Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

thac sĩ, quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh savannakhet, nước CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.76 KB, 87 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, cùng với kinh tế và cơng nghệ thơng tin,
nền báo chí trên thế giới khơng ngừng phát triển, đạt được những thành tựu quan
trọng. Mục tiêu cao nhất của báo chí là phục vụ sự phát triển của đất nước và lợi
ích của nhân dân. Báo chí đã tác động từng ngày, từng giờ đến đời sống chính
trị, xã hội, cung cấp thơng tin đa chiều, sâu sắc, tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước hiệu quả, đặc biệt là phát huy vai trò
phản biện xã hội trong đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Xã hội phát triển địi hỏi hoạt động báo chí cũng phải thay đổi tương ứng để kịp
thời phản ánh những sự thay đổi của xã hội đó, vì vậy cơng tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động báo chí trong thời kỳ mới cũng cần phải thay đổi cho phù hợp
với điều kiện, tình hình mới.
Sau gần 40 năm phấn đấu gian khổ, Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ
tộc Lào đã giành được những thành quả to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và phát triển đất nước, đưa đất nước Lào ngày càng tiến gần với trình
độ phát triển của các nước trong khu vực. Cùng với những thành quả quan trọng
của đổi mới kinh tế, những năm qua, tổ chức và hoạt động của báo chí nước
CHDCND Lào nói chung, báo chí của tỉnh Savannakhet nói riêng khơng ngừng
được đổi mới và có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đổi mới do Đảng khởi xướng
cùng với những thành tựu vĩ đại của công nghệ thông tin đã làm cho báo chí tỉnh
Savannakhet trong những năm gần đây phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng. Vì vậy, cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí cần phải
tăng cường trong giai đoạn hiện nay.

1


Sự ra đời của Luật báo chí năm 2008 đã tạo nên sự hoàn chỉnh về hành


lang pháp lý cho hoạt động báo chí, đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thơng
tin, đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân.
Đây cũng là điều kiện mới để báo chí Lào phát triển, hội nhập với báo chí trong
khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình phát triển, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo chí
của Lào cũng bộc lộ những tồn tại như có xu hướng thương mại hóa, xa rời tơn
chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, cho ra những ấn phẩm chủ yếu đáp ứng nhu
cầu thị hiếu tầm thường của một bộ phận quần chúng. Báo chí cịn chưa đến tay
số đơng nhân dân, nhất là nhân dân lao động ở nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
Các tác phẩm có chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng
khoa học, chất lượng nghiệp vụ trên báo chí vẫn cịn chưa cao. Đó là những tác
phẩm báo chí khơng thực hiện đúng định hướng tun truyền, người viết thiếu
bản lĩnh chính trị, khi viết khơng xác định rõ mục đích và đối tượng độc giả,
khơng hướng con người tới chân - thiện - mỹ.
Những khuyết điểm trên tồn tại một phần là do công tác quản lý nhà nước
về báo chí cịn hạn chế, sự bng lỏng của cơ quan chủ quản báo chí, và đặc biệt
là một số nhà báo chưa thấy hết trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ cơng dân của
mình, ngồi ra ngun tắc phát triển báo chí đi đơi với quản lý tốt chưa được
quán triệt một cách đầy đủ. Vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet,
nước CHDCND Lào” cho luận văn Thạc sĩ Quản lý công, đồng thời đề xuất một
số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trong giai đoạn hiện
nay. Đó là vấn đề cần thiết của một nền báo chí phát triển.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong những năm gần đây vấn đề nâng cao vai trò QLNN về báo chí được
Đảng và Nhà nước, các đồn thể, nhân dân quan tâm. Bên cạnh những bài báo,
tạp chí trong nước và Việt Nam đánh giá về thực trạng hoạt động QLNN về báo
chí, cũng như quan điểm và định hướng của Nhà nước Lào đối với hoạt động
báo chí, phải kể tới một số cơng trình nghiên cứu của Việt Nam và Lào cụ thể
như sau:
-

Nguyễn Kim Chi (2011) Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt
động báo chí trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành
chính cơng, Học viện Hành chính. Luận văn đã phân tích khái qt tình
hình hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm qua,
chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và giải pháp giải quyết
những khó khăn đó nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với
hoạt động trên.

-

PGS.TS. Nguyễn Văn Dũng đã có nhiều nghiên cứu và tiếp cận báo chí
dưới góc độ lý luận (khái niệm, đặc điểm báo chí..); mối quan hệ của báo
chí với dư luận xã hội và hoạt động báo chí cách mạng Việt Nam phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như tiếp cận hoạt
động quản lý nhà nước đối với báo chí cách mạng nước ta trong bối cảnh
hội nhập tồn cầu hóa kinh tế quốc tế. Các tác phẩm của PGS.TS. Nguyễn
Văn Dũng đã nghiên cứu về báo chí ở nước ta như: “Báo chí và dư luận xã
hội”, Nhà Xuất bản Lao động (2011); “Cơ sở lý luận báo chí”, Nhà Xuất
bản Lao động (2012); “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư
tưởng, lý luận và quản lý báo chí”, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền (2012)...


3


-

Tác giả Mỹ Bình (2014), Tăng cường cơng tác quản lý nhà nước về báo
chí, Thơng tấn xã Việt Nam, số ra ngày 20/01/2014. Trong bài viết này tác
giả đã đưa ra những nhận định khái lược về bức tranh tồn cảnh cơng tác
QLNN về báo chí năm 2013 đặt dưới sự chỉ đạo của Chỉnh phủ và Bộ
Thông tin và Truyền thơng. Trong đó bài viết nhận định rất rõ những yếu
kém, hạn chế trong công tác quản lý cần phải khắc phục thời gian tới, đó
là: cơng tác chỉ đạo, quản lý báo chí thời gian qua đơi lúc vẫn chưa chủ
động, lúng túng, chạy theo sự vụ. Một bộ phận cán bộ quản lý hạn chế về
năng lực, nhận thức chưa đầy đủ về các văn bản chỉ đạo, QPPL về báo chí.
Vai trị của cơ quan chủ quản chưa được phát huy đầy đủ, cịn có hiện
tượng né tránh trách nhiệm với sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền.
Tuy vậy, tác giả cũng đưa ra các con số thống kê để chứng minh và đề
xuất những giải pháp, kiến nghị để công tác QLNN với hoạt động báo chí
được tăng cường hơn trong thời gian tới.

-

TS. Nguyễn Bắc Sơn với tác phẩm “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu của nền báo chí cách mạng
Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, số ra ngày 09/08/2014
đã khái quát thực trạng về tình hình hoạt động báo chí ở nước ta trong thời
gian qua, từ đó nhận định 5 vấn đề cịn tồn tại, cũng như những thách thức
và hạn chế trong công tác QLNN về báo chí trong tình hình mới.
Từ đó, tác giả đã khẳng định: để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối


với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, cần tập trung vào 4 nhóm giải pháp lớn: nhóm giải pháp nâng
cao chất lượng cơng tác xây dựng pháp luật, chính sách; nhóm giải pháp về
nguồn nhân lực; nhóm giải pháp tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, xử lý

4


vi phạm trong hoạt động báo chí và nhóm giải pháp về tăng cường hợp tác quốc
tế và ứng dụng khoa học, công nghệ trong công tác quản lý báo chí.
-

Khắt Thạ Nam Xẳng Xỉn Xay (2010), Q trình hình thành và phát triển
của thông tấn xã Lào, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền. Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận và q trình hình
thành, phát triển của thơng tấn xã Lào. Để thấy rõ những giai đoạn phát
triển của thông tấn xã trong suốt những năm qua, xu hướng phát triển và
định hướng phát triển thông tấn xã Lào trong thời gian tới.

-

Chanhdalasouk Thavone (2010), Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo
chí ở tỉnh Champasac, nước Cộng hịa Dân chủ nhân dân Lào, Luận văn
Thạc sĩ Quản lý Hành chính cơng, Học viện Hành chính. Luận văn nêu lên
những kiến thức về lý luận, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân tích thực
trạng hoạt động quản lý nhà nước và tìm ra nguyên nhân của những hạn
chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí của tỉnh
Champasac, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chỉ tại tỉnh như: xây dựng quy
hoạch phát triển báo chí; kiện tồn bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước về

báo chí; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, về đào tạo, quy
hoạch cán bộ quản lý báo chí, về chế độ chính sách và về cơng tác kiểm
tra, thanh tra.
Có thể nói, việc nghiên cứu của các cơng trình trước đây chưa tập trung

vào mảng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí và nhất là theo phạm vi
một tỉnh cụ thể. Đặc biệt tại tỉnh Savannakhet chưa có cơng trình nào nghiên cứu
về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại địa phương này.

5


Khảo sát đề tài quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn
tỉnh Savannakhet giúp thấy được những hạn chế trong việc quản lý nhà nước đối
với báo chí ở tỉnh này so với các tỉnh khác của nước CHDCND Lào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà

nước về báo chí của nước CHDCND Lào nói chung và hoạt động báo chí của
tỉnh Savannakhet nói riêng, đề tài nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet hiện nay.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về báo chí và quản lý nhà nước về báo chí

+ Tìm hiều thực trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh
Savannakhet
+ Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tư tưởng của Chủ tịch Cayxon Phonvihan, các quan điểm của Đảng Nhân dân
các mạng Lào, kế thừa và tiếp thu những công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngồi nước có liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí.

6


-

Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu và làm rõ các vấn đề, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
+ Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để
có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá hoạt động báo chí, làm cơ sở để
đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet.
+ Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet để từ
đó chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu trong quản lý nhà nước đối với hoạt động

báo chí từ đó làm cơ sở cho những giải pháp ở Chương 3.
+ Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu được
thu thập trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, đồng thời so
sánh và đánh giá được các kết quả đạt được và hạn chế trong quản lý.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh
Savannakhet.

-

Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khơng chỉ nghiên cứu về báo chí nói chung mà đặc biệt nghiên
cứu về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet hiện nay.

7


6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa của luận văn
-

Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về báo chí và quản lý nhà
nước về báo chí.

7. Kết cấu của luận văn


Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí
Chương 2. Thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà nước đối với hoạt
động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO
CHÍ
1.1.

Một số khái niệm về báo chí

1.1.1. Một số khái niệm về báo chí

Khái niệm về báo chí
Tùy theo cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu mà có thể hiểu báo chí ở
nhiều góc độ khác nhau.
Theo các nhà nghiên cứu nói chung, báo chí là một mặt của đời sống xã
hội, báo chí có tác động to lớn đối với đời sống con người.
Theo triết học cổ Hy Lạp báo chí được hiểu là thông tin, thông bá, báo tin
và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho sự hiểu biết của con người về thế
giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực khách quan để phản ánh

8


một các liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo, tác phẩm và

cơng chúng.
Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua
năm 1999 khơng tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các
loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo
in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thơng tấn), báo nói (chương trình phát
thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được
thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện
trên mạng thơng tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt
Nam, tiếng nước ngồi.
Báo chí được hiểu là phương tiện thơng tin, tun truyền. Báo chí nằm
trong kiến trúc thượng tần và ra đời khi có cơ sở, vật chất kỹ thuật nhất định. Kỹ
thuật càng hiện đại thì báo chí càng phát triển.
Đặc điểm của báo chí:
-

Tính tư tưởng của báo chí: Báo chí thể hiện rõ vai trị là đội tiên phong
trong cơng tác tư tưởng của Đảng, tích cực tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động tuyên
truyền báo chí đã tác động tích cực tới đời sống xã hội, định hướng chính
trị tư tưởng và dư luận, góp phần làm cho nhân dân nhận thức đúng tình
hình, đồn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
và xu thế đi lên của đất nước.

-

Tính chân thật của báo chí: Một trong những nguyên tắc cơ bản của báo
chí là phải đảm bảo tính khách quan, chân thật. Bởi báo chí chính là
phương tiện để phản ánh sự thật, phản ánh cuộc sống hiện thực và thông

9



qua sự thật đó để thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu thốt ly khỏi hiện thực,
khỏi sự thật thì báo chí khơng có gì để phản ánh.
-

Tính nhân dân của báo chí: Tính nhân dân thể hiện ở mối liên hệ giữa báo
chí với đơng đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, người sáng
tạo chân chính của lịch sử. Báo chí phải phản ánh, đánh giá các hiện tượng
và sự kiện của đời sống theo lập trường của nhân dân lao động, đại diện
và bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động. Tính nhân dân của báo chí thể
hiện ở sự tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào
hoạt động báo chí.

-

Tính đa dạng của hoạt động báo chí: sự đa dạng của loại hình báo chí, thể
loại báo chí và tính chân thật, phản ánh chính xác các sự kiện sinh động
của hoạt động xã hội tạo nên tính đa dạng của hoạt động báo chí.
Sự phát triển của báo chí trên thế giới
Trên thế giới, báo chí ra đời từ thế kỷ XVII, nhưng phải tới thế kỷ XIX

mới phát hành rộng rãi. Khi mới xuất hiện, báo chí được hiểu là những sản phẩm
nhân bản bằng máy in, xuất bản định kỳ hàng ngày, vài ngày, hàng tuần và
chuyển tải thơng tin thơng tin có tính phổ biến tới đông đảo công chúng trong xã
hội. Tớ báo La Gzette của Theosphaste Renaudot là tờ báo của nước Pháp đầu
tiên được ra đời. Trong vòng hai thế kỷ XVII và XVIII, báo chí có mặt tại hầy
hết các đô thị quan trọng trên thế giới, theo giới nghiên cứu đây được coi là giai
đoạn hình thành báo chí trên thế giới.
Tuy nhiên, thế kỷ XIX báo in mới thực sự phát triển mạnh mẽ và được coi

là thời kỳ hồng kim của báo in. Chính sự khẳng định của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho sự phát triển của báo chí. Các đơ thị cơng
nghiệp lớn ra đời, trình độ văn hóa và đời sống vật chất ngày càng phát triển làm

1
0


cho nhu cầu thông tin giao tiếp ngày tăng nhanh. Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật cũng là tiền đề trực tiếp thúc đẩy báo chí phát triển. Đồng thời, trong thế
kỷ này sự hình thành giai cấp cơng nhân với ý thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử,
dưới sự lãnh đạo của chính đảng là yếu tố đặc biệt thúc đẩy sự phát triển của báo
chí.
Đến đầu thế kỷ XX thông tin bùng nổ. Việc bùng nổ thông tin báo chí
trước hết là do sự ra đời và phát triển nhanh chóng của hai loại hình kỹ thuật
truyền thơng mới là phát thanh và truyền hình.
Sự ra đời báo chí ở nước CHDCND Lào
Báo chí Lào là phương tiện truyền thông của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, là mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa tổ chức và nhóm người trong
xã hội, là phương tiện thơng tin về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
So với thế giới và Việt Nam, báo chí ở nước CHDCND Lào ra đời muộn
hơn nhiều.
Lịch sử báo chí gắn liền với phong trào cách mạng Lào. Mở đầu báo chí
Lào là tờ báo nhân dân, phát hành vào cuối những năm 1940, là thời kỳ đấu
tranh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nguồn gốc của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào hiện nay). Ân phẩm đầu tiên mang tính chất của một
tờ báo có cả bài viết, hình vẽ tố cáo thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai của
chúng. Những tờ báo, tờ rơi đó đã gắn liền với phong trào yêu nước trong cuộc
kháng chiến lâu dài của bộ tộc Lào và góp phần thúc đẩy nhân dân Lào đứng lên

đấu tranh và trở thành lực lượng cách mạng.
Ngày 13/8/1950, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào,
Đại hội Mặt trận kháng chiến toàn quốc do “Neo Lao Ít sạ lá (Mặt trận Ít sạ lá)

1
1


đã quyết định thành lập báo “Lao Ít sạ lá” và bổ nhiệm ông Sisana Sisan làm
tổng biên tập đầu tiên của báo chí cách mạng Lào, in kiểu “Li tơ”, với 200 bản
in/ 3 tháng, làm vai trị tun truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Neo
Lao Ít sạ lá và Chính phủ lào kháng chiến. Từ đó báo Neo Lao Ít sạ lá trở thành
phương tiên thơng tin làm cơng cụ đấu tranh về mặt chính trị, tư tưởng nhân dân,
gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và các bộ tộc Lào yêu nước. Trong
tình hình và điều kiện của cách mạng cứu nước gần 6 năm, ngày 06/01/1956,
Đại hội Đại diện toàn quốc của Neo Lao Ít sạ lá tại khu căn cứ tỉnh Hua Phăn, đã
quyết định thành lập “Neo Lao Sàng Xạ (Mặt trận Lào xây dựng tổ quốc) để
thay thế “Neo Lao Ít sạ lá”. Sau đó, Trung ương Đảng đã quyết định đơi tên
“Neo Lao Ít sạ lá” thành “Lao Hắc Xạ (Lào yêu nước)”. Cho nên báo Neo Lao Ít
sạ lá cũng đổi tên thành báo Lao Hắc Xạ và cũng do ông Saxana Sisan làm tổng
biên tập và phát hành 3000 bản in/ tuần. Đặc biệt trong những năm 1956-1959,
báo Lao Hắc Xạ đã in tải Thủ đô Viêng Chăn do ơng Khaawmphai Bupha làm
Tổng biên tập, vì sự ủng hộ của quần chúng, nên số lượng báo được tăng lên tới
12.000 bản in/tuần. Nhưng trong tình hình đất nước chưa ổn định, vẫn còn đế
quốc xâm lược, vì vậy, năm 1959 tổng biên tập bị bắt vào tù cùng với các nhà
lãnh đạo khác của Lào. Năm 1960, trụ sở công tác báo Lao Hắc Xạ được chuyển
chỗ in trở lại khu căn cứ tỉnh Viêng Xây tiếp tục thực hiện vai trị và nhiệm vụ
của mình. Do cơ hội và điều kiện thuận lợi, ngày 11/8/1975 báo Lao Hắc Xạ đã
quay về Thủ đô Viêng Chăn và đổi tên thành báo “Siếng Paxaxon (Tiếng nói
nhân dân)”, trở thành nhật báo, có thể phát hành hàng ngày tới 30.000 bản in.

Sau Đại hội khóa III của Đảng, ngày 22/3/1983, Trung ương Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào đã có quyết định đổi tên báo “Siếng Paxaxon (Tiếng nói nhân

1
2


dân)” thành báo “Paxaxon (Báo nhân dân)” và được tuyên bố là tiếng nói của
Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào cho tới ngày nay.
Ra đời cùng với báo chí Lào trong những năm 1960 là Đài phát thanh
nước Lào, được thành lập ngày 13/8/1960 do lực lượng đặc biệt của Trung ương
Đảng. Chương trình đầu tiên phát sóng là: tuyên bố của Neo Lao Hắc Xạ về
cuộc đảo chính ngày 09/8/1960, thơng tin ủng hộ giải phóng đất nước, tuyên bố
tự do của nước Kong Ko. Và ngày 06/01/1968, Thông tấn xã nước Lào cũng
được thành lập tại khu giải phóng tỉnh Viêng Xây, theo yêu cầu của Đảng đối với
việc báo chí trong giai đoạn mới, do ông Sixana Sisan làm Tổng biên tập.
Ngày 01/02/1983 với sự ủng hộ của Liên Xơ cũ, Đài truyền hình quốc gia
Lào được thành lập, trở thành bước chuyển mới trong giai đoạn phát triển của
thông tin đại chúng Lào cũng như trong sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng
và xây dựng xã hội mới.
Hiện nay, ở Lào các cơ quan báo chí đang xuất bản gần 70 ấn phẩm.
Ngồi thủ đô Viêng Chăn tập trung nhiều cơ quan báo chí Trung ương và khu
vực, một số tỉnh cịn lại đều có báo, tạp chí, đài phát thanh, đài truyền hình
riêng. Đài phát thanh được thành lập thêm, từ 14 cơ quan (năm 1995) lên tới 35
cơ quan (2015), trong đó 3 cơ quan là đài phát thanh quốc gia Lào, 33 cơ quan
còn lại đặt tại địa phương với hai hệ thống AM và FM, phát sóng chiếm 80%
thời lượng. Lĩnh vực truyền hình có 32 cơ quan, trong đó có 2 cơ quan là đài
truyền hình Việt Nam, đài truyền hình đầu tư và hợp tác với tư nhân do cơ quan
quản lý báo chí cấp Trung ương quản lý như đài truyền hình Laostar và
MVLaos. Đài truyền hình Lào có thể phát sóng chiếm 60% thời lượng.


1
3


Điểm nổi bật của báo chí Lào là sự ra đời của báo điện tử đang được sử
dụng phổ biến, tạo nên sự nhanh chóng và rộng rãi của thơng tin cho người dân
trong và ngồi nước.
1.1.2.

Vai trị của báo chí đối với sự phát triển kinh tế xã hội Báo chí có

vai trị cực kỳ to lớn trong đời sống xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Quá trình tồn cầu hóa càng tăng, quan hệ quốc tế càng phức tạp thì vai
trị của báo chí càng trở nên quan trọng hơn.
Theo quan niệm của Đảng nhân dân Cách mạng Lào đối với báo chí “Báo
chí là cơng cụ về mặt chính trị - tư tưởng của các tổ chức trong hệ thống chính
trị có Đảng lãnh đạo”. Trong sự nghiệp tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ
dân chủ nhân dân cũng như trong sự nghiệp thay đổi tồn diện có ngun tắc của
Đảng, phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị cực kỳ quan trọng trong việc
tăng cường tình đồn kết của các bộ tộc, tuyên truyền, động viên thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội., cụ thể:
Một là, Báo chí là cơng cụ của Đảng, đồng thời là diễn đàn của nhân dân.
Điều này nói rằng, báo chí dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, từ báo chí trung
ương tới báo chí địa phương. Báo chí tuyên truyền, giáo dục về vai trị lãnh đạo
của Đảng, về tính tất yếu và cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng. Tuyên
truyền về vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Đấu tranh
kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, làm suy yếu Đảng, phủ nhận vai
trị và sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, Báo chí tuyên truyền về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

của dân, do dân, vì dân; báo chí tập trung nghiên cứu thực tiễn quá trình đổi mới
cơ chế quản lý, phương thức hoạt động của nhà nước và hệ thống chính quyền
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường khả năng quản lý và

1
4


điều hành xã hội bằng pháp luật. Báo chí hướng về cơ sở, giúp cán bộ cơ sở hiểu
biết thông tin, nắm chắc đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
tổ chức vận động quần chúng đưa nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước vào cuộc sống.
Ba là, báo chí tuyên truyền đường lối kinh tế, những kinh nghiệm hay,
những điển hình tiên tiến, nhân rộng các mơ hình làm cho các chủ thể kinh tế,
các thành phần kinh tế không ngừng phát triển, làm giàu cho đất nước.
Bốn là, báo chí tuyên truyền giáo dục nhằm xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Báo chí tuyên truyền văn hóa truyền thống, bồi đắp
tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu quý những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Năm là, báo chí tham gia đấu tranh tích cực với các hiện tượng tiêu cực và
các tệ nạn xã hội. Báo chí khơng chỉ phê phán mà quan trọng là biểu dương
người tốt, việc tốt, những điển hình về lao động, hy sinh cống hiến cho đất nước,
những chuẩn giá trị đạo đức tốt đẹp cho lẽ sống của xã hội ngày nay.
1.1.3.
1.1.3.1.

Chức năng của báo chí
Chức năng thơng tin
Đây là chức năng cơ bản mang tính tiên quyết của báo chí. Báo chí tồn tại


và phát triển là để đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của con người và xã
hội. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu thơng tin của quần chúng càng đòi
hỏi cao, đa dạng và phong phú hơn.
Thơng tin báo chí vừa là chất liệu, vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế xã hội. Chất lượng của thơng tin báo chí chính là mức độ đáp ứng các nhu cầu
về thông tin của cơng chúng bao gồm các yếu tố như tính thời sự, hấp dẫn, phù
hợp với lợi ích, gây ấn tượng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, chất lượng thơng tin báo

1
5


chí cịn có tác dụng định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn của công chúng.
Mặc dù thông tin có tính khách quan, phản ánh những vấn đề, sự kiện có thật
trong cuộc sống nhưng báo chí khơng bao giờ trung lập. Báo chí khơng thể
thơng tin hết tất cả thay mọi sự kiện trong đời sống hiện thực, mà chỉ thơng tin
những điều có thực, theo chủ quan của nhà báo, của lực lượng chính trị nắm giữ
báo chí thấy cần phải đăng tải. Vì vậy, các nhà lãnh đạo báo chí thấy cần chỉ đạo
thơng tin như thế nào, thơng tin tới mức độ nào để có lợi nhất cho đất nước bởi
báo chí là cơng cụ tuyên truyền những tư tưởng, chính sách của thế lực nắm giữ
báo chí, vì thế văn bản pháp luật của các nước đều quy định những điều cấm
thông tin.
1.1.3.2.

Chức năng định hướng giáo dục chính trị, tư tưởng
Định hướng, giáo dục chính trị, tư tưởng thực chất là tuyên truyền và bảo

vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Báo chí là cơng cụ tun tuyền của Đảng,
vì vậy cần tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân để tạo nên các phòng trào cách mạng

mạnh mẽ. Đồng thời báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân, nó phản ánh một
cách trung thực tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước. Chức năng định hướng của báo chí chính là khơng ngừng nâng cao
nhận thức chính trị, tính tự giác của nhân dân.
1.1.3.3.

Chức năng văn hóa, giáo dục
Báo chí là một bộ phận cấu thành của văn hóa vì thế nó trực tiếp góp phần

phát triển, bảo tồn và giao lưu văn hóa. Nó bồi đáp hướng dẫn, nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân; góp phần định hướng, điều chỉnh và cổ vũ xây dựng mơi
trường văn hóa mới.

1
6


Báo chí cịn thực hiện chức năng giáo dục thơng qua giáo dục chính trị, tư
tưởng và nâng cao dân trí. Chức năng giáo dục chính trị, tư tưởng của báo chí
nhằm biến đổi các tri thức cụ thể mà mỗi thành viên đạt được thành chất lượng
nội tại, tức là các quan điểm, lập trường chính trị xã hội tích cực tiến bộ; Trang
bị những kiến thức nền tảng để hình thành thế giới quan, nhân sinh quan khoa
học, tuyên truyền chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước;
Nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt của nhân dân, hình thành lối sống tích cực
và khẳng định những giá trị chuẩn mực trong đời sống văn hóa.
1.1.3.4.

Chức năng giám sát, phản biện xã hội
Thơng tin có vai trò đặc biệt quan trọng, nhờ sử dụng và giám sát thơng


tin nên báo chí thể hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình.
Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội. Giám sát
xã hội của báo chí thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Qua giám sát, theo
dõi một cách khách quan và có định hướng mà báo chí thể hiện vai trị phản biện
xã hội của mình.
Báo chí thực hiện chức năng giám sát đối với các cơ quan quyền lực, các
cá nhân có trách nhiệm, các cộng đồng, đơn vị, địa phương về những khó khăn,
phức tạp, những hạn chế và nguy cơ đã, đang và có thể sẽ xảy ra; Ngăn chặn
những hành vi, biểu hiện sai trái của những cá nhân có trách nhiệm, các nguy cơ
quyền lực của Nhà nước. Trong trường hợp này, báo chí trở thành cơng cụ, tai
mắt của nhân dân, tạo thành công luận và có một sức mạnh to lớn trong việc răn
đe, đề phịng những tiêu cực có thể phát sinh trong các cơ quan quyền lực nhà
nước.
Thơng qua báo chí, nhân dân tham gia vào q trình hoạch định chính
sách của Nhà nước bằng việc góp ý kiến vào các dự thảo chính sách, các dư luận

1
7


trước khi ban hành chính thức. Đó là ý kiến của nhân dân về những bất hợp lý và
yêu cầu đặt ra trong việc thay thế các chính sách đã lỗi thời. Báo chí trở thành
diễn đàn cho nhân dân trao đổi, thảo luận về các chủ trương, chính sách của nhà
nước, đồng thời phản ánh ý kiến, thái độ của nhân dân về các hoạt động và trách
nhiệm thực thi nhiệm vụ của các cnas bộ, cơ quan quyền lực nhà nước trong xã
hội.
1.1.3.5. Chức năng giải trí, quảng cáo, dịch vụ

Trong xã hội hiện đại, cuộc sống của con người chịu nhiều áp lực. Đây là
lý do giải thích vì sao chức năng giải trí của báo chí trong xã hội hiện đại ngày

càng được quan tâm và đề cao. Giải trí khơng thuần túy là một chức năng của
báo chí mà cịn đáp ứng nhu cầu, địi hỏi của xã hội đối với báo chí.
Chức năng quảng cáo, dịch vụ được hiểu báo chí chính là nguồn cung cấp
thông tin cho đời sống xã hội nên quảng cáo dịch vụ báo chí trong điều kiện kinh
tế thị trường và tồn cầu hóa đã trở thành một hoạt động tất yếu. Sự quảng bá
thương hiệu, thu hút sự chú ý, giới thiệu sản phẩm, hướng dẫn tiêu dùng, định
hướng thị hiếu, chỉ dẫn... đang là nhu cầu không chỉ giới kinh doanh, dịch vụ,
giải trí mà địi hỏi thiết yếu của đời sống xã hội. Quảng cáo, dịch vụ là nhu cầu
sống còn, nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân xã hội hiện đại.
1.1.4.

Phân loại báo chí

Sản phẩm báo chí được phát triển rộng rãi trong xã hội với nhiều loại khác
nhau. Từng loại hình báo, từng tờ báo, tờ tạp chí cũng có đối tượng xác định
nhất định và có đặc trưng riêng. Do đó, để quản lý báo chí một cách hiệu quả,
nhất thiết phải phân loại chúng.
1.1.4.1. Báo in

1
8


Căn cứ vào tiêu chí định kỳ và tính chất nội dung thơng tin, có thể chia
báo in thành các loại như sau:
- Nhật báo (báo hàng ngày) là những tờ báo phát hành mỗi ngày một lần
vào buổi sáng hay buổi chiều. Nội dung những tờ báo này đề cập đến những vấn
đề, sự kiện mang tính thời sự nóng hổi. Nhật báo thường có số lượng phát hành
vào loại lớn nhất do đó nó đáp ứng được nhu cầu tin tức của các tầng lớp xã hội
rộng rãi và được phát hành trong phạm vi quốc gia hay ở những thành phố, trung

tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn, dân cư đơng.
-

Báo thưa kỳ bao gồm các thứ 2, 3, 4, 5 hoặc 5 ngày một kỳ, tuần báo, báo
nửa tháng hoặc hàng tháng.
Báo ra 2, 3, 4 hoặc 5 ngày một kỳ thường là báo của đảng bộ tỉnh, thành

phố hay của các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước. Hiện nay,
nhiều tuần báo có xu hướng rút ngắn cịn 2, 3, 4 ngày một kỳ.
Tuần báo là các tuần báo xuất bản định kỳ một tuần một lần. Đó là các tờ
báo của các bộ, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các doanh
nghiệp kinh tế lớn.
Báo nửa tháng hay hàng tháng phần lớn là các đặc san, chuyên san của
các tờ nhật báo, báo thưa kỳ hay tuần báo.
Nói chung, đa số báo thưa kỳ có đối tượng hẹp hơn so với các nhật báo.
Người đọc báo thưa kỳ thường được xác định trong phạm vi các địa phương, cấp
tỉnh, thành phố hoặc theo nghề nghiệp, sở thích, lứa tuổi cụ thể. Thời gian ra các
tờ báo này thường theo những ngày cố định, ít khi xác định buổi nào cụ thể. Nói
chung, nội dung thông tin của loại báo thưa kỳ không cập nhật thời sự bằng báo
hàng ngày và quan tâm nhiều đến những thơng tin có chiều sâu phục vụ các đối
tượng chuyên biệt hơn, cụ thể hơn.

1
9


-

Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay
một số vấn đề, lĩnh vực, đời sống xã hội, khoa học, kỹ thuật. Định kỳ xuất

bản của tạp chí có thể là một tuần, nửa tháng.
Đối tượng đọc của báo chí chọn lọc hơn nhiều so với nhật báo và báo thưa

kỳ. Nội dung của tạp chí là những thơng tin chun sâu như những cơng trình
khoa học, nghiên cứu tổng kết, kinh nghiệm, những tài liệu phân tích, đánh giá
các vấn đề, sự kiện, những bài viết dự báo và chiều hướng vận dụng, phát triển
của các hiện tượng trong xã hội hay tự nhiên. , việc trình bày các tạp chí đơn
giản và khn khổ tạp chí cũng tương đối nhỏ, thuận lợi cho mục đích đọc
nghiên cứu.
Báo in là loại báo được phổ biến nhất ở mọi quốc gia với số lượng lớn, tuy
nhiên, ngồi loại báo này cịn có báo nói, báo hình và báo điện tử.
1.1.4.2.

Báo nói

Đây là một loại hình báo chí, trong đó nội dung thơng tin được chuyển tải
qua âm thanh. Ở các nước phương Tây, người ta thường chia phát thanh thành
các loại: phát thanh thương mại, phát thanh quảng cáo, phát thanh giáo dục, phát
thanh chính trị, xã hội. Thơng thường, mỗi nước đều có hệ thống phát thanh nhà
nước để thực hiện những nhiệm vụ cơng cộng, phục vụ cho các mục đích chính
trị, xã hội của Chính phủ. Ngồi ra, cịn có các đài phát thanh thuộc sở hữu tư
nhân. Ở các nước này, phần lớn các đài phát thanh đều tồn tại trong cơ cấu của
các cơng ty, tập đồn truyền thơng lớn.
Ở Lào, tồn bộ hệ thống phát thanh, truyền hình đều thuộc sở hữu của nhà
nước, do Chính phủ và chính quyền các địa phương quản lý. Đài phát thanh quốc
gia Lào được coi là phát thanh trung ương. Còn đài phát thanh các tỉnh, thành
phố và cấp huyện được coi là đài phát thanh địa phương.

2
0



1.1.4.3.

Báo hình

Là một loại hình báo chí chuyển tải nội dung bằng hình ảnh động và âm
thanh. Nguyên nghĩa của nó là vơ tuyến truyền hình, bắt nguồn từ hai từ tele có
nghĩa là ở xa và vision có nghĩa là thấy được, tức là thấy được ở xa.
Sự xuất hiện của truyền hình như một điều thần kỳ trong sáng tạo của con
người. Với sự kết hợp giữa hình ảnh động và âm thanh, truyền hình mang lại cho
con người cảm giác sống động, rất thật hiện lên trước mắt. Nói chung, ở các
nước, người ta chia ra các loại: truyền hình thương mại, truyền hình giáo dục,
truyền hình cơng cộng. Nhờ truyền hình cáp ra đời, khắc phục được những hạn
chế của truyền hình sóng trước kia, mà một lúc có thể chuyển đi nhiều chương
trình để đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng người sử dụng.
Đài truyền hình quốc gia Lào được coi là đài truyền Trung ương. Cịn đài
truyền hình các tỉnh, thành phố và cấp huyện được coi là đài truyền hình địa
phương.
11.4.4.

Báo điện tử
Những tiến bộ của công nghệ thông tin trong những năm 60 của thế kỷ

XX mang đến cho nhân loại một loại hình báo chí mới, đó là báo điện tử. So với
báo in, báo điện tử đến với người đọc nhanh hơn rất nhiều, có khi chỉ vài giây
sau khi phát hành và người đọc không cần tới mua ở quầy báo, cũng không cần
chờ nhân viên bưu điện mang đến. So với báo nói và báo hình, báo điện tử có ưu
thế là có thể nghe và xem bất cứ lúc nào người đọc muốn, không phụ thuộc vào
buổi phát thanh và phát hình của đài.

Quy trình xuất bản của sản phẩm báo chí trải qua 4 cơng đoạn sau:
-

Giao tiếp thực tế và sáng tạo tác phẩm

-

Biên tập, trình bày sản phẩm

2
1


-

In sản phẩm. Riêng báo nói, báo hình, báo điện tử không cần khâu này

-

Phát hành
Tất cả các khâu công việc trên đều có vai trị riêng khơng thể thay thế đối
với chất lượng của sản phẩm báo chí. Tuy nhiên, nhà báo bao giờ cũng là nhân
vật trung tâm của tịa soạn vì họ là người sáng tạo ra nội dung của sản phẩm báo
chí.
Có thể thấy, báo chí nói chung rất đa dạng về chủng loại và phong phú về
chức năng. Để đối tượng này phục vụ xã hội một cách hiệu quả và có định
hướng, khơng thể khơng có sự quản lý của nhà nước.

1.2.


Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí

1.2.1.

Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí

1.2.1.1.

Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là một hoạt động diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến lớn,

từ đơn giản tới phức tạp. Xã hội càng phát triển, trình độ xã hội hóa càng cao,
u cầu quản lý càng cao. Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt quan trọng
của con người, nó chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng, phức tạp và luôn vận
động, biến đổi và phát triển. Vì vậy, khi nhận thức về quản lý, có nhiều cách tiếp
cận và quan niệm khác nhau. Mỗi một học thuyết nghiên cứu tổ chức quản lý ở
những góc độ khác nhau, trên cơ sở triết học và điều kiện kinh tế xã hội khác
nhau. Tuy nhiên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định trước.
Quản lý nhà nước gồm nhiều nội dung, theo một trình tự từ việc lập ra
luật, tổ chức thực hiện luật, kiểm sát, xét xử những vi phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước thực hiện. Trong hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham gia quản
lý xã hội như: tổ chức chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức

2
2


kinh tế, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội. Tuy nhiên, so với quản lý của các tổ
chức khác thì quản lý nhà nước có điểm khác biệt sau:

-

Chủ thể quản lý nhà nước là cán bộ, công chức và các cơ quan trong bộ
máy nhà nước (thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp);

-

Đối tượng quản lý là tồn dân;
-

Phạm vi quản lý mang tính tồn diện, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội;

-

Phương thức: sử dụng quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế đơn
phương đối với xã hội và sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu.

-

Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ lợi ích chung, duy trì sự ổn
định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước (QLNN) được hiểu là hoạt động thực thi quyền lực nhà

nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước (chủ yếu là các cơ quan trong hệ
thống hành pháp) mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước
để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát
triển của xã hội.
1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí


Quản lý hoạt động báo chí có thể phân chia thành hai cấp độ: quản lý vi
mô và quản lý vĩ mô. Quản lý vi mô là quản lý tồn soạn báo chí, quản lý vĩ mơ
là quản lý nhà nước về báo chí Trong phạm vị nghiên cứu của luận văn tác giả
nghiên cứu quản lý ở tầm vĩ mô là quản lý nhà nước về báo chí.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là những hoạt động của các
cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí
được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là

2
3


thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, nhà nước đại diện cho nhân dân,
đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có
quyền về tự do ngơn luận, tự do báo chí. Báo chí gắn liền với tự do ngơn luận, tự
do báo chí. Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí là nhằm đảm bảo tự do báo
chí và tự do ngơn luận trên báo chí được thực hiện trong khn khổ pháp luật, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời,
Nhà nước cũng đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc đấy tranh chống các
thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngơn luận, tự do báo chí để đưa ra các
luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược diễn biến hịa bình, gây mất an ninh chính
trị và trật tự trong nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là tổng thể những hoạt động
của bộ máy nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho báo
chí thực hiện được nhiệm vụ thơng tin của mình và chịu sự điều chỉnh thống
nhất của pháp luật. Quản lý nhà nước là làm cho sức mạnh của báo chí được phát
huy cao nhất, để báo chí tập trung nguồn lực và mọi cố gắng vào phục vụ mục
đích phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tạo mọi điều kiện cho báo
chí phát triển và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu quản lý nhà nước đối với hoạt động
báo chí là q trình tác động có tổ chức, có định hướng và được điều chỉnh bằng
pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với hoạt động báo chí do các cơ
quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành
để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước đối với lĩnh vực báo chí,
nhằm đáp ứng quyền và nhu cầu tự do báo chí hợp pháp của công dân.
1.2.2.

Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí

2
4


Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là một yêu cầu tất yếu khách
quan dựa trên một số lý do sau:
Có thể thấy rằng, báo chí tác động từng ngày, từng giờ tới đời sống xã hội.
Vì vậy, mọi chế độ chính trị đều có chủ trương và biện pháp quản lý theo hướng
có lợi nhất cho mình. Mục tiêu cao nhất của báo chí là phục vụ sự phát triển của
đất nước và lợi ích của nhân dân. Bởi vậy, quản lý nhà nước về hoạt động báo
chí trong thời kỳ phát triển của đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi
phù hợp với sự thay đổi hàng ngày của đời sống xã hội.
Báo chí là cơng cụ đấu tranh sắc bén, vì vậy, cần phải có định hướng cho
hoạt động báo chí đúng khn khổ. Báo chí được mệnh danh là quyền lực thứ
tư. Vì, vậy, nó góp phần bảo vệ, cổ vũ chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước và ngược lại nó cũng có thể cản trở việc thực hiện đó.
Hoạt động báo chí cịn nhiều yếu kém. Hiện nay, báo chí tiếp tục phát
triển nhanh về số lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ người làm báo và số lượng
người đọc; cơ sở vật chất kỹ thuật, cơng nghệ, năng lực tài chính được tăng
cường; tác động, ảnh hưởng của báo chí được mở rộng. Phần lớn, báo chí hoạt

động đúng tơn chỉ, mục đích.
Một bộ phận nhà báo chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh những
nhà báo thường xuyên trau dồi đạo đức, phẩm chất và trình độ chun mơn,
cũng khơng ít nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp dẫn đến vi phạm pháp luật,
bị truy tố. Do đó, cần thiết quản lý nhà nước bằng việc đào tạo bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp.
Một số tờ báo có xu hướng thị trường hóa. Mặc dù đang hướng tới việc tự
chủ của các tờ báo về kinh phó, nhưng thời gian qua một số tờ báo vì lợi nhuận
mà vi phạm quy định về quảng cáo cũng như viết bài giật gân nhằm thu hút độc

2
5


×