Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT OF LOGISTICS SECTOR IN VIETNAM
Nguyễn Lê Đình Quý
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt-Anh – Đại học Đà Nẵng
Email:
TS. Hồ Tuấn Vũ
Đại học Duy Tân , Email:
NCS. Hồ Nguyên Khoa
Đại Học Duy Tân, Email:
Tóm tắt
Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trị hỗ
trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để phát triển ngành này cần có sự chuẩn bị mọi mặt về nguồn nhân lực.
Trên cơ sở mơ tả và phân tích thực trạng nguồn nhân lực của ngành Logisitics, bài viết đề xuất giải pháp phát
triển nguồn nhân lực giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của Logistics Việt Nam trong chuỗi dịch vụ tồn cầu.
Từ khóa: Ngành logistics, nguồn nhân lực.
Abstract
Logistics is an important service industry in the overall structure of the national economy, playing a
supporting role, connecting and promoting socio-economic development of the country as well as each locality,
contributing to improving competitiveness of the economy. To develop this industry, it is necessary to prepare
all aspects of human resources. Based on the description and analysis of the real situation of human resources
of the Logisitics industry, the article proposes a solution to develop human resources to enhance the
competitiveness of Logistics Vietnam in the global service chain.
Keywords: Logistics industry, human resources.
1. Thực trạng ngành Logistics tại Việt Nam
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, năm 2014, Việt Nam có khoảng 1.200 doanh nghiệp đang hoạt
động trong lĩnh vực logistics trong tổng số 300.000 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ liên quan tới
logistics, trong đó, cũng chỉ có khoảng 6.000 nhân viên chuyên nghiệp trong tổng số gần 1 triệu người
hoạt động trong lĩnh vực này. Đa phần các doanh nghiệp đều thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ,
trừ các doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần có quy mơ tương đối lớn (từ 100 - 300 nhân viên), số cịn
lại trung bình từ dưới 50 nhân viên, năng lực cạnh tranh và hoạt động còn nhiều hạn chế… Đây là một
con số lượng doanh nghiệp khá lớn nhưng trên thực tế đa phần lại là những doanh nghiệp nhỏ và rất
nhỏ. Do vốn ít nên cơ cấu tổ chức doanh nghiệp cũng đơn giản, không thật sự chuyên sâu, không tổ
chức được các văn phịng đại diện ở nước ngồi nên nguồn thơng tin bị hạn chế, các cơng việc ở nước
ngồi đều phải thông qua các đại lý của các công ty đa quốc gia. Điều này dẫn đến đa số các doanh
nghiệp chỉ dừng lại ở việc làm đại lý cấp 2, cấp 3, thậm chí cấp 4 cho các đối tác nước ngồi có mạng
lưới tồn cầu mà chưa tổ chức kết nối được các hoạt động vận tải đa phương thức. Vậy nên, mức độ
đóng góp cho nền kinh tế của ngành dịch vụ logistics còn thấp, mới chỉ vào khoảng 2-3% GDP. Ngoài
ra, tỷ lệ thuê ngoài của ngành dịch vụ logistics chưa cao, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh
nghiệp thương mại vẫn phải tự thực hiện các dịch vụ logistics, khiến hoạt động này kém hiệu quả.
Do phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu hàng theo điều kiện FOB, FCA trong
incoterms, nên quyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và dĩ nhiên người mua sẽ chỉ
định một công ty nước họ để thực hiện điều này. Do đó các cơng ty logistics của Việt Nam sẽ là khơng
có nhiều cơ hội để cung ứng dịch vụ logisitcs. Điều này khơng phải dễ dàng giải quyết vì phần lớn các
nhà xuất khẩu của Việt Nam đều gia công hoặc xuất hàng cho những khách hàng lớn đã có những hợp
đồng dài hạn với các cơng ty logistics tồn cầu.
568
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
Việt Nam nhập siêu nên đây là thị trường hấp dẫn cho các công ty logistics của Việt Nam. Nếu
như trước đây, các nhà nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu mua hàng theo điều kiện CIF, thì hiện nay
các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam đang chuyển dần sang hình thức mua FOB, tạo ra cơ hội
cho các doanh nghiệp logisitics Việt Nam khai thác. Tuy nhiên, một phần khá lớn trong thị trường này
vẫn nằm trong tay các hãng logisitics nước ngoài do có nhiều doanh nghiệp nước ngồi đầu tư trực tiếp
tại Việt Nam mà họ cũng chính là người nhập khẩu hàng nhiều nhất.
Chi phí logistics của Việt Nam được dự đoán khoảng 25% GDP của Việt Nam, cao hơn rất
nhiều so với các nước phát triển như Mỹ và cao hơn các nước đang phát triển như Trung Quốc hay
Thái Lan. Chính chi phí logistics cao này làm giảm hiệu quả những cố gắng của Việt Nam trong việc
giới thiệu thị trường lao động giá rẻ và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngun nhân chính gây nên tình trạng này
là cơ sở hạ tầng vận tải của Việt Nam đã quá cũ kỹ và quá tải, hệ thống quản lý hành chính phức tạp và
các nhà sản xuất Việt Nam khơng tích cực sử dụng các dịch vụ th ngồi 3PL (third party logistics)
của nước ngoài.
2. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Logistics tại Việt Nam
Ngành logistics giai đoạn 2017-2020 sẽ cần thêm khoảng 20 ngàn lao động chất lượng cao, có
trình độ chun mơn. Và đến 2030 con số này sẽ chạm ngưỡng 200 ngàn lao động đáp ứng đủ u cầu
về kỹ năng, kiến thức chun mơn và trình độ tiếng Anh. Việt Nam đang phải đối mặt đó chính là
nguồn nhân lực logistics thiếu về số lượng, yếu về trình độ chun mơn, tính chun nghiệp khơng cao
và đi kèm với đó là các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành này vẫn chưa được
chú trọng phát triển.
Hình 1. Kết quả khảo sát về những hạn chế nguồn lực ngành Logistics Việt Nam
Về số lượng: Chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển
Theo Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, đa số các doanh
nghiệp logistics Việt Nam có quy mơ nhỏ, số lượng nhân viên ít năng lực hạn chế. Trong khi đó, tiềm
năng và nhu cầu đối với thị trường logistics rất lớn, số lượng các doanh nghiệp logistics với quy mô
siêu nhỏ mới chỉ đáp ứng được một phần rất khiêm tốn của thị trường.
Theo Hiệp hội doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), hiện nguồn nhân lực logistics
mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của ngành. Với tốc độ tăng trưởng trung bình 30% mỗi năm,
nhân sự ngành logistics vẫn là bài toán đau đầu của các doanh nghiệp trong ngành.
Khi đề cập đến nhu cầu đào tạo các khóa ngắn hạn cho nhân viên logistics, các công ty rất chú
trọng đến các mảng như chuỗi cung ứng (38,3%), vận tải quốc tế (36,7%), quản lý hệ thống thông tin
(35%).
Theo Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh, hiện nay tại Việt Nam, có đến 53,3% doanh
nghiệp được khảo sát là thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chun mơn và kiến thức về logistics, chỉ
có một tỷ lệ rất nhỏ 16,7% các doanh nghiệp hài lòng về trình độ chun mơn của nhân viên, có tới
30% doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên sau tuyển dụng.
569
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
Hình 2. Kết quả khảo sát về chất lượng nhân lực Logistics tại Việt Nam
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển TP.HCM
Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu và phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân, hiện
nay có tới 80,26% nhân lực trong các doanh nghiệp logistics được đào tạo thông qua các cơng việc
hàng ngày; 23,6% lao động tham gia các khóa đào tạo trong nước; 6,9% thuê các chuyên gia nước
ngoài đào tạo và tham gia các khóa đào tạo ở nước ngồi là 3,9%. Có đến 80,26% nhân lực ngành
logistics được đào tạo chun mơn khơng chính thống thơng qua việc trực tiếp thực hiện cơng việc
hàng ngày.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực logistics thay vì được đào tạo từ các trường đại học, các học Viện
chuyên về logistics, đa phần lại được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Nhiều cán bộ quản lý được
đào tạo và tái đào tạo và chủ yếu tích lũy kiến thức từ kinh nghiệm kinh doanh từ các chuyên ngành
đào tạo khác chuyển sang, do vậy thiếu bài bản và chất lượng, hiệu quả công việc gặp nhiều ảnh
hưởng. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ thực hiện trực tiếp các công việc liên quan tới logistics, phần lớn
tốt nghiệp đại học với các chuyên ngành ngoài logistics.
3. Giải phát phát triển nguồn nhân lực Logistics tại Việt Nam
3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Cần đẩy mạnh tuyên truyền để toàn xã hội nhận thức đúng đắn hơn nữa về vị trí, vai trị của
nhân lực Logistics trong bối cảnh hiện nay. Tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức ở tất cả các cấp
lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở và người dân về vấn đề này. Cần đổi mới tư duy trong sử dụng,
đánh giá và đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực thực và kết quả, hiệu quả công việc. Khắc phục
tâm lý và hiện tượng quá coi trọng và đề cao “bằng cấp” một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh
giá nhân lực.
3.2. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế
Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trị rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo
động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và phát triển
nguồn nhân lực Logistics nói riêng. Việc đổi mới, hồn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự
phát triển nguồn nhân lực Logistics phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo dục
- đào tạo, khoa học - cơng nghệ, mơi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, an sinh xã hội,
bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển thị trường lao động, các điều kiện
nhà ở, sinh sống, định cư,... Trong đó, trước hết cần coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách thu
hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí sử
dụng nguồn nhân lực Logistics cần phải được triển khai theo hướng công khai, cơng tâm, khách quan,
chính xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo, quản lý cần
mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện những kiến thức,
chun mơn đã được tích lũy, được đào tạo thơng qua những chính sách sử dụng hợp lý.
Tạo sự đột phá về đãi ngộ, tôn vinh nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện chính sách tiền
lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng và hiệu quả đóng góp; tạo mơi trường làm việc thuận lợi và cơ
hội thăng tiến để tạo động lực, kích thích, khuyến khích họ lao động sáng tạo và hiệu quả. Bảo đảm
570
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, nghiên cứu cho những nhà khoa học,
những tài năng trẻ. Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất đối
với những người có cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và khai thác có hiệu quả
nguồn lực mới, nhất là trong những ngành mũi nhọn về công nghệ của quốc gia; nâng cao chất lượng
hoạt động của các vườn ươm công nghệ và doanh nghiệp công nghệ cao; có chính sách hỗ trợ hình
thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về
công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Đồng thời
tăng cường sự hợp tác hiệu quả giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các trường đại học công nghệ để thúc
đẩy sự phát triển một số ngành chọn lọc, đặc biệt là công nghệ thơng tin. Ngồi ra, tiếp tục phát triển
mạnh các khu cơng nghiệp, khu cơng nghệ cao; đẩy mạnh q trình xây dựng và hoạt động của các
khu công nghệ cao Hịa Lạc, Thành phố Hồ Chí Minh; hồn thiện chính sách nhập khẩu cơng nghệ,
chủ động tham gia q trình hoạt động của các khu công nghệ cao, các công viên phần mềm; ưu tiên
tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có cơng trình khoa học - cơng nghệ xuất sắc.
3.3. Nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp trọng yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực nói
chung, nguồn nhân lực Logistics nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nói chung và trước tác
động của cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 nói riêng. Theo đó, cần nhanh chóng hồn thiện hệ thống
giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo
dục, nhất là giáo dục đại học và dạy nghề. Khắc phục các bất hợp lý về quy mơ đào tạo, cơ cấu trình
độ ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.
Chú trọng hơn nữa phát triển ngành tự động hóa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về các lĩnh vực
kỹ thuật số, công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, vật liệu mới và sự
tích hợp giữa chúng để phục vụ cho ngành Logistics.
Một số nguồn nhân lực logistics thay vì được đào tạo từ các trường đại học, các học Viện
chuyên về logistics, đa phần lại được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Nhiều cán bộ quản lý được đào
tạo và tái đào tạo và chủ yếu tích lũy kiến thức từ kinh nghiệm kinh doanh từ các chuyên ngành đào tạo
khác chuyển sang, do vậy thiếu bài bản và chất lượng, hiệu quả công việc gặp nhiều ảnh hưởng. Đội
ngũ nhân viên nghiệp vụ thực hiện trực tiếp các công việc liên quan tới logistics, phần lớn tốt nghiệp đại
học với các chuyên ngành ngoài logistics. Lực lượng lao động trực tiếp như bốc vác, xếp dỡ, lái xe,
kiểm đếm hàng kho bãi thì đa số có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo tác phong làm việc
chuyên nghiệp, thiếu chứng chỉ nghề logistics. Đây là một vấn đề cần quan tâm để có thể đào tạo nguồn
nhân lực Logistics về mọi mặt dù ở vị trí nào.
Đồng thời, xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường chất lượng công tác lập kế
hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội, nhất là nhu cầu của
các doanh nghiệp, các địa phương,... nhằm điều tiết quy mô, cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo cho
phù hợp. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ; coi trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế.
Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực Logistics cho
các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế. Đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các trường đại
học, cao đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.
Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo đại học theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và
phù hợp, “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Phát triển giáo dục và
đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa
học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”. Đồng thời, tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp, hình thức dạy học bậc đại học, nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ giảng viên
đại học. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu
571
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngồi, người Việt Nam ở nước
ngồi tham gia q trình đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam; tiếp tục gửi sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập, đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện kết
hợp giữa chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước với huy động các nguồn lực xã hội; kêu gọi đầu tư
nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
3.4. Nhóm giải pháp về tài chính
Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện
các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội. Đẩy mạnh xã hội
hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để
huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức:
- Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hố, thể dục thể thao;
- Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy vai trị, đóng góp
của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực;
- Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực
Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA);
- Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây
dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao…).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 200/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động nâng cao năng lực
cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
2. Bộ Công Thương (2017), Báo cáo logistics Việt Nam 2017: Từ kế hoạch đến hành động.
3. Đặng Thị Hương và Vũ Thị Minh Hiền (2019). Logistics Activities in Vietnamese Retail Enterprises:
Problems and Solutions. VNU Journal of Science: Economics and Business, 35(3).
4. Nguyễn Thị Như (2013). Nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
5. Nguyễn Đức Thắng (2019). Công tác đào tạo nguồn nhân lực tại Công ty cổ phần Cảng Đà Nẵng (Doctoral
dissertation), Trường Đại học Kinh Tế- Đại học Đà Nẵng.
6. Trịnh Thị Thu Hương (2016), Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Logistics Việt Nam, Trường Đại học Ngoại
thương.
572