Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bài tiểu luận tư tưởng trị nước của thương ưởng, giá trị và bài học lịch sử của nó đối với việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.42 KB, 22 trang )

Đề tài: “Tư tưởng trị nước của Thương Ưởng, giá trị và bài học lịch sử
của nó đối với việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện nay.”
LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại điểu là
Thương Ưởng có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp thống nhất đất
nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của
tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà
khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời gian ngắn vẫn
có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Thực vậy, chúng ta phải khẳng định rằng: Bất cứ một xã hội nào từ cổ đại cho đến
hiện đại muốn tồn tại và phát triển được đều phải dựa vào sự ổn định và các quy
tắc chặt chẽ. Pháp luật luôn là điều cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội và tư
tưởng Pháp trị của Thương Ưởng luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại.
Trong quá trình xây dựng xã hội hiện nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp thu những
hạt nhân tiến bộ của học thuyết này, như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp
với đời sống xã hội; và pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh. Trong
bài viết này, chúng tôi chọn đề tài: “ Tư tưởng trị nước của Thương Ưởng, giá trị
và bài học lịch sử của nó đối với việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay” nhằm mục đích giải thích, giới thiệu tư tưởng Thương Ưởng
và tìm hiểu xem tư tưởng đó ảnh hưởg như thế nào trong bối cảnh xã hội và hệ
thống pháp Luật Việt Nam hiện nay.
Do tư liệu ít, phạm vi bài viết rộng tôi không đủ khả năng khái quát hoặc đưa ra
nhận xét hợp lý khi kinh nghiệm thực tiễn không nhiều. Mặc khác do thơi gian gấp
rút đã làm cho tôi còn nhiều lung túng khi đưa ra nhận định. Vượt qua những khó
khăn ban đầu, tôi luôn cố gắng hoàn thành đề tài này một cách rõ ràng nhất, hy
vọng có thể đem đến một cái nhìn khác về tư tưởng này.
Xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN - CƠ SỞ THỰC TIỄN
I CƠ SỞ LÝ LUẬN - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỌC


THUYẾT PHÁP TRỊ CỦA THƯƠNG ƯỞNG
1.1 Tiểu sử Thương Ưởng
Thương Ưởng (năm 390 – năm 338 trước công nguyên), người nước Vệ , họ
Công Tôn đánh bại nước Nguỵ được ban tước Hầu, phong 15 ấp ở đất Thương
(nay là phía đông, tên Ưởng. Từ nhỏ ông đã thích học hình danh, từng nhậm chức
ở nước Nguỵ . Tần Hiếu Công nguyên niên (năm 391 trước công nguyên) “hạ lệnh
tìm người hiền trong nước”, Thương Ưởng rời Nguỵ sang Tần và giúp vua Tần cải
cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Ông
chủ trì 2 lần biến pháp cho nước Tần, đó là vào năm Hiếu Công thứ 3 và năm thứ
12 đạt được thành công lớn. Về sau nhân có công nam huyện Thương tỉnh Thiểm
Tây), lấy hiệu là Thương Quân, nên người đời gọi ông là Thương Ưởng. Hoạt
động biến pháp mà ông 2 lần chủ trì, ngoài biện pháp kinh tế cày cấy dệt vải, phát
triển sản xuất, còn có những nội dung quan trọng về cải cách pháp chế.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển học thuyết Pháp trị của Thương Ưởng
1.2.1 Quá trình hình thành:
Không phải ngẫu nhiên Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn
minh nhân loại, với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử. Nói như vậy không có
nghĩa bao trùm toàn khu vực mà chỉ có một số nơi, và ở một số thời điểm đã để lại
những phát kiến có ý nghĩa to lớn đối với đời sống con người. Về tư tưởng, Trung
Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc đã hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến
đỉnh cao. Thật ra, từ rất sớm người Trung Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải
thích thế giới, song đến thời Xuân Thu những nhà tư tưởng lại quan tâm hơn đến
vấn đề nhân sinh. Bởi chưa khi nào, và sẽ không đâu có bước lịch sử như ở Trung
Quốc lúc đó: đất đai rộng, chia thành nhiều nước nhỏ, dân đông mà loạn lạc liên
miên trong mấy thế kỷ; càng loạn dân càng khổ thì giớ trí thức ưu thời mẫn thế
càng đông, mà bậc quân tử nào chẳng ôm trí bình thiên hạ. Trong thời đại “ Bách
gia chư tử” ấy, có những khuynh hướng mà tư tưởng nhiều khi đối lập nhau, quan
trọng nhất phải kể đến là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia.
Nói chung các nhà tư tưởng có xu hướng coi triết thuyết họ sáng lập hay kế thừa
đều sống hết mình với nó. Từ góc độ lịch sử khách quan mà nói trong những dòng

tư tưởng kể trên không có dòng nào được coi là hoàn toàn, mà tùy vào thời điểm,
từng hoàn cảnh để xét đến tính hợp thời của nó
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
1.2.2 Học thuyết Pháp trị của Thương Ưởng
Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "Pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử
hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải
nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, và từ trên xuống dưới ai cũng
phải thi hành, không phân biệt giai cấp; “Pháp” đã định rồi thì không ai được bàn
ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”. "Pháp" được hiểu theo
hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính
nguyên tắc và khuôn mẫu. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những
nguyên tắc chính như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho
dân dễ hiểu, dễ thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách
phổ biến. Với Thương Ưởng, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân
định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều
qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của
thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp luật,
như vậy là nước trị. Công việc trị nước của vua phải thông qua bộ máy cai trị, là
quan lại, cái lợi của vua và bề tôi khác nhau, mà bản tính con người nói chung là
tư lợi nên bọn thần đều mang ít nhiều lòng phản nghịch. Như vậy vua trực tiếp trị
quan lại chứ không trị dân. Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo
gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người
có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống
làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi
hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất nhờ đó chỉ sau một
thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và sau này lần lượt thôn tính các nước

khác, thống nhất Trung Quốc.
Thứ 1: Nghiêm khắc thực hiện nguyên tắc “pháp trị”, “trọng hình”.
Thương Ưởng đã đem Pháp kinh của Lí Khôi nước Nguỵ thực hiện rộng rãi
ở nước Tần, xác lập nguyên tắc chỉ đạo pháp chế của “pháp trị” và “trọng hình”.
Thứ 2: Phế bỏ chế độ thế khanh thế lộc, thực hành chế độ quân công tứ
tước.
Biến pháp của Thương Ưởng quy định:
Tông thất phi hữu quân công luận, bất đắc vi thuộc tịch
(1)
(Người trong tôn thất mà chẳng có quân công thì không được ghi tên vào
phổ tịch)
Hữu công giả hiển vinh, vô công giả tuy phú vô sở phân hoa
(2)
(Người có công thì được hiển vinh, những người không có công tuy là giàu
có cũng không được vinh hoa)
Về mặt pháp luật, phế bỏ đặc quyền đẳng cấp mà quý tộc các cấp nối đời
hưởng thụ, thực hành chế độ có quân công thì được ban tước lộc, tức bất luận địa
vị cao thấp:
Hữu quân công giả, các dĩ suất thụ thượng tước
(3)
(Người có quân công, cứ theo đó mà được ban tước)
Năng đắc giáp thủ nhất giả, thưởng tước nhất cấp, ích điền nhất khoảnh,
ích trạch cửu mẫu
(4)
(Những ai chém được 1 đầu giáp sĩ phía địch sẽ được thưởng 1 cấp tước
vị, thưởng ruộng 1 khoảnh, thưởng đất 9 mẫu)
Thứ 3: Phế bỏ chế độ phân phong tông pháp, kiến lập chế độ quốc quân tập
quyền.
Cả nước:
Tập tiểu hương ấp tụ vi huyện, trí Lệnh, Thừa, phàm tam thập nhất huyện

(5)
(Hợp các thôn ấp nhỏ lại lập thành huyện, đặt chức Lệnh và Thừa, có tất cả
31 huyện)
Các huyện này trực tiếp lệ thuộc quốc quân, quan huyện lệnh địa phương
cũng do quốc quân bổ nhiệm hoặc bãi miễn, kiến lập chế độ quan liêu khống chế
tập quyền chuyên chế:
Thủ pháp thủ chức chi lại, hữu bất hành vương pháp giả, tội tử bất xá, hình
cập tam tộc
(6)
.
(Quan lại chấp hành pháp lện, quan lại đương chức, nếu không thực hành
theo vương pháp thì bị tội chết không tha, hình phạt đến cả ba họ)
Đối với những ai tố cáo, tố giác sẽ được thưởng:
Quan trưởng chi quan tước điền lộc
(7)
.
(Có thể kế thừa quan tước, ruộng đất cùng bổng lộc)
để dẹp nạn cát cứ phân liệt ở địa phương.
Thứ 4: Bỏ đường ngang đường dọc ở bờ ruộng, cải cách chế độ ruộng đất
và thuế khoá
Biến pháp của Thương Ưởng thực hành rộng rãi việc cải cách chế độ ruộng
đất, mở rộng cương giới của ruộng, quy hoạch lại ruộng đất, đem ruộng phân phối
cố định đến các hộ, đồng thời thay đổi phương thức lao dịch trước đây, thực hành
trưng thâu “cống thuế” và lao dịch, binh lính dựa theo hộ, theo nhân khẩu.
Thứ 5: Sáng lập chế độ thập ngũ liên toạ, thực thi pháp lệnh tưởng thưởng
người cáo giác
Đồng thời với việc thi hành chế độ cấp huyện, dưới cấp huyện còn lập ra các
tổ chức cơ sở như hương, ấp.
Lệnh dân vi thập ngũ, nhi tương mục tư liên toạ
(8)

(Lệnh cho dân cứ 10 nhà biên chế thành 1 thập, 5 nhà biên chế thành 1 ngũ,
kiểm soát và ràng buộc lẫn nhau)
Đồng thời thực hiện pháp lệnh thưởng người cáo giác kẻ gian, nghiêm trị kẻ
chấp chứa kẻ gian.
Bất cáo gian giả yêu trảm, cáo gian giả dữ trảm địch thủ đồng thưởng, nặc
gian giả dữ hàng địch đồng tội
(9)
(Ai không tố cáo kẻ gian sẽ bị chém ngang lưng, tố cáo kẻ gian và chém đầu
giặc, thưởng như nhau; dấu kẻ gian và hàng giặc, tội như nhau)
Thứ 6: Loại bỏ tập tục cũ đánh nhau vì việc riêng, phát triển kinh tế tiểu
nông cá thể.
Đối với tập tục lạc hậu đánh nhau vì việc riêng được bảo lưu trường kì ở
nước Tần, biến pháp của Thương Ưởng đã:
Lệnh dân phụ tử huynh đệ đồng thất nội tức giả vi cấm
(10)
.
(Lệnh cho dân, cha con anh em không được ở chung một nhà)
Dân hữu nhị nam dĩ thượng bất phân dị giả, bội kì phú
(11)
(Nhà có 2 con trai trở lên mà không chia ở riêng thì bị đánh thuế gấp đôi)
Đồng thời quy định nghiêm nhặt, trong dân gian:
Vị tư đấu giả, các dĩ khinh trọng bị hình đại tiểu
(12)
(Vì việc riêng mà đánh nhau, đều tuỳ theo mức độ mà bị hình phạt nặng
hoặc nhẹ)
Sự cải cách này không chỉ đem kết cấu đại gia tộc truyền thống phân thành
gia đình tiểu nông cá thể, mở rộng nguồn thu thuế cho nhà nước, mà còn xác lập
cơ chế giải quyết lấy pháp luật thay thế cho việc đánh nhau trong những vụ tranh
chấp, khiến cho:
Dân dũng vu công chiến, khiếp vu tư đấu

(13)
(Dân dũng cảm đánh nhau vì việc công, khiếp sợ đánh nhau vì việc riêng)
Những điều đó đã thúc đẩy sự phát triển của xã hộ nước Tần.
Do bởi thành tựu to lớn của biến pháp Thương Ưởng, nước Tần từ chỗ “di
địch hoá ngoại chi bang”, một nước lạc hậu ở biên thuỳ phía tây đã nhanh chóng
trở mình thành một nước tiên tiến. Mặc dù biến pháp xúc phạm đến lợi ích của thế
lực cũ, sau khi Tần Hiếu Công qua đời, Thương Ưởng cũng bị xe xé xác, nhưng
thành quả của biến pháp đã tạo điều kiện để nước Tần quật khởi và Tần Thuỷ
Hoàng thống nhất đất nước. Như Hàn Phi đã đánh giá:
Thương Quân tử nhi Tần pháp vị bại
(14)
(Thương Quân mất nhưng biến pháp của nước Tần vẫn không bị phế bỏ)
Trải qua biến pháp của Thương Ưởng, kinh tế nước Tần phát triển, xuất hiện
cảnh tượng phồn vinh. Nhân dân cả nước xem việc đánh nhau vì việc riêng là
nhục, xem chiến đấu lập công cho đất nước là việc vinh, quân đội không ngừng
lớn mạnh, nước Tần với nước giàu quân mạnh đã trở thành nước mạnh nhất ở hậu
kì thời Chiến quốc.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN - SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT PHÁP TRỊ ĐẾN
VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.1Sự ảnh hưởng giữa Thuyết Pháp Trị đến việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền
củaViệt Nam
Ngay từ thời trung cổ, đại diện tiêu biểu của Pháp gia là Hàn Phi đã xác định: nội
dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương
dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Với tác phẩm Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã chính
thức khai sinh học thuyết pháp trị của phương Đông, đồng thời đưa ra lời giải cho
bài toán lịch sử hóc búa. Hàn Phi đã kết hợp các yếu tố “thuật”, “thế”, “pháp” của
Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng, hoàn thiện tư tưởng pháp trị của các bậc
tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản Trọng và Tử Sản để xây dựng thành học thuyết
chính trị độc lập. Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao pháp luật với

tư cách là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái
làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi
thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa” . Như vậy, bản chất của pháp luật
trong nhà nước pháp trị là hà khắc và gần như chỉ thể hiện được tính giai cấp của
nó nhằm phục vụ tuyệt đối cho sự chuyên quyền. Còn trong mô hình nhà nước
pháp quyền mà các học giả xây dựng, tiêu biểu là mô hình nhà nước pháp quyền
trên cơ sở biện chứng của Heghen thì trước hết phải là một Nhà nước hợp lý, chỉ
có thể được hình thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội công dân). Luật
pháp của Nhà nước pháp quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một
áp lực nào, vì nó là sản phẩm của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là
hệ quả chứ không phải là tiền đề của Nhà nước pháp quyền . Theo đó nội dung của
pháp quyền là pháp luật tối thượng với bản chất dân chủ và nhân quyền, pháp luật
tối cao là pháp luật đảm bảo cho hết thảy các quyền của mọi công dân. Tính xã hội
của pháp luật trong nhà nước pháp quyền cũng nhờ đó mà bộc lộc rõ rệt. Và cũng
chính bởi lẽ này mà pháp luật trong nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự hoàn thiện
gần như tuyệt đối của một đội ngũ xây dựng và bảo vệ pháp luật với trình độ lập
pháp cao. Từ những phân tích trên ta có thể thấy được những khác biệt cơ bản,
thậm chí là trái ngược của khái niệm pháp trị và pháp quyền. Tuy vậy, vẫn có thể
nhận ra điểm chung giữa chúng là sự đề cao pháp luật. Chính sự giống nhau này
có thể đem lại rủi ro khi tiến đến xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền là làm
mô hình ban đầu thành một biến thể nguy hiểm: nhà nước pháp trị, nếu không xác
định rõ ngay từ đầu và kiên định mục tiêu sử dụng pháp luật, những yêu cầu về vai
trò, bản chất và nội dung của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại chúng ta là toàn cầu hóa. Một
trong những khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu hóa là sự thống nhất của các
bảng giá trị và khái niệm căn bản, trong đó có hai vấn đề chính: nhân quyền và
pháp quyền. Cách đây mấy chục năm, một số lãnh tụ ở châu Á cũng từng nhân
danh các giá trị truyền thống của châu Á để bẻ cong các định nghĩa về nhân quyền
và pháp quyền như thế. Tuy nhiên, ngày nay, những lập luận như thế đã thưa thớt
hẳn. Ai cũng thấy đó chỉ là những sự ngụy biện.

Thuật ngữ pháp quyền chỉ ra đời ở châu Âu từ thế kỷ 17 nhưng mầm mống của nó
thì đã manh nha từ thời cổ đại Hy Lạp khi Aristotle quan niệm: một xã hội tốt đẹp
là một xã hội được cai trị bởi luật pháp chứ không phải bởi bất cứ một cá nhân
nào. Nếu một cá nhân nào đó được cử lên để nắm quyền thì người đó nên đóng vai
trò của những kẻ bảo vệ và thực thi luật pháp mà thôi. Một chính khách nổi tiếng
khác thời cổ đại La Mã, Cicero, cũng quan niệm như vậy: Tất cả chúng ta đều là
nô lệ của luật pháp để tất cả chúng ta đều được tự do.
Cần chú ý là ngày xưa, ở Trung Hoa, cũng có tư tưởng pháp trị với những đại biểu
lớn như Thân Bất Hại, Thương Ưởng và Lý Tư. Tuy nhiên, đó chỉ là pháp trị (rule
by law) chứ không phải là pháp quyền (rule of law). Theo tư tưởng pháp trị cổ
điển, nhà vua cần dùng luật pháp để trị dân, nhưng bản thân vua thì lại ở trên luật
pháp. Tiêu biểu nhất là một câu chuyện liên quan đến Thương Ưởng, người chủ
trương pháp trị.
"Có lần thái tử phạm phép nước. Thương Ưởng bảo: Mọi người chẳng kể sang
hèn, đều bình đẳng về pháp luật. Nhưng thái tử sẽ kế ngôi vua, không thể bắt chịu
tội, mà hai viên sư phó dạy thái tử phải chịu tội thay vì không làm tròn trách
nhiệm dạy dỗ. Dân trong nước lại càng sợ lệnh của Thương Ưởng; chỉ trong mười
năm của rơi ngoài đường không ai dám lượm, tại rừng núi cũng không còn trộm
cướp."
Như vậy, tuy Thương Ưởng nổi tiếng cứng rắn, ông vẫn còn một nhân nhượng:
vua, từ vua tại vị lẫn vua trong tương lai. Với ông, vua ở trên, ở ngoài và được
miễn trừ bởi luật pháp. Cái gọi là "bình đẳng" trước pháp luật của ông, do đó, là
một sự bình đẳng có giới hạn, áp dụng cho mọi người, trừ những người trong
hoàng tộc.
Ở Tây phương ngày xưa, vua cũng được đặc quyền như thế. Bởi vậy mới có câu:
"Vua là luật" (rex lex / the king is the law). Năm 1644, Samuel Rutherford (1600-
1661) mới đổi lại thành: "luật là hoàng đế" (Lex, rex / the law is king). Sau đó, từ
John Locke (1632-1704) đến Montesquieu (1689-1755) tiếp tục khai triển ý tưởng
ấy. Ở Mỹ, năm 1776, Thomas Paine (1737-1809) viết trong cuốn Common Sense:
"Ở Mỹ, luật pháp là vua" (in America, the law is king). Năm 1780, John Adams

(1735 –1826) đúc kết thành công thức sau này sẽ là nguyên tắc chính của mọi nền
pháp quyền: "một chính phủ của luật pháp chứ không phải của con người".
Từ đó đến nay, quan niệm pháp quyền được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Tựu trung, có ba quan điểm chính: một, hình thức luận (formal/thin approach):
không cần biết đến nội dung, chỉ cần mọi luật lệ đều phải rõ ràng, bình đẳng, cố
định và phổ quát; hai, bản chất luận (substantive/thick approach): mọi luật lệ đều
nhằm bảo vệ một số hoặc toàn bộ quyền của con người; và ba, chức năng luận
(functional approach): một xã hội được xem là có tính pháp quyền cao nếu nhân
viên chính phủ có ít khả năng tự tung tự tác; ngược lại, sự tự tung tự tác càng cao
thì tính pháp quyền càng yếu và ít.
1.2Nội dung cơ bản của Nhà nước Pháp quyền
1.2.1 Đặc điểm của Nhà nước Pháp quyền
Dù cách diễn dịch có khác nhau đến mấy thì bản chất của cái gọi là pháp quyền
trên thế giới, tự bản chất, cũng giống nhau ở một số điểm căn bản:
Thứ nhất, phải có một hiến pháp và luật pháp phù hợp với những nguyên tắc căn
bản về nhân quyền, trong đó hai quyền căn bản là quyền tự do và bình đẳng của
mọi công dân phải được tôn trọng.
Thứ hai, không có bất cứ cá nhân nào, dù đang nắm giữ bất cứ chức vụ nào, có
thể đứng trên hay đứng ngoài pháp luật.
Thứ ba, các điều khoản trong hiến pháp và luật pháp, dù có tính chát phổ quát,
vẫn không quá mơ hồ để có thể bị lợi dụng (ví dụ các đuôi "theo khuôn khổ luật
pháp" ở Việt Nam, trong đó, ngay cả một bản thông báo không có người ký tên -
như bản thông báo cấm biểu tình ở Hà Nội ngày 18/8 vừa qua - cũng được xem là
"pháp luật" để dựa theo đó công an thẳng tay đàn áp những người xuống đường
chống Trung Quốc).
Những điều vừa nêu, thật ra, là những kiến thức thông thường. Điều tôi muốn
nhấn mạnh trong bài viết này là:
Trong việc bảo vệ một nền dân chủ pháp quyền, vai trò quan trọng nhất thuộc về
cơ chế: Nếu không có sự phân lập về quyền bính, chủ yếu giữa ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, sự độc lập của quân đội và công an cũng như sự tự do

của truyền thông, không có bất cứ một chế độ nào có thể nói được là thực sự dân
chủ và pháp quyền. Bởi ở đó luôn luôn có nguy cơ con người sẽ lấn át luật pháp,
sử dụng luật pháp như một công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình mà thôi.
Phải có những lãnh đạo dũng cảm và tự trọng, có tinh thần thượng tôn pháp luật,
biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của cá nhân, những lợi ích lâu
dài trên các lợi ích trước mắt.
Bảo vệ tính pháp quyền không hoàn toàn tùy thuộc ở cơ chế hay nhà cầm quyền
mà còn tùy thuộc ở người dân. Khi người dân có ý thức và có dũng cảm đứng lên
đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng các quyền được ghi nhận trong hiến pháp và
luật pháp, chính phủ mới tự hạn chế những ý định lạm dụng quyền lực của mình.
Nền dân chủ pháp quyền ở các quốc gia phát triển trên thế giới không tồn tại như
một phép mầu. Những người lãnh đạo phải tự đặt vào khuôn khổ của pháp luật
thường không phải vì lòng tốt mà vì bị bắt buộc. Ai bắt buộc? Trên lý thuyết: hiến
pháp và luật pháp. Nhưng trên thực tế, chính là dân chúng. Dân chúng đóng vai trò
kiểm tra, kiếm soát thường xuyên. Bất cứ sự vi phạm nào của giới lãnh đạo cũng
đều bị phản đối ngay tức khắc. Bằng biểu tình. Bằng kiến nghị. Và quan trọng
nhất, bằng lá phiếu.
Ở Việt Nam, gần đây, đã cho thấy manh nha việc một số người dân biết sử dụng
quyền công dân của mình để đòi hỏi nhà nước phải tôn trọng tính pháp quyền.
Ví dụ: Người dân kiện đài truyền hình và truyền thanh Việt Nam xuyên tạc và bôi
nhọ những người biểu tình chống Trung Quốc. Việc yêu cầu chính quyền Hà Nội
phải giải thích về bản thông báo cấm biểu tình ngày 18/8. Ngoài 11 cuộc biểu tình
ở Hà Nội từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 8 vừa qua, những đơn khiếu nại và kiện
tụng ấy là những dấu mốc rất đáng kể trong việc xây dựng một nền pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay.
1.2.2 Pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội
Một trong những quan điểm hàng đầu của Pháp trị cho rằng: việc ban hành pháp
luật phải thích ứng với thời đại, theo nguyên tắc thời biến pháp biến, " pháp luật
mà cùng với thời mà thay đổi thì nước trị, trị dân mà hợp với đời thì có kết quả
thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn. Đời đã thay đổi mà cấm lệnh

không biến thì nước bị chia cắt. Cho nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời
mà đổi, cấm lệnh cùng với đời mà biến " . Pháp trị cho rằng việc trị nước không có
cái nguyên tắc bất biến. Xét trong bối cảnh đương thời, khi tư tưởng Đức trị đã trở
thành chính thống và việc theo gương các vua nhân đức đời xưa trở thành mẫu
mực của đạo trị nước thì quan điểm trên đây của Pháp trị thực sự mang tính cách
mạng và đột phá cao.
Ngoài ra, các nhà Pháp trị còn cho rằng, pháp luật phải chiều theo tập quán của
dân chúng, " thánh nhân cai trị thì xem phong tục của thời đại thì pháp luật không
đứng được, mà dân loạn ". Tư tưởng này thể hiện cái khôn ngoan của kẻ cai trị:
dùng sức mạnh của tập quán để củng cố sức mạnh cho pháp luật và cũng chính tập
quán là chất xúc tác quan trọng để pháp luật phát huy vai trò trong cuộc sống. Tuy
nhiên, Hàn Phi cũng không cứng nhắc trong vấn đề này. Theo ông, việc pháp luật
thay đổi hay không đổi không phụ thuộc vào vấn đề cổ hay kim, cũ hay mới mà
cái chính là ở chỗ việc đó có hợp thời hay không: Thánh nhân không nhất định
phải theo cổ, giữ cựu lệ mà phải xét việc đương thời rồi tuỳ nghi tìm biện pháp:
Điều đó cho thấy, trong quan điểm của các nhà Pháp trị luôn thống nhất giữa tính
nguyên tắc với sự linh hoạt cần thiết của tư duy biện chứng sâu sắc.
Đây là quan điểm duy vật lịch sử mà cách đây trên 2000 năm các nhà pháp trị
bằng tư duy trực quan mách bảo đã tiếp cận được, thực sự là quan điểm tiến bộ, rất
duy vật mà cũng rất biện chứng khi xem xét vấn đề pháp luật và coi đây là cơ sở lý
luận, là xuất phát điểm khoa học quan trọng của học thuyết này. Xét trên phương
diện nhất định, quan điểm này phần nào " gần " với quan điểm của các nhà Mác
xít sau này khi cho rằng, pháp luật là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến
trúc, phản ánh hạ tầng cơ sở của xã hội, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì thượng tầng
kiến trúc phải thay đổi theo, " pháp luật không cao hơn cũng không thấp hơn trình
độ phát triển kinh tế- xã hội " (Mác). Yêu cầu đối với pháp luật là phải phản ánh
phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội.
Trên quan điểm đó, các nhà pháp trị đã đả phá kịch liệt quan điểm cổ hủ của Nho
gia luôn miệng " kính tiên thiên " cho rằng đời sau không bằng đời trước. Tiếc
thay, đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã thống trị ở Châu Âu và quay sang

thôn tính phương Đông, giai cấp phong kiến Trung Quốc và Việt Nam vẫn không
tỉnh ngộ, nhìn thẳng vào thực tại đất nước mà vẫn khư khư chủ trương " pháp tiên
vương " và cho Tây phương- những kẻ có súng ống, tàu đồng là " man di ", để rồi
nhanh chóng chuốc lấy thất bại.
Trong xây dựng pháp luật thực định, Pháp trị chủ trương pháp luật phải đơn giản,
dễ hiểu. Phải soạn thảo cho dân dễ biết, dễ thi hành. " Pháp luật không gì bằng
thống nhất và ổn cố, khiến cho dân biết được " . Từ chức năng là khuôn mẫu xử sự
chung nên pháp luật trong bản chất tự nhiên đã mang tính công bằng, trở thành đại
biểu của công lý. Pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, số ít, như vậy mới
tạo nên trật tự trong nước: " trị nước thì mình định pháp luật, đặt ra hình phạt
nghiêm khắc để cứu loạn cho dân chúng, trừ hoạ cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi
trời, bọn trẻ con được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau,
cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù, đó cũng là cái công cực lớn
vậy ". Pháp luật được quan niệm như là mẫu số chung để điều chỉnh các mối quan
hệ khác nhau trong xã hội quy về một trật tự thống nhất theo ý chí của giai cấp
thống trị.
Công bằng phải được thiết lập trên cơ sở mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật- là điểm tiến bộ của pháp trị so với chủ trương phân biệt đẳng cấp " lễ bất há
thứ dân, hình bất thướng đại phu " của đức trị (lễ không dành cho dân đen, hình
phạt không dùng cho người trên), thể hiện bước phát triển lớn trong quan niệm về
dân chủ của phương Đông. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị
nên nội hàm của khái niệm công bằng theo Hàn Phi còn phiến diện và khác xa so
với hiện nay bởi đó mới chỉ là quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa
các thành viên trong xã hội, (còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập đến).
Do vậy mà pháp luật chỉ được chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà xem nhẹ
quyền lợi của người dân và các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt
trừng trị mà chưa nhìn thấy một chức năng không kém phần quan trọng của pháp
luật là giáo dục.
Những quan điểm về ban hành pháp luật của Pháp trị như trên về cơ bản vẫn phù

hợp và giữ nguyên giá trị trong xây dựng pháp luật hiện đại. Đến nay, yêu cầu về
ban hành văn bản pháp luật vẫn phải là chính xác, đơn giản, dễ hiểu, chặt chẽ, phổ
thông. Xưa và nay với khoảng cách của trên 2 thiên niên kỷ
1.2.3 Pháp luật phải được thi hành triệt để
Việc ban hành pháp luật mới chỉ đáp ứng về điều kiện cần để điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Điều quan trọng hơn là những quy định pháp luật đó được tổ chức thực
hiện trong cuộc sống để trở thành pháp luật trên thực tế và mới đáp ứng được yêu
cầu của chính trị. Thống nhất giữa pháp luật và pháp chế luôn là một đòi hỏi khách
quan trong xây dựng và thực thi pháp luật. Nhận thức rõ điều này, các đại biểu
phái Pháp gia không chỉ coi trọng việc xây dựng pháp luật trên cơ sở khoa học mà
còn đòi hỏi nó phải được thực thi một cách triệt để: trong xã hội từ trên xuống
dưới, từ vua quan cho đến thần dân đều phải tuân thủ nghiêm minh.
Tính nghiêm minh của pháp luật được thể hiện trước hết ở việc thưởng phạt. Nhà
vua không được tuỳ tiện mà phải theo đúng phép nước chí công vô tư " dùng pháp
luật để trị nước là để khen đúng người phải, trách đúng kể quấy trị tội thì không
chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót các dân thường " và " nếu quả
thật có công thì dù là kẻ không thân mà hèn mọn cũng thưởng, nếu quả thật có tội
thì dù là kẻ thân ái cũng phạt " " không tránh người thân và đại thần, thi hành với
cả người mình yêu " Những quan điểm đó cho thấy việc thi hành pháp luật của
Hàn Phi là hết sức triệt để, không có chỗ cho những tình cảm cá nhân, hay địa vị,
tư lợi mà chỉ dành cho phép công duy nhất. Chủ trương của Pháp trị là đề cao
tuyệt đối pháp luật, vứt bỏ hết thi- thư- lễ- nhạc là những cơ sở giáo hoá của đức
trị để đưa mọi người vào một khuôn khổ duy nhất là luật pháp. Thậm chí, giữa
vua- tôi cũng không cần bày tỏ tình cảm kính trọng, thân ái mà chỉ cần làm theo
đúng pháp luật. Với các nhà pháp trị, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực
sự là thứ đạo đức không có tình cảm.
Với vua là người đề ra và nắm pháp luật trong tay, cũng là người cao nhất có
quyền thực thi pháp luật, hơn ai hết Vua phải gương mẫu tự đưa mình vào khuôn
khổ trong thi hành pháp luật. Bậc minh quân phải là người có tinh thần thượng tôn
pháp luật và bắt các quan lại thi hành luật pháp một cách đúng đắn: "Người thi

hành pháp luật mà cương cường thì nước mạnh, người thi hành pháp mà nhu
nhược thì nước yếu".
Vai trò và sự sáng suốt của vua là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho việc thực thi pháp
luật có hiệu quả. Muốn vậy, vua phải gạt bỏ hoàn toàn những riêng tư để chỉ tuân
theo pháp luật: " nhà cầm quyền nào biết từ bỏ tư lợi tà tâm mà theo phép công
(tức pháp luật) thì dân sẽ yên, nước sẽ trị; biết từ bỏ hành động riêng tư mà làm
theo phép công thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu ". Ý muốn cá nhân là cội nguồn của
tình trạng vô pháp luật, cảnh báo nguy cơ: khi pháp luật bị xem thường và đặt
dưới ý chí chủ quan của người cầm quyền là lúc xảy ra tai hoạ của sự suy vong.
Như vậy, trong khi Đức trị chủ trương vua nêu gương nhân đức, Pháp trị lại chủ
trương vua nêu gương tuân thủ pháp luật.
Pháp luật là vũ khí sắc bén để bảo vệ uy thế của vua. Vì vậy, vua phải sử dụng
pháp luật một cách hữu hiệu bằng việc nắm trong tay các quyền thưởng phạt để
chế ngự bề tôi, yêu cầu việc thưởng phạt phải xác thực, đúng người và đích đáng
mới phát huy hiệu quả của pháp luật. " Phạt tội một kẻ mà ngăn cấm được mọi sự
gian tà trong nước ( ). Kẻ bị phạt nặng là kẻ cướp, kẻ sợ hãi là lương dân ".
Đây là quan điểm dùng hình phạt để bỏ hình phạt (hình dĩ khử hình) của Pháp trị,
trái ngược với Nho giáo là bãi bỏ hình phạt để không còn hình phạt nữa (hình bất
hình). Ở đây, các nhà pháp trị đã tiếp cận đến nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục
với trừng phạt; hình phạt là để răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tư tưởng này khác xa
so với tư tưởng của Phương Tây cổ đại (mà tiêu biểu là Bộ luật La Mã), trong đó
quy định nguyên tắc trừng phạt mang tính trả thù ngang bằng máy móc và thô
thiển. Chẳng hạn, có những quy định nếu ai đó phạm phải một trong các tội như:
giết người, đánh người bị thương hay làm gãy tay mù mắt người khác thì người
đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Đáng buồn hơn " quy tắc trả thù đó tồn tại
suốt lịch sử tiến triển của pháp luật: nó xuất hiện trong luật báo thù (Lex talionis)
của La Mã; nó đóng vai trò quan trọng trong bộ luật của Hamourabi, trong luật của
Moixse "dĩ oán báo oán ", và người ta có thể dễ dàng nhận ra nó ở phía sau nhiều
điều lệ trong các bộ luật hiện hành
Ở đây, tư tưởng phương Đông đã thể hiện tầm cao hơn hẳn phương Tây, vượt qua

những giới hạn nhận thức hạn hẹp và cụ thể để vươn đến mục tiêu xa hơn là đáp
ứng những yêu cầu về chính trị, phản ánh ưu thế của một tư duy duy vật biện
chứng với một bên là tư duy siêu hình máy móc.
Ngoài ra, đề cập đến việc thi hành pháp luật, pháp luật phải được phổ biến (trái
với Thuật được dùng bí mật) để không một người dân nào có thể viện cớ rằng
mình không biết pháp luật nên lỡ phạm pháp. " Pháp luật là cái chép trong sách
vở, bày ở công sở và công bố cho toàn dân pháp luật không gì bằng phải bày ra
cho mọi người biết mà Thuật thì không muốn cho người khác thấy. Bậc minh chủ
nói đến pháp luật thì hết thảy những kẻ ty tiện đều được nghe biết ".
Quan điểm này trái ngược với các nhà đức trị là luôn chủ trương không phổ biến
pháp luật nhưng thể hiện tính hợp lý ở chỗ: việc phổ biến, tuyên truyền là bước đi
đầu tiên trong tổ chức thực thi, bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống với mục
đích cuối cùng làm cho ý chí của giai cấp thống trị trở thành hiện thực trong thực
tế đời sống xã hội.
Trên quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết pháp trị đã phản ánh đúng quy luật vận
động của lịch sử, trở thành đại biểu cho tiếng nói của giai cấp địa chủ phong kiến
đang lên thay thế địa vị giai cấp quý tộc chủ nô trong xã hội Trung Quốc cổ đại.
Mang lập trường của giai cấp tiến bộ đương thời, các nhà pháp trị đã tìm thấy vai
trò vô cùng quan trọng của pháp luật trong việc duy trì, bảo vệ quyền lực thống trị,
coi đó là vũ khí đặc biệt trong việc quản lý xã hội, nhờ đó, giai cấp thống trị (mà
nhà Tần là đại biểu) tạo được sự thống nhất bên trong để có điều kiện đối phó với
tình hình bên ngoài (tranh bá giữa các nước) để hoàn thành sứ mệnh lịch sử: lần
đầu tiên đưa sự nghiệp thống nhất Trung Quốc đến thắng lợi.
Pháp trị ra đời đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên, do đã thủ tiêu những
giá trị nhân đạo, nhân văn là hạt nhân tích cực trong nội dung các học thuyết "Đức
trị ", " Kiêm ái " nên ở phương diện này Pháp trị lại phản ánh một bước lùi lịch
sử. Như một đứa con yêu có công lao lớn nhưng cũng mang nhiều lỗi tật, tuy được
giai cấp phong kiến sau này thực sự cưng chiều nhưng đành phải che giấu mặt tàn
ác (cái tật) của nó dưới hình thức vỏ bọc " Dương Nho âm Pháp ".
Pháp trị đã xuất hiện trong lịch sử như một vì sao sáng chói rồi sau đó phải khuất

chìm sau ánh sáng của Đức trị. Tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ
quản lý nhà nước và xã hội, cũng như những quan điểm và nguyên tắc pháp lý như
trên của Pháp trị thực sự là tiến bộ lịch sử, trở thành niềm tự hào và là nét đặc sắc
của tư tưởng phương Đông mà mãi sau này đến thế kỷ Khai sáng phương Tây mới
tiếp cận và vượt lên bởi các tên tuổi John Lock, JJ. Rut-Xo, Mongtexkiơ phát
triển tư tưởng về nhà nước và pháp luật lên đỉnh cao bởi các học thuyết "tam
quyền phân lập", "nhà nước pháp quyền"
Hai tư tưởng cách nhau trên một ngàn năm song bước nhảy của phương Tây so
với phương Đông chỉ trong một khoảng ngắn ngủi: Pháp trị đề cao pháp luật, yêu
cầu mọi người phải tuân thủ pháp luật, chỉ chừa đặc quyền cao nhất cho một người
được đứng trên là nhà vua (do hạn chế của thời đại). Còn phương Tây chủ trương
tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Sự thay đổi từ công thức (n - 1)
đến (n), tuy rất nhỏ nhưng thực sự là kết quả đấu tranh gian khổ và lâu dài của
nhân loại, đánh dấu một bước ngoặt mang tính thời đại.
Học thuyết pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được
yêu cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì một yêu cầu quan
trọng là phải xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường
pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế- xã hội. Qua thực tiễn hơn mười năm đổi
mới, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận trong hoạt động xây dựng và
thực thi pháp luật, trên thực tế cũng xuất hiện tình trạng chồng chéo, khủng hoảng
thiếu hay thừa về luật trong một số lĩnh vực. Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính
ổn định và sự cụ thể chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân
dân còn thấp dẫn đến việc coi thường trong chấp hành hoặc áp dụng pháp luật tuỳ
tiện là những nguyên nhân của kỷ cương phép nước không nghiêm. Những hạt
nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ
trong công tác xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật
hiện nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP, KIẾN

NGHỊ
2.1THỰC TRẠNG:
Qua thời gian, tư tưởng Pháp trị của Thương Ưởng đã cho thấy được những điều
tích cực cũng như những hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, tư tưởng ấy của ông đã góp
phần đặt nền móng để xây dựng Nhà nước Pháp quyền hiện nay, một thể chế nhà
nước mà các nước đang hướng tới. Nhà nước Pháp quyền được xây dựng trên nền
tảng của chế độ pháp trị.
Nhưng cũng nhận thấy rằng, chế độ pháp trị gắn liền với nhà nước Pháp quyền
hiện nay có những khác biệt so với chế độ pháp trị theo tư tưởng Thương Ưởng.
Theo tư tưởng

KẾT LUẬN
Trong suốt bài viết này, tôi đưa mọi người đến với câu chuyện của Thương Ưởng
và những ảnh hưởng của ông đến với xã hội Trung Hoa cổ đại cũng như đến với
xã hội ngày hôm nay. Không chỉ Pháp trị của Thương Ưởng giúp Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Hoa cổ đại, mà nó còn giúp cho nhân loại có được cái nhìn mới
trong việc xây dựng kỷ cương và quản lý đất nước. Pháp trị đã xuẩn hiện trong
lịch sử như một vì sao sáng chói, tuy rằng sau đó khuất chìm sau ánh sáng của
Đức trị. Nhưng tư tưởng đề cao Pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý nhà
nước và xã hội, cũng như những quan điểm và nguyên tắc pháp lý như trên của
Pháp trị thực sự là tiến bộ lịch sử, trở thành niềm tự hào và là nét đặc sắc của tư
tưởng Phương Đông đến mãi sau này.
Học thuyết Pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được
yêu cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì xây dựng hệ thống
pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường pháp lý ổn định cho phát triển kinh
tế - xã hội là yêu cầu hết sức quan trọng.
Mặc dù Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính ổn định và sự cụ thể chặt chẽ, ý thức
pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp đến đến việc coi thường
trong chấp hành hay áp dụng pháp luật tùy tiện… là những nguyên nhân của kỷ

cương phép nước không nghiêm. Những hạt nhân tiến bộ của Học thuyết Pháp trị
của Thương Ưởng chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ trong công tác xây
dựng và hoàn thiện bộ mày nhà nuớc và hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
MỤC LỤC THAM KHẢO
1. Tạp chí khoa học và công nghệ đại_ Đề tài: Tư tưởng trị nước của
Pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử.
2. Bùi Văn Mưa, Triết học (Phần I –Đại cương về lịch sử Triết học).
3. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá, tr.273.
4. Nguyễn Ngọc Huy: Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chính trị
Trung Quốc cổ thời, NXB Cấp Tiến, tr.215.
5. Lê Văn Được: Thuật trị nước của người xưa, NXB TP Hồ Chí Minh,
Tr. 161.
6. Doãn Chính ( chủ biên), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội 1997.
7. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết học Phương Đông, Tập I NXB
Tp. HCM 1991.
8. Sử kí – Thương Quân liệt truyện
9. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá, tr.273.
10. Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Triết Học Trung Quốc, quyển
hạ, Cảo Thơm xuất bản tại Sài Gòn năm 1966, tr. 586.
11.

×