố tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự đoàn kết nội bộ các tơn giáo cũng như khối đại đồn
kết tồn dân tộc.
Hoạt động lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là hoạt động hết sức nguy hiểm, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây chia rẽ giữa các tơn
giáo, giữa tơn giáo với chính quyền, giữa quần chúng giáo dân và những người
không theo tôn giáo, tạo ra những yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành
xung đột xã hội. Trên thực tế, đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ
nhân dân có liên quan tới tơn giáo do tác động bởi hoạt động nói trên. Sự ổn định
chính trị - xã hội ở một số nơi, một số lúc đã bị ảnh hưởng. Do đó, chủ động phịng
ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động này có vai trị quan trọng trong tồn bộ
cơng tác tơn giáo cũng như bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam.

KẾT LUẬN
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngồi đều ln ln tiềm
ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến
đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại
đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội
dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy
liên minh cơng nơng và trí thức làm nịng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì
độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch
25


×