Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀI THU HOẠCH KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.1 KB, 17 trang )

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Học thuyết giá trị thặng dư là “ hòn đá tảng” trong lý luận kinh tế của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận triết
học Mác-xít, với niềm tin xây dựng xã hội mới, tiến bộ của chủ nghĩa cộng
sản khoa học mà kinh tế chính trị mác xít đã kiên trì xây dựng và phát triển
lý luận thơng qua kế thừa có phê phán các học thuyết kinh tế, những phân
tích đó của C.Mác đối với q trình sản xuất hàng hóa đã phát triển tới một
trình độ nhất định và trở thành cơ sở vận động và phát triển của chủ nghĩa
tư bản với tư cách là một phương thức sản xuất xã hội cụ thể. Lý luận giá
trị thặng dư trong bộ “ Tư bản” đã luận giải rõ các điều kiện hình thành,
nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư, sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản, sự vận động và
biểu hiện của giá trị thặng dư. Lý luận giá trị thặng dư là phát kiến vĩ đại
của Mác, nhờ phát hiện này, cuộc cách mạng của kinh tế chính trị học mới
được hình thành, xây dựng lên kinh tế chính trị học của chủ nghĩa MácLênin. Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường mới được hình
thành cịn sơ khai và thiếu đồng bộ. Vì vậy, việc nghiên cứu những lý luận
của Mác về kinh tế nói chung và lý luận về giá trị thặng dư nói riêng là rất
quan trọng, Từ việc nghiên cứu những lý luận này chúng ta có thể tìm được


2

những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hồn thiện cơ
chế thị trường. Chính vì những lý do trên mà em đã lựa chọn đề tài: “Lý
luận về các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề này đối với nước ta hiện nay” làm bài thu hoạch.
Trong q trình làm bài, dù đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm hiểu song


do những hạn chế nên bài làm của em không tránh khỏi những thiếu xót,
hạn chế, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cơ và các
bạn để bài tiểu luận của tơi được hồn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn.

B. NỘI DUNG

I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA
C.MÁC
1.1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị
thặng dư. Nhưng, để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải tổ
chức sản xuất ra những hàng hóa có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng là
nội dụng vật chất của hàng hóa, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây
cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản
xuất để sản xuất giá trị thặng dư, vì vậy, nó có đặc điểm: một là cơng nhân


3

làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc
sở hữu của nhà tư bản.
Trong q trình sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, bằng lao động
cụ thể của mình, cơng nhân sử dụng những tư liệu sản xuất và chuyển giá
trị của chúng vào hàng hóa; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người cơng nhân tạo ra
ngồi giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân
cho nhà tư bản. Cho nên, C.Mác viết: “ Bí quyết của sử tăng thêm giá trị
của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động

không công nhất định của người khác”. Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản là ở đó. Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động khơng cơng ấy vì
nhà tư bản là người chiếm hữu tư liệu sản xuất. Do điều kiện này mà nền
sản xuất trở thành nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa tư bản đương đại đã tồn tạo nhiều cơng ty cổ phần,
trong đó một bộ phận cổ đông là người lao động. Từ đó, xuất hiện quan
niệm cho rằng, khơng cịn việc bóc lột giá trị thặng dư, bởi vì người lao
động đã cùng làm chủ với các nhà tư bản. Một số học giả đã dựa vào hiện
tượng này để đề ra thuyết chủ nhĩa tư bản nhân dân và chứng minh rằng, xã
hội tư bản hiện nay đã thay đổi bản chất. Mặc dù đây là một hiện tượng có
thật trong nền kinh tế tư bản chủ, nhưng số phiếu của công nhân không


4

thấm vào đâu so với cổ phiếu của các nhà tư bản, phần lớn lợi tức cổ phần
vẫn nằm trong tay các nhà tư bản. Cơng nhân có cổ phần nhưng khơng có
vai trị chi phối trong doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, lợi tức cổ
phiếu của công nhân chỉ có ý nghĩa như lợi tức cho số tiền gửi tiết kiệm
đóng vai trị bổ sung cho thu nhập của họ. Thu nhập của công nhân chủ yếu
vẫn do tiền cơng đem lại.
1.2. Các hình thái của giá trị thặng dư
Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư
liệu sản xuất và sức lao động, tức là chuyển hóa tư bản tiền tệ thành hai
hình thái khác nhau của tư bản sản xuất. Mỗi bộ phận tư bản ấy có vai trị
khác nhau trong q trình làm tăng thêm giá trị.
Một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất trong quá
trình sản xuất. Giá trị tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công
nhân chuyển vào sản phẩm mới không tăng lên hay giảm đi. Bộ phận tư
bản ấy được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu bằng c.

Đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì tình hình lại
khác nhau. Sau quá trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng của mình,
người cơng nhân tạo ra một giá trị mới không những đủ bù đắp lại giá trị
sức lao động do nhà tư bản đã trả cho cơng nhân, mà cịn có bộ phận giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Do vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao


5

động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản
này được gọi là tư bản khả biến và ký hiệu bằng v.
Nhưng, trong đời sống hiện thức, người ta thấy xí nghiệp nào sử
dụng máy móc và cơng nghệ hiện đại thì năng suất lao động cao hơn và
nhờ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Điều đó tạo ra một cảm tưởng sai
lầm là máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư. Vậy, máy móc có tạo ra giá trị
và giá trị thặng dư hay không? Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của
tư bản bất biến, máy móc khơng tạo ra giá trị mặc dù đó là một nhân tố
khơng thể thiếu của bất cứ q trình sản xuất hiện đại nào, nhân tố có vai
trị ngày càng quan trọng đối với sự tiến bộ của loài người. Mấu chốt để
nhận thức đúng vấn đề này là học thuyết về tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Về phương diện
lao động cụ thể, máy móc, cơng nghệ mới là phương tiện để nâng cao sức
sản xuất của lao động. Khi sức sản xuất của lao động ngày càng được nâng
cao thì một mặt, giá trị cá biệt của một sản phẩm được tạo ra sẽ thấp hơn
giá trị xã hội của sản phẩm đó, và nhờ vậy, khi máy móc chưa được phổ
biến, nhà tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch; mặt khác, số lượng sản
phẩm sản xuất ra sẽ nhiều hơn, do đó tổng khối lượng lợi nhuận mà nhà tư
bản thu được cũng sẽ lớn hơn trước. Máy móc dù hiện đại như thế nào
cũng chỉ là lao động chết. Nó phải được lao động sống “ cải tử hoàn sinh”



6

để biến thành nhân tố của quá trình lao động. Nó chỉ là phương tiện – nhờ
đó sức sản xuất của lao động tăng lên.
1.3. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị
thặng dư (m) với tư bản khả biến (v) và được tính bằng cơng thức:
m’ =

(%)

Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của nhà tư bản đối
với cơng nhân. Nó chỉ rõ, trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra
thì cơng nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ
suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời gian
lao động thặng dư (t’) mà công nhân làm cho nhà tư bản bằng bao nhiêu
phần trăm so với phần thời gian lao động tất yếu họ làm cho mình. Do đó,
cơng thức tỷ suất giá trị thặng dư cịn có dạng:
m’ =

(%)

Trong đó: - t là thời gian lao động tất yếu
- t’ là thời gian lao động thặng dư
Nếu chỉ xét dưới góc độ kinh tế thì m’ là một chỉ tiêu nói lên hiệu
quả sử dụng lao động sống. Ví dụ, trong việc sản xuất sợi, m’= 100%, có
nghĩa là nhà tư bản cứ bỏ ra 100 đồng để trả lương cho cơng nhân thì thu



7

được 100d giá trị thặng dư. Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, tiến
bộ khoa học, kỹ thuật càng được ứng dụng thì tỷ suất giá trị thặng dư càng
tăng.
Tỷ suất giá trị thặng dư mới chỉ phản ánh mức độ bóc lột chứ chưa
nói lên được quy mơ bóc lột. Phạm trù khối lượng giá trị thặng dư phản
ánh mặt đó của sự bóc lột.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà
tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng
cơng thức:
M = m’.V = . V’
Trong đó, V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian
trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc vào hai nhân tố m’ và V. Điều
đó có nghĩa là khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào thời gian, cường
độ lao động của mỗi công nhân và số lượng công nhân mà nhà tư bản sử
dụng.
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI
VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Đảm bảo cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế


8

Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh trong cơ chế thị trường
có thể được hiểu là cuộc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào
thị trường nhằm giành giật các lợi ích kinh tế về mình.
Các chủ thể kinh tế ở đây chính là các bên bán và bên mua các loại
hàng hoá mà họ mua được hay nói cách khác là họ muốn mua được loại

hàng có chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng mà giá cả lại rẻ.
ngược lại, bên bán bao giờ cũng hướng tới tối đa hoá lợi nhuận bằng cách
bán được nhiều hàng với giá cao. Vì vậy, các bên cạnh tranh với nhau để
giành những phần có lợi hơn về mình. Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp được C.Mác đề cập như sau: “cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch”. ở đây, Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh
tranh trong một không gian hẹp chủ nghĩa tư bản lúc này cạnh tranh được
xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại, quan niệm về cạnh tranh được
nhìn nhận từ góc độ khá tiêu cực.
Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp được hiểu một cách cứng nhắc. trong một thời kỳ
dài, chúng ta chỉ nhìn thấy mặt trái của cạnh tranh, phê phán cạnh tranh,
coi cạnh tranh là mạnh đè bẹp doanh nghiệp yếu mà chưa thấy được những
mặt tích cực của cạnh tranh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan


9

niệm về cạnh tranh của các doanh nghiệp ở nước ta đã được thay đổi. Ngày
nay, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh
là môi trường và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, cạnh tranh của
các doanh nghiệp được quan niệm là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt
giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất
về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ để thu được lợi nhuận lớn nhất
đồng thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chúng ta cùng có thể
hiểu theo nghĩa chung nhất cạnh tranh của các doanh nghiệp là sự ganh đua
giữa các doanh nghiệp trong việc giành giật khách hàng hoặc thị trường mà

kết quả cuối cùng là để tiêu thụ được ngày càng nhiều hàng hoá với lợi
nhuận cao.
Nếu xét trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau và
trên cơ sở nhu cầu mua sắm của xã hội thì chúng ta hiểu cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp là quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh
tế tích cực sáng tạo nhằm tồn tại được trên thị trường và ngày càng thu
được nhiều lợi nhuận trên cơ sở tạo ra các ưu thế về sản phẩm cũng như
trong tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa


10

Xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, nhất là thị
trường các yếu tố sản xuất; Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng
hiện đại các loại thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, khơng ngừng đổi mới cơ chế
chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn; Tiếp tục đổi mới việc xây dựng
và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hoàn thiện cơ chế quản lý của nhà nước phù hợp với kinh tế thị
trường; bảo đảm sự tương thích cơ chế quản lý nhà nước với cơ chế vận
động khách quan của thị trường. Nhà nước trở thành chất xúc tác cho các
chủ thể kinh tế vận hành hiệu quả và ổn định theo đúng quy luật thị trường.
Các cơng cụ can thiệp nhà nước phải mang tính minh bạch, dễ tiên liệu,
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước; Phân
định rõ quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh
nghiệp, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp.

Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh
tế phát triển, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi;“Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế”;
phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh. “Phân định rõ quyền của
người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý


11

của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có
người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh của mình" .
2.3. Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
Nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân nhằm cải thiện
năng lực cạnh tranh quốc gia trong q trình hội nhập sâu, rộng vào nền
kinh tế tồn cầu. Để đạt mục tiêu quan trọng này cần phải đẩy mạnh CNH,
HĐH, ứng dụng nhanh thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh
phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao
động xã hội; Cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng như
hệ thống giao thông vận tải, bến cảng, kho bãi, viễn thông, điện nước, v.v.
Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý các nhà quản lý, doanh nhân,
đội ngũ người lao động lành nghề và nâng cao trình độ tư duy kinh tế, kiến
thức kinh doanh cho các chủ hộ gia đình, hộ tiểu chủ;
Quan tâm tới việc tái sản xuất sức lao động của lực lượng lao động
để họ đủ sức lực và trình độ vận hành cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại của
nền kinh tế quốc dân. Chế độ chính sách về tiền lương/tiền công, phúc lợi
xã hội, an sinh xã hội, v.v. cần được điều chỉnh kịp thời, sát với điều kiện
biến đổi của thị trường.
2.4 Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với
nước ta



12

Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có
tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường
xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản
ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư
tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao
động quá sức của những người cơng nhân, thì đó là một khuynh hướng của
tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm
nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh
hướng kinh tế của tư bản dạy cho lồi người biết chi phí sức lực của mình
một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về
tư liệu".
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta
thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất
nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng
mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách
tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột cịn có tác dụng giải
phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó
chúng ta cịn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.


13

Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch,

máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ
trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh
nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức
thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa
bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi
được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở
để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà cịn cả hành vi bóc lột nói
riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh
theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ
bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã
hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp
để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong
phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều
tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột
giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về
quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ


14

thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ
động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả
người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài
thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu
thuẫn về lợi ích trong q trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân
xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết
cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế

độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được
luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm
cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện
nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả q trình hồn
thiện và xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.

C. KẾT LUẬN
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời cách đây khá lâu,
trong điều kiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị và trở


15

thành phương thức phổ biến ở các nước Châu Âu. Trên cơ sở kế thừa có
phê phán các tư tưởng kinh tế của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, phát triển
những nhân tố khoa học và trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp
cơng nhân. Chỉ ra cho nhân loại con đường phát triển tất yếu của lịch sử,
hướng tới một xã hội tương lai, mọi người đều có quyền bình đẳng, được
tự do đóng góp sức lực, trí tuệ để phát triển. Ở nước ta, mục đích nghiên
cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự
thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để
phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng
dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp
hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta cịn có mục đích
nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ
thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng
vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi
mới. Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở
trên chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư - học

thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ
sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học
thuyết đó cịn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.24, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Tồn tập, t.46, Phần I, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, Phần II, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong Chủ nghĩa tư bản
hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, 2007.


17



×