Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHƯƠNG THỨC DỊCH TIẾNG ANH THƯƠNG mại SANG TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67 KB, 16 trang )

CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG THỨC DỊCH TIẾNG ANH THƯƠNG MẠI
SANG TIẾNG VIỆT
METHODS AND PROCEDURES FOR TRANSLATING BUSINESS ENGLISH
INTO VIETNAMESE

Nguyễn Phước Vĩnh Cố
Ngơ Trần Diễm (*)
(*) Sinh viên tiếng Anh lớp 03 khóa 08 Khoa Tiếng Anh Chuyên Ngành
Trường Đại Học Ngoại Ngữ, Đại Học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bài báo giới thiệu hai phương pháp dịch cơ bản của Vinay và Darbelnet (1958):
a) dịch trực tiếp / dịch sát b) dịch gián tiếp / dịch xiên. Các phương pháp dịch
trực tiếp gồm ba phương thức: a) vay mượn b) sao phỏng c) dịch nguyên văn.
Các phương pháp dịch gián tiếp gồm bốn phương thức: a) chuyển đổi từ loại b)
biến thái c) tương đương d) dịch thốt. Bài báo mơ tả và phân tích các phương
thức dịch của Vinay và Darbelnet để ứng dụng chúng trong việc dịch tiếng Anh
thương mại sang tiếng Việt.
ABSTRACT
The paper presents two basic translation methods proposed by Vinay and
Darbelnet (1958): a) direct or literal translation and indirect or oblique translation.
Direct translation comprises three procedures: a) borrowing b) calque c) literal
translation. Indirect translation, in contrast, comprises four procedures: a)
transposition, b) modulation c) equivalence d) adaptation. The paper describes
and analyses Vinay and Darbelnet’s translation procedures to apply them to
translating business English into Vietnamese.


1.

Lời nói đầu


Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tại Việt Nam cụm từ “thân thiện với
người dùng” lần đầu tiên xuất hiện trên phương tiện truyền thông đại chúng khi
mô tả một “phần mền”, “phần cứng” của máy tính như giao diện, bàn phím. Về
sau từ ngữ này trở nên thông dụng và phổ biến đến nổi người ta mượn nguyên
cụm từ “thân thiện với” đi liền với các từ “môi trường”, “sinh thái”, “tầng ôdôn /
ozone”, “gia đình”. Những năm gần đây, ta lại bắt gặp một số thuật ngữ dù khơng
khó hiểu lắm nhưng có vẽ lạ lẫm như “nút cỗ chai”, “điểm đen”, “điểm cọng” “con
vịt què”, “ghế nóng” kể cả thuật ngữ nước ngoài như “hotline”, “live show”,
“marketing”, “karaoke”, “avatar”, “canteen/căntin”, “status”, “pro”, “online”, “top
ten”. Trong lĩnh vực thương mại, một số thuật ngữ mới xuất hiện như “lời chào
vàng ngọc”, “chiếc dù vàng”, “công nhân cổ cồn trắng”, “công nhân cổ cồn xanh”,
“tiếp thị qua điện thoại”, “bán qua điện thoại”, “bán theo kiểu hình chóp”, “các cơ
sở kinh doanh ở cửa hàng”, “các cơ sở kinh doanh qua internet” và một số
lượng lớn thuật ngữ thương mại sẽ được nêu trong bài báo này. Mục đích của
bài báo là phân tích, mơ tả và phân loại các phương thức dịch thuật của Vinay và
Darbelnet để cung cấp cho sinh viên ngoại ngữ nói chung và sinh viên chuyên
ngành thương mại nói riêng những phương thức dịch hữu ích và thích hợp khi
dịch các văn bản tiếng Anh thương mại sang tiếng Việt, đồng thời đưa ra những
câu trả lời và lý giải về nghĩa và hình thức của các thuật ngữ chuyên ngành hiện
đang được dùng trong lĩnh vực thương mại.
2.

Thuật ngữ

Richards và cộng sự [22,376], định nghĩa “thuật ngữ là những đơn vị từ vựng
đặc biệt xuất hiện trong một mơn học hay một chủ đề chun ngành”. Ví dụ,
mệnh đề (clause), liên từ (conjunction), và thể (aspect) là một bộ phận của thuật
ngữ ngữ pháp tiếng Anh.
3.Dịch thuật là gì?
Dịch thuật thường được biết đến như là một q trình chuyển nghĩa từ ngơn ngữ

gốc (Source language) sang ngôn ngữ dịch (Target language). Trong việc
chuyển nghĩa từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch, người dịch cần một cách
dịch hoặc một chiến lược dịch. Một số nhà lý thuyết dịch gọi nó là phương pháp
dịch (translation methods) như Newmark (1988) và một số nhà lý thuyết dịch


khác gọi là phương thức dịch (translation procedures) như Graedler (2000), Nida
(1964). Tuy nhiên Newmark cho rằng [19], trong khi phương pháp dịch liên quan
đến các văn bản đầy đủ thì phương thức dịch được dùng cho các câu và các
đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn câu. Dịch thuật theo định nghĩa của từ điển, bao hàm
việc thay đổi từ một trạng thái hoặc một hình thức sang một trạng thái hoặc một
hình thức khác để trở thành ngơn ngữ của chính nó hoặc một ngơn ngữ khác
(Từ điển Merriam-Webster 1994) [dẫn theo Larson,10,3]
4. Phương thức dịch
Theo Delisle [5], phương thức dịch là các phương pháp do các dịch giả áp dụng
khi họ diễn đạt một tương đương vì mục đích chuyển dịch các yếu tố nghĩa từ
ngơn ngữ gốc (SL) sang ngôn ngữ dịch (TL).
5. Phương thức dịch của Vinay và Darbelnet
Vinay và Darbelnet [27] phân biệt hai phương pháp dịch cơ bản: a) dịch trực tiếp
(direct)/dịch sát (literal) b) dịch gián tiếp (indirect)/dịch xiên (oblique). Các
phương pháp dịch dịch trực tiếp (direct method) gồm ba phương thức: a) vay
mượn (borrowing) b) sao phỏng/mượn dịch (calque) c) dịch nguyên văn (literal).
Các phương pháp dịch gián tiếp (indirect method) gồm bốn phương thức: a)
chuyển đổi từ loại (transposition) b) modulation (biến thái) c) equivalence (tương
đương) d) adaptation (dịch thoát).
3.1 Phương thức (1): vay mượn (borrowing)
Từ ngữ của ngôn ngữ gốc (source language) được chuyển thẳng sang ngôn ngữ
dịch (target language) [12]. Trong trường hợp để lấp một khoảng trống về ngữ
nghĩa (ví dụ, một kĩ thuật mới, một khái niệm chưa được biết đến) thì phương
thức dịch vay mượn là phương thức đơn giản trong tất cả. Haugen [dẫn theo

Sari,23] cho rằng một số khả năng có thể xảy ra trong vay mượn:
1) vay mượn thuần túy (pure loanwords): vay mượn mà khơng thay đổi về
hình thức và nghĩa. Ví dụ: email > email, internet > internet.
2) Vay mượn có thay đổi hình thức (mix loans): thay đổi hình thức nhưng
khơng thay đổi nghĩa. Ví dụ: cool > kul, canteen > căn tin


3) Vay mượn một phần (loan blends): sự vay mượn mà một phần của từ là
bản ngữ còn phần còn lại là vay mượn. Ví dụ: internet provider > nhà cung cấp
internet
Trong tiếng Anh thương mại, ta bắt gặp một số thuật ngữ:
-

vay mượn thuần túy: bill, export, hotel, import, marketing…

vay mượn có thay đổi về hình thức: cheque > séc, clearing > cliarinh,
dollar > đô la, marketing > măc-ket-tinh, penny > penni, arbitrage > ácbit, trust >
tơrớt…
vay mượn một phần: internet banking > ngân hàng internet, ozone layer >
tầng ozone, sushi bond > trái phiếu sushi, Wall Sreet > Phố Wall, Hague rules >
Quy tắc Hague, Paris Club > Câu lạc bộ Paris, Dow Jones index > chỉ số Dow
Jones…
3.2 Phương thức (2): sao phỏng (calque)
Sao phỏng còn gọi là dịch vay mượn (loan translation), dịch suốt (through
translation). Sao phỏng là một loại dịch vay mượn đặt biệt (a special kind of
borrowing): toàn bộ đơn vị cú pháp được vay mượn thế rồi các thành phần riêng
lẻ của nó được dịch sát nghĩa. Vinay và Darbelnet chia dịch sao phỏng ra làm
hai loại:
- Vay mượn từ vựng (lexical borrowing): tôn trọng cấu trúc cú pháp của ngôn
ngữ gốc/nguồn, đồng thời giới thiệu một phương thức mới của từ ngữ.,

Ví dụ, “Compliments de la saison” của tiếng Pháp được sao phỏng từ tiếng Anh
“Compliments of the season” (những lời chúc mừng nhân ngày lễ).
- Vay mượn cấu trúc (structural borrowing): giới thiệu một cấu trúc mới ở ngơn
ngữ dịch/mục tiêu.
Ví dụ, “science-fiction” của tiếng Pháp được sao phỏng cấu trúc từ tiếng Anh
“science-fiction” (truyện khoa học viễn tưởng).


Newmark [19,84], cho rằng lối dịch sát nghĩa của các kết hợp thông thường
(common collocations), tên các tổ chức (names of organizations), thành phần
của các từ ghép (components of compounds) và có lẽ cụm từ (compliments de la
saison) đều được biết đến là lối dịch sao phỏng (calque) hay dịch vay mượn
(loan translation).
Một số ví dụ về lối dịch sao phỏng ta thường gặp ở các kết hợp thông thường
trong tiếng Anh thương mại: “black market” (chợ đen), “hot money” (tiền nóng),
“baby bond” (cổ phiếu ấu nhi), “heavy industry” (cơng nghiệp nặng), “light
industry” (công nghiệp nhẹ) “white-collar workers” (công nhân cổ cồn trắng) tên
các tổ chức, cơ quan: “European Union” (Liên Hiệp Châu Âu), “International
Monetary Fund” (Qũy Tiền Tệ Quốc Tế), “World Bank” (Ngân Hàng Thế Giới) và
các từ ghép thơng thường: “showroom” (phịng trưng bày), “pawnshop” (tiệm
cầm đồ). Qua cách dịch sao phỏng, ta thấy từ nào cũng được “dịch đồ theo”
(calque) ngun nghĩa từ ấy, cịn vị trí của từ được sắp xếp theo cú pháp tiếng
Việt. Trong trường hợp dùng từ Hán-Việt thì vị trí khơng thay đổi, ví dụ như:
“superman” (siêu nhân), “total productivity” (tổng sản lượng). Trong tiếng Việt, có
một cụm từ được dịch theo lối sao phỏng từ tiếng Anh nay đã trở thành cố định:
cụm từ “thân thiện với người dùng” (user-friendly), về sau người ta dịch đồ theo
“thân thiện với môi trường” (environment(ally)-friendly), “thân thiện với sinh thái”
(eco-friendly). Thực ra, tính từ “friendly” khi được dùng trong tính từ ghép vừa có
nghĩa “hữu ích và dễ sử dụng”, ví dụ: user-friendly computer system (hệ thống
máy tính dễ sử dụng cho người dùng lại vừa có nghĩa “có ích / khơng có hại cho

ai / cái gì”, ví dụ: environment(ally)-friendly farming methods (các phương pháp
canh tác không hại đến môi trường), và cụm từ “family-friendly” có nghĩa “ phù
hợp cho người lao động có con mọn”, ví dụ “family-friendly policies” / “working
hours”. Là người dịch (viết hay nói), ta cần thận trọng với lối dịch sao phỏng này.
Các từ ngữ được dịch theo lối sao phỏng phải là những kết hợp thông thường,
các từ đã nghe quen tai, nếu khơng ta sẽ có những cấu trúc, lối nói khơng tự
nhiên ở ngơn ngữ dịch, ví dụ như “kinh tế gia đình” mà dịch là “household
economy” thay vì “cottage industry”, “giữ chân người tài”mà dịch là “keep talent’s
legs” thay vì “attract and keep talent”, “ strong coffee” mà dịch là “cà phê
mạnh” 1 thay vì “cà phê đậm”, “golden hello” mà dịch là “lời chào vàng ngọc” thay
vì “tiền thưởng đầu quân”, “golden goodbye” mà dịch là “lời tạm biệt vàng ngọc”
thay vì “phụ cấp thôi việc”…v.v,


3.3 Phương thức (3): dịch nguyên văn (literal)
Dịch nguyên văn là phương thức dịch từ đối từ (word for word translation), là sự
thay thế cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ gốc thường là câu hoặc mệnh đề bằng
cú pháp đồng dạng hoặc gần như đồng dạng. Người dịch không cần phải tạo ra
các thay đổi trừ các thay đổi mà chính ngữ pháp của ngơn ngữ dịch địi hỏi, ví dụ
như sự tương hợp (concord), các đi thuộc về biến tố (inflectional endings). Ví
dụ như “I left my spectacles on the table downstairs” dịch sang tiếng Pháp thành
“J’ai laissé mes lunettes sur la table en bas”. Phương thức này được Vinay và
Darbelnet mô tả là phổ biến nhất giữa các ngơn ngữ có cùng hệ phả và văn hóa
(it is most commonly found in translations between two languages of the same
family and even more so when they also share the same culture), ví dụ giữa
tiếng Pháp và Ý.
3.4 Phương thức (4): chuyển đổi từ loại (transposition)
Chuyển đổi từ loại có nghĩa là thay thế một từ loại này bằng một từ loại khác mà
không thay đổi nghĩa của thông điệp (transposition means the replacing of one
word-class by another without changing the meaning of the message). Trong

dịch thuật, có thể phân biệt 2 loại chuyển đổi từ loại: (i) bắt buộc (obligatory); (ii)
không bắt buộc (optional).
- Chuyển đổi từ loại bắt buộc: ví dụ, ở tiếng Pháp, “dès son lever” khi được dịch
sang tiếng Anh thì chỉ có một phương thức chuyển đổi từ loại bắt buộc từ danh
từ tiếng Pháp “lever” (sự thức dậy) sang cụm động từ ở tiếng Anh: as soon as he
gets / got up, vì tiếng Anh chỉ có một hình thức động từ mà thôi.
- Chuyển đổi từ loại không bắt buộc: nếu như dịch ngược lại câu “as soon as he
gets / got up” thì có thể dịch ngun văn là “dès qu’elle s’est levée” hoặc dịch
theo phương thức chuyển đổi động từ thành danh từ là “dès son lever”. Trái lại,
hai câu tương đương “après qu’ il sera revenu” và “after he comes back” đều có
thể dịch theo phương thức chuyển đổi từ loại là “après son retour”, “after his
return”.
Phương thức chuyển đổi từ loại không chỉ xảy ra giữa hai từ loại động từ và
danh từ mà còn giữa các từ loại khác. Vinay và Darbelnet liệt kê ít ra mười loại


chuyển đổi từ loại khác nhau. Sau đây là một số ví dụ về chuyển đổi từ loại liên
quan đến tiếng Anh thương mại:
- từ đơn dịch thành từ ghép: bail —> tiền bảo lãnh, ledger —> sổ cái, …
- từ đơn dịch thành ngữ: bear > người đầu cơ giá xuống, bull > người đầu cơ giá
lên, equity —> vốn cổ phiếu thường, shark > kẻ cho vay nặng lãi, solvent —> có
khả năng thanh tốn, staff > đội ngũ nhân sự, stag > người đầu cơ xổi…
Phương thức chuyển đổi từ loại có thể ví như chuyển đổi trong dịch thuật
(translation shifts) của Catford. Để hiểu thêm về phương thức chuyển đổi từ loại
và chuyển đổi dịch thuật, xin xem Nguyễn Thượng Hùng, Catford, Hồ Canh Thân
và những cộng sự (sđd).
3.5 Phương thức (5): biến thái (modulation)
Phương thức “biến thái” có nghĩa là sự thay đổi trong thơng điệp do có một sự
thay đổi về quan điểm (modulation means a variation in the message due to a
change in the point of view): hiểu một điều gì đó theo một cách nhìn khác.

Phương thức này thích hợp khi dịch nguyên văn hoặc chuyển vị có được một
câu dịch đúng ngữ pháp nhưng lại không tự nhiên trong ngôn ngữ dịch. Trong
phương thức biến thái, ta có thể phân biệt biến thái tự do / không bắt buộc (free /
optional) với biến thái cố định / bắt buộc (fixed / obligatory).
- Biến thái cố định / bắt buộc: như trong trường hợp “the time when” phải dịch
sang tiếng Pháp là “le moment où” (the time thành the moment, một đơn vị thời
gian; và when thành where). Cách dịch biến thái bắt buộc tương đương trong
trường hợp này ở tiếng Việt sẽ là “lúc mà” (the time thành the moment; và when
thành that).
- Biến thái tự do / không bắt buộc: có thể lựa chọn cấu trúc được ưa thích hơn ở
ngơn ngữ dịch: ví dụ “it is not dificult to show” mà dịch là “il est facile de
desmontrer” (it is easy to show) là do người Pháp thường thích nói như vậy chứ
không phải là không dịch được nguyên văn. Phương thức biến thái không bắt
buộc cũng được sử dụng trong phiên dịch đồng thời (simultaneous interpreting),
được gọi là kỹ thuật reformulation (nói lại cách khác): ví dụ, nếu diễn giả nói
“There has never been a period in history where people have not asked


themselves the question…”, thì phiên dịch có thể nói lại cách khác (reformulate)
như “Throughout history people have always asked themselves the question…”
(Trong lịch sử, con người luôn tự hỏi…) là do người Việt vẫn thích lối khẳng định
thay vì dùng hai phủ định trong tiếng Anh. Ngoài hai loại biến thái: bắt buộc và
không bắt buộc đề cập ở trên, cịn có một vài loại biến thái khác. Sau đây là một
số ví dụ về các loại biến thái này liên quan đến lĩnh vực tiếng Anh thương mại.
- cụ thể chuyển thành trừu tượng: bear market > thị trường xuống giá, bed and
breakfast > bán và mua lại ngay, bottleneck > sự bế tắc, bull market > thị trường
giá lên, daisy chain > việc mua bán vờ vịt, dead-cat bounce > sự hồi phục nhất
thời, fallen angels > những chứng khoán mất giá, fast food > thực phẩm ăn liền,
grandfather clause > điều khoản miễn trừ, graveyard market > thị trường xuống
giá, haircut > mức hớt xén, head hunter > người / công ty săn lùng chất xám,

head office > trụ sở chính, horse-trading > sự mặc cả tinh khôn, infant industry >
ngành công nghiệp non trẻ, lame duck > người / công ty thất bại, master budget
> ngân sách chính, peanuts > số tiền nhỏ, peppercorn rent > tô danh nghĩa,
people-intensive > dùng nhiều lao động, red herring > bản cáo bạch thăm dò, red
tape > tệ quan liêu, sandwich course > khóa học vừa học vừa làm, sunrise
industry > ngành công nghiệp đang lên, sunset industry > ngành cơng nghiệp
đang tàn, wildcat strike > đình cơng manh động, widow-and-orphan stock > cổ
phiếu rất có giá trị, window dressing > vẻ lịe loẹt bề ngồi…
- trừu tượng chuyển thành cụ thể: available assets > tài sản tiền mặt, quick
assets > tài sản dể đổi thành tiền mặt, entertainment account > tài khoản tiếp
khách, holding company > công ty mẹ, hyper-inflation > lạm phát phi mã,
industrial relations > mối quan hệ giữa chủ và thợ, outstanding shares > những
cổ phiếu nằm trong tay cổ đông, subsidiary company > công ty con, unwritten
contract > hợp đồng miệng…
- bộ phận này chuyển thành bộ phận khác: head tax > thuế thân, house
magazine > tạp chí của hãng, pie chart > biểu đồ trịn…
- phủ định của khơng -A chuyển thành A: unskilled labour > lao động giản đơn /
phổ thông, diseconomies of scale > giảm hiệu quả kinh tế do quy mô, nondurables > hàng tiêu dùng mau hỏng, non-manual workers > giới lao động trí
thức…


- A chuyển thành phủ định của không -A: bare contract > hợp đồng không đền
bù, bad title > văn tự sở hữu khơng có giá trị, bear cheque > séc vô danh,
dormant companies > các công ty không hoạt động, environment(ally)-friendly >
không hại đến môi trường, demand deposit > tiền gởi khơng kỳ hạn, deregulation
> phi điều tiết hóa, foul bill of lading > vận đơn khơng hồn hảo, nude / naked
contract > hợp đồng không đền bù, silent / sleeping partner > hội viên không
hoạt động, hostile takeover > việc tiếp quản không được đồng thuận…
- đổi biểu tượng (ẩn dụ kiểu này đổi sang ẩn dụ kiểu khác): bricks-and-mortar
businesses > các cơ sở kinh doanh qua cửa hàng, clicks-and-mortar company >

công ty kinh doanh qua internet, golden hello > tiền thưởng đầu quân, brain drain
> chảy máu chất xám..
3.6 Phương thức (6): tương đương (equivalence)
Vinay và Darbelnet dùng thuật ngữ này để chỉ những trường hợp khi hai ngơn
ngữ cùng mơ tả một tình huống nhưng với các phương tiện cấu trúc hoặc phong
cách khác nhau. Có thể lấy một ví dụ cổ điển về phản ứng của người thợ khơng
chun vơ tình đập búa trúng ngón tay mình: nếu là một người Pháp, họ sẽ nói
“Aie!”, nhưng nếu là người Anh thì họ sẽ nói “Ouch!”. Tương đương trong tình
huống này ở tiếng Việt sẽ là “Ơí!”. Ví dụ này dù khá đơn giản nhưng minh họa
được một đặc trưng cụ thể của phương thức này: các thay đổi liên quan đều có
tính cú đoạn (syntagmatic), ảnh hưởng đến tồn bộ thơng báo. Theo Vinay và
Darbelnet phương thức tương đương đặt biệt hữu ích trong việc dịch cách ngôn,
thành ngữ, các kết hợp danh từ hoặc tính từ. Cách ngơn (proverbs) cung cấp
các minh họa về phương thức này. Ví dụ: cách ngơn Pháp “comme un chien
dans un jeu de quilles” (like a dog in a game of skittles) và tương đương của nó
trong cách ngơn Anh “like a bull in a china shop” (người thô lỗ, vụng về) và “deux
patrons font chavirer la barque” (two skippers will capsize the boat) và tương
đương của nó trong cách ngôn Anh “too many cooks spoil the broth” (lắm thầy
thối ma) được xem là tương đương vì chúng chỉ cùng một tình huống nhưng với
các phương tiện cấu trúc và hình ảnh khác hẳn nhau.
Một vài ví dụ về cách ngôn tiếng Anh liên quan đến lĩnh vực thương mại và
phương thức dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt:
Cách ngôn tiếng Anh

Phương thức dịch tương đương sang tiếng Việt


The dearest is the cheapest

Của rẻ là của ôi


Điều tương tự cũng đúng với trường hợp dịch các thành ngữ. “to talk through
one’s hat” (nói càng) hoặc “as like as two peas” (giống như hai giọt nước) lại
càng không được dịch theo phương pháp sao phỏng (calque).
Một vài ví dụ về thành ngữ tiếng Anh liên quan đến lĩnh vực thương mại và
phương thức dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt:
Thành ngữ tiếng Anh

Phương thức dịch tương đương sang tiếng Việt

be in the black

lời

be in the red

lỗ

blow the whistle on (sb/sth)

tố cáo (ai / điều gì)

buy a pig in a poke

mua trâu vẽ bóng

come / go under the hammer

được bán đấu giá


cook the books

gian lận sổ sách

corner the market

lũng đoạn thị trường

flood the market

tràn ngập thị trường

get the axe

bị đuổi / thải hồi

hammer the market
bán một lúc một chứng khốn với số lượng
lớn làm cho giá của nó xuống nhanh
one’s money’s worth

đáng đồng tiền bát gạo

pay through the nose

giá cắt cổ

take a bath

thất cơ lỡ vận


wear and tear

hao mòn


Phương thức tương đương cịn đóng một vai trị quan trọng trong trường hợp
dịch các kết hợp danh từ và tính từ trong tiếng Anh thương mại. Theo từ điển
tiếng Anh thương mại (NXB Longman) [ ,vi] danh từ ghép chiếm một bộ phận lớn
tiếng Anh thương mại. Newmark [19,145] cho rằng các kết hợp mới (danh từ
ghép/tính từ với danh từ) đặc biệt phổ biến trong khoa học xã hội và trong ngơn
ngữ vi tính. Tuy nhiên điều cần lưu ý là sự khác biệt giữa “cụm từ”: các kết hợp
thông thường (xin xem phương thức sao phỏng) và “danh từ ghép” Lấy ví dụ từ
“sleeping partner” nếu là cụm từ, ta sẽ dịch theo phương thức sao phỏng là “đối
tác đang ngũ” (partner who is sleeping) nhưng nếu là danh từ ghép, ta sẽ dịch
theo phương thức tương đương (equivalence) là “đối tác không hoạt động”
(partner who does not take an active role).
Một số ví dụ về các danh từ ghép trong tiếng Anh thương mại và phương thức
dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt
- economic / useful life

thời hạn sử dụng

- qualified opinion

sự đánh giá có phê chú

- qualified report

bản báo cáo kiểm tốn có phê chú / có vấn đề


- sleeping beauty

một cơng ty hấp dẫn

- translation methods

các phương pháp quy đổi ngoại hối

- translation gain / loss

lãi / lỗ do quy đổi ngoại hối

- umbrella organization

tổ chức bao trùm

- think-tank

nhóm chuyên gia cố vấn

Tuy nhiên, một số thuật ngữ tiếng Anh khi chuyển sang tiếng Việt nếu được dịch
phương thức sao phỏng (calque) thì rất tự nhiên và dễ hiểu như: black spot
(điểm đen), plus point (điểm cọng), bottleneck (nút cổ chai / chỗ đường dễ bị ùn
tắc), blue-collar worker (công nhân cổ cồn xanh), hot seat (ghế nóng), nhưng
một số khác thì lạ lẫm và khó hiểu như: lameduck (con vịt què), player (tay chơi)



3.7 Phương thức (7): dịch thoát (adaptation)

Đây là phương thức cuối cùng được dùng khi một tình huống trong văn hóa gốc
khơng tồn tại trong văn hóa dịch vì vậy phải có một sở chỉ tương đương với văn
hóa gốc trong văn hóa dịch. Sau đây là một ví dụ về phương thức dịch thoát
được nêu bởi Vinay và Darbelnet: về mặt văn hóa việc ơng bố người Anh hơn
con gái mình ở miệng là bình thường nhưng một hành động tương tự là không
thể chấp nhận xét về mặt văn hóa ở một văn bản tiếng Pháp. Để dịch câu “he
kissed his daughter on the mouth” trong ngữ cảnh một người cha trở về nhà sau
khi đi du lịch dài ngày thì người dịch phải tạo ra một tình huống mới mà có thể
được xem là tương đương. Vì vậy, phương thức dịch thốt có thể được mơ tả là
một loại tương đương đặc biệt, tương đương tình huống. Cách dịch phù hợp
hơn trong trường hợp này sẽ là “il serra tendrement sa fille dans ses bra” (“he
tenderly embraced his daughter in his arms”: ông ta âu yếm ôm cơ gái con của
mình). Trong tiếng Anh thương mại, danh từ riêng “Goliath”2 thường chỉ một cơng
ty có tiềm lực tài chính, vì vậy khi gặp từ đó trong các ví dụ sau: “the company is
the Goliath of the computer industry” hoặc “a telecomes goliath” thì từ “goliath”
trong ví dụ này theo phương thức dịch thoát nên dịch là “đại gia”, “ông lớn” / “gã
khổng lồ”. Ở tiếng Việt, khi nói về một kẻ yếu mà dám chống kẻ mạnh hơn gấp
bội , người ta thường ví von là “châu chấu đá xe”, “châu chấu đá voi” hoặc
“trứng chọi với đá”. Để dịch câu “Gaddafi quyết “châu chấu đá xe”, tấn công
Châu âu”. Câu dịch tương đương theo phương thức dịch thoát sẽ là “Gaddafi
(David) determined to attack Europe (Goliath). Trong văn hóa Việt cũng như các
nên văn hóa chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung hoa, con rồng ln được xem là
biểu tượng vương quyền (royal power) dưới chế độ phong kiến. Rồng được xem
là một linh vật đứng đầu trong tứ linh: Long, Lân, Quy và Phụng.Người Việt xem
rồng là biểu tượng của sự tốt đẹp, may mắn và thịnh vượng, tuy nhiên từ con
rồng (the dragon) lại là một con vật hung dữ, biểu tượng của sự xấu xa, độc ác
và có ý nghĩa rất tiêu cực trong văn hóa Tây phương vì vậy trong Kinh thánh để
chuyển được nét nghĩa của từ con rồng từ tiếng Anh sang tiếng Việt người dịch
phải tìm một sở chỉ tương đương ở tiếng Việt là con “mãng xà” (con vật làm việc
ác trong cổ tích Việt nam). Ví dụ sau đây cho thấy người dịch đã áp dụng

phương thức dịch thoát cho từ “dragon”. “The woman in charge of the accounts
department is an absolute dragon!” (Người đàn bà phụ trách phịng kế tốn là
một bà chằn đích thị!). Khi nói về các quốc gia phát triển với ý nghĩa khen ngợi,
người ta thường dùng chữ “rồng”, ví dụ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore


được gọi là những con rồng Châu Á / con rồng kinh tế. Tuy nhiên, sở chỉ tương
đương với từ rồng trong tiếng Anh lại là “Tigers” (con hổ) chứ khơng phải là
“Dragons” (con rồng)3.
Phương thức dịch thốt thường được dùng để dịch tên phim, kịch hoặc tên tiểu
thuyết. Ví dụ, tên phim “Memmoirs of a Geisha” được dịch là “Đời kỹ nữ”, tên
sách “When Heaven and Earth changed places” được dịch là “Khi trời đất đổi
thay”, tên tiểu thuyết “The Scarlet Letter” được dịch là “Nét chữ ô nhục”.4

4. Kết luận
Bảy phương thức phát thảo ở trên đều được ứng dụng cho các mức độ khác
nhau ở ba bình diện: từ vựng, cú pháp và thông báo. Trong tiếng Pháp, ví dụ
phương thức vay mượn ngồi việc vay mượn cấu trúc / cú pháp (structural
borrowings) như “science-fiction” (truyện khoa học viễn tưởng), người ta cịn có
thể nói đến sự vay mượn ở cấp độ từ vựng (borrowings on the lexical level):
bulldozer (máy ủi), stopover (trạm dừng chân) và sự vay mượn ở cấp độ thông
báo (the message level): O.K (đồng ý), five o’clock tea (uống trà lúc 5 giờ). Theo
Vinay và Darbelnet, trong một câu, có thể áp dụng một vài phương thức trong số
7 phương thức nêu trên: ví dụ, việc dịch từ “paper-weight” (cái chặn giấy) thành
“presse-papier” liên quan đến cả phương thức chuyển vị lẫn phương thức biến
điệu. Trong tiếng Anh thương mại, các từ “bear” và “bull” là các từ đơn (simple
words) khi chuyển dịch sang tiếng Anh thành ngữ (phrases): “bull” thành (người
đầu cơ giá lên), “bear” (người đầu cơ giá xuống) và từ ẩn dụ này (con vật) sang
ẩn dụ khác (con người) nên cả hai cách dịch trên đều được xem vừa là chuyển
vị vừa là biến điệu. Việc mô tả, phân tích và phân loại chi tiết các phương thức

dịch của Vinay và Darbelnet và ứng dụng chúng vào một văn bản chuyên ngành
như tiếng Anh thương mại cho thấy rằng các phương thức này là súc tích, dễ sử
dụng và linh hoạt trong việc ứng dụng để dịch một văn bản tiếng Anh thương mại
sang tiếng Việt.
1

Xin xem bài “Việt Nam dưới mắt nhìn của họ” trong “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” số 52012 (1474)


2

Goliath là từ chỉ gã khổng lồ trong Kinh thánh, bị giết bởi một hòn đá do một
chàng trai tên là David ném, (xin xem trong “The Holy Bible” (I Sam 17 p. 198).
3

Cần lưu ý là một số quốc gia Châu Á thường dùng từ “Asian dragons”,
“economic dragons”, “dragon economies”…v.v, trong các văn bản viết bằng tiếng
Anh của họ.
4

Tiểu thuyết “The Scarlet Letter” là cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1850 của
Nathaniel Hawthorne và được dịch sang tiếng Việt là “Chữ A màu đỏ” (dịch giả:
Lâm Hoài, NXB Văn Học, 2011), tuy nhiên tơi vẫn thích cách dịch của một người
thầy đã dạy tôi ở Đại Học Sư Phạm Huế vào những năm đầu của thập niên 80
và gần đây của một tiến sĩ dạy văn chương tại Đại học Montana (Mỹ), là “Nét
chữ ô nhục”. Xin xem “Giấc mơ văn học Việt trên đất Mỹ”, tr.26 trong Tuổi Trẻ
Cuối Tuần số 3-2012 (1472).
Sách Tham Khảo
[1] Baker M. (1992), In Other Words, A Course-book on Translation, Routledge.
[2] Catford J.C (ed), “Translation Shifts” p.p 70-79 in Chesterman.A. (1989),

Readings in Translation Theory, Loimaan Kirjapaino Oy.
[3] Đái Xuân Ninh & một số cộng sự (1984), Ngôn Ngữ Học: Khuynh HướngLĩnh Vực-Khái Niệm (Tập I), NXB Khoa Học Xã Hội.
[4] Đái Xuân Ninh & một số cộng sự (1986), Ngôn Ngữ Học: Khuynh HướngLĩnh Vực-Khái Niệm (Tập II), NXB Khoa Học Xã Hội.
[5] Delisle J. & et al. (ed), Translation Terminogogy, Amsterdam and Philadelphia:
Jonh Benjamins (1999).
[6] Hà Quang Minh (1997), Giải Thích Thuật Ngữ Kinh Tế Anh-Việt Thông Dụng,
NXB Giao Thông Vận Tải.
[7] Hans. Kathy L (2004), Business Idioms From Silicon Valley. Lê Thành Tâm và
Lê Ngọc Phương Anh giới thiệu. NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh.


[8] Hồ Canh Thân, Vương Xuân Huy, Thân Vân Trinh (2007), Soạn Thảo và Dịch
Hợp Đồng Thương Mại Quốc Tế. Nguyễn Thành Yến dịch. NXB Tổng Hợp
Thành Phố HCM.
[9] Jones, Roderick (2002), Conference Interpreting Explained, St. Jerome
Publishing.
[10] Larson, M.L (1998), Meaning-based Translation: A Guide to Cross-Language
Equivalence, University of Press America.
[11] Lê Hùng Tiến (2007), Vấn Đề Phương Pháp Trong Dịch Thuật Anh-Việt trong
Tạp Chí Khoa Học – Chuyên San Ngoại Ngữ, Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
[12] Munday J. (2009), Nhập Môn Nghiên Cứu Dịch Thuật: Lý Thuyết và Ứng
Dụng (Trịnh Lữ dịch), NXB Trí Thức.
[13] N.H Việt Tiến-Elizabeth Hodgkin-Hữu Ngọc-Mary Cowan (1995), Sổ Tay
Người Dịch Tiếng Anh, NXB Giáo Dục.
[14] Nguyễn Quốc Hùng (2005), Hướng Dẫn Kỹ Thuật Dịch Anh-Việt, NXB Khoa
Học Xã Hội.
[15] Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng Dẫn Kỹ Thuật Phiên Dịch Anh-Việt ViệtAnh, NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM.
[16] Nguyễn Thị Sang, Tiếng Việt và Tiếng Hoa. Truy cập ngày 2/2/2012
từaiwan/…/50vietnam.htm
[17] Nguyễn Thượng Hùng (2005), Dịch Thuật: từ Lý Thuyết đến Thực Hành,

NXB Văn Hóa Sài Gòn.
[18] Newmark P. (1981), Approaches to Translation, Pergamon, Oxford.
[19] Newmark P. (1988), A Textbook of Translation, Prentice Hall, New York and
London.
[20] Nguyễn Vạn Phú (1999), Tiếng Anh Lý Thú, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh.


[21]Phan Ngọc (2000), Vài Mẹo Về Phong Cách Khoa Học trong “Cách Giải
Thích Văn Học bằng Ngơn Ngữ Học”, NXB Trẻ.
[22]Richards & et al (1999), Dictionary of Language Teaching & Applied
Linguistics, Longman.
[23]Sari, F. K (2009), An Analysis of Translation Procedures of Translating
Computer Terms in Andrews Tanenbaum 3rd Computer Networks into Bahasa
Indonesia.
[24]The Holy Bible, King James Version, World Bible Publisher.
[25]Trần Thanh Aí (2009), Từ Điển Từ Vay Mượn Trong Tiếng Việt Hiện Đại, NXB
Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.
[26] Trịnh Nhật (2011), Thử Đi Tìm Cái Tương Đương Trong Phiên Dịch. Truy
cập ngày 2/12/2011 từ vny2k.net/…/FrankTrinh_TuongduongTrongPhie…
[27] Vinay J.P. & Darbelnet J. (ed), “Translation Procedures” p.p 61-69 in
Chesterman .A. (1989), Readings in Translation Theory, Loimaan Kirjapaino Oy.
TỪ ĐIỂN THAM KHẢO
[28] Từ Điển Anh-Việt (Viện Ngơn Ngữ Học). NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007).
[29]Từ Điển Kinh Tế Kinh Doanh Anh-Việt. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật (2000).
[30]Từ Điển Thuật Ngữ Chuyên Ngành Biên Phiên Dịch Anh-Việt. NXB Thanh
Niên.
[31]Từ Điển Oxford Advanced Learner’s Dictionary, NXB Oxford University Press
(2005).
[32]Từ Điển Longman Business English Dictionary, NXB Longman (2007).
[33]Từ Điển Thuật Ngữ Thị Trường Chứng Khoán Anh-Anh-Việt. NXB Trẻ

(2004).



×