Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

412 Thực trạng, phương hướng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực con người ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 28 trang )

Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
MỤC LỤC:
1. Lời mở đầu
2.Phần nội dung:Thực trạng, phương hướng xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực nước ta hiện nay
I. Nguồn nhân lực-nhân tố hàng đầu để xây dựng phát triển kinh tế-xã hội
1.1. Con người và bản chất trong triết học Mác-Lênin
1.2. Vai trò của con người với sự phát triển kinh tế xã
II. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ởViệt Nam hiện nay
2.1 Vai trò con người trong lĩnh vực kinh tế
2.2 Vai trò con người trong lĩnh vực chính trị
2.3 Vai trò con người trong lĩnh vực xã hội
2.4Vai trò con người trong lĩnh vực văn hoá
III Thực trạng, phương hướng xây dựng và phát triển nguồn lực con người
nước ta hiện nay
3.1 Thực trạng
3.2 Thành tựu và hạn chế trong việc sử dụng nguồn lực nước ta hiện nay
3.3 Phương hướng và giải pháp phát huy nguồn nhân lực tại Việt Nam
3.Kết luận
4.Tài liệu tham khảo
1
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển đang chứng kiến những bước chuyển mình mạnh mẽ
của nền kinh tế thế giới, sự phát triển của nền kinh tế thế giới thống nhất theo
cơ chế thị trường đã làm cho quan hệ kinh tế, văn hoá giữa các nước phát
triển nhanh chóng. sự vận động của các công ty xuyên quốc gia thông qua
chuyển dịch các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, lao động… cũng như sự
mở rộng những mối quan hệ kinh tế quốc tế như thương mại , đầu tư, vay nợ
… ra phạm vi toàn cầu đang thúc đẩy hình thành nên thị trường thế giới ngày


càng thống nhất với những ‘luật chơi” chung .Quá trình tự do hoá thương mại
và đầu tư cũng phát triển mạnh, thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh
cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổ chức Thương mại thế giới WTO với 152
nước thành viên (tính đến ngày 16 tháng 5 năm 2008), điều chỉnh đến 94-97%
thương mại thế giới là biểu hiện của tự do hoá thương mại toàn cầu. Bên cạnh
đó, xu thế khu vực hoá sự phát triển của các liên kểt kinh tế- thương mại khu
vực ASEAN, NAFTA, APEC,EU… và các các hiệp định thương mại tự do
(FTA) song phương làm sâu sắc thêm xu thế toàn cầu.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế
giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ..
Hội nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có
Việt Nam) là quá trình thực hiện tư do hoá thương mại và thực hiện cải cách
toàn diện theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế
như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều
vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh
tranh quốc tế gay gắt và tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Trong bối cảnh đó,các nước trên thế giới đều tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế, phát huy lợi thế so sánh, sức mạnh nội tại của mình cũng như tranh
thủ vốn, công nghệ, thị trường hay áp dụng những mô hình quản lý tiên tiến,
xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế của mình. Không nước nào có thể đứng ngoài quá trình
hội nhập nếu không muốn tự tách mình khỏi trào lưu phát triển chung và
không muốn mình dơi vào hố sâu tụt hậu. Và Việt Nam cũng đã chọn cho
mình con đường hội nhập bình đẳng để cùng phát triển cùng thế giới
Nếu như toàn cầu hoá luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thì hội nhập
kinh tế quốc tế luôn mang theo mình những cơ hội và thách thức to lớn. Một
trong những vấn đề được đề cập nhiều nhất là nguồn nhân lực
2
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
Nguồn lực con người là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát

triển của mọi nền kinh tế. Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng
định:” nguồn lực con người là là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững”,” con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển của đẩt nước trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá …” Đại hội Đảng lần thứ X cũng nhấn mạnh :” Phát triển mạnh;
kết hợp chặt chẽ các hoạt động công nghệ và khoa học với giáo dục và đào
tạo để thực hiện phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức.Như vậy, thời đại
nào cũng cần đến nhân tài, hội nhập kinh tế thế giới càng sâu sắc thì vấn đề
phát triển nguồn nhân lực càng trở nên bức thiết.
Để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng cũng như những phương hướng xây
dựng nguồn nhân lực ở Vịêt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay, em xin
được phép đưa ra quan điềm của mình về thực trạng nguộn nhân lực của nước
ta trong đề tài "Thực trạng, phương hướng xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực con người ở Việt Nam hiện nay".


3
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
PHẦN NỘI DUNG
THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ PHẢT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I.NGUỒN LỰC CON NGƯỜI –NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU ĐỂ XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HÔI
1.CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN
1.1. Con người là một thực thể thống nhẩt giữa mặt sinh vật và mặt
xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phầm của
giới tự nhiên. Con ngượi tự nhiên là con ngưọi mang tất cả bản tính sinh học,

tính loài.Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người.Vị vậy, giới tự nhiên là” thân thể vô cơ của con người”. Con
người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải
tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là con người đấu tranh với tự nhiên,
với thú dữ để sinh tồn.Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ
vượn thành người, điều đó đã được chứng minh trong nhiều công trình nghiên
cứu của Đacyun. Các giai đoạn mang tính sinh học trong đời sống con người.
Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá
nhân con người đang sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ
cuả nó với tự nhiên.Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình
tâm-sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của
cá nhân con người.
Tuy nhiên điều khẳng định là mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm
khác nhau phân biệt con người với loại vật, như con người là động vật sử
dụng công cụ lao động, là” một động vật có tính xã hội” hoặc con người là
động vật có tư duy. Những quan niệm trên đều phiến diện vì chỉ nhấn mạnh
một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu ra
được bản chất xã hội ấy.
4
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác- Lênin đã nhận thức
vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính thực hiện xã
hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất
Mác và Ănghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con người:”
có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung

bằng bất cứ cái gì cũng đựơc.Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra chính đời sống vật chất của
mình.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên:” con vật chỉ tái sản xuất ra nó, còn con người thì
tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất, hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ và
tư duy, xác lập quan hệ xã hội.Bởi vậy, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị tự quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác,
nhưng thống nhất với nhau, hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đôir chất, về di chuyền…
quy định phương diện và hành động trên nền tảng sinh học của con người như
hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội
quy định quan hệ xã hội giữa con người với con người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động,tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh hhọc và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống hàng ngày như ăn, mặc, ở, nhu cầu tái
sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mĩ và hưởng thụ các giá trị
tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội,cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất phân biệt con người với loài
vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh con

người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu
5
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quện vào nhau để tạo
thành con người viết hoa, con người tự nhiên-xã hội.
1.2.Trong hiện thực của nó, bản chất con người là tổng thể của những
mối quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vầt trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.Cả
ba quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoi-Bắc:”bản chất con người là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội”
Luận đề trên khẳng định rằng,không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điệu kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và
tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó con người mới bộc
lộ toàn bộ bản chẩt của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghiã
là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người,trái lại, điều đó muốn nhấn
mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất
xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước
Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất
ấy với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy
nhất , do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa

dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã
hội.
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thể giới tự nhiên, không có lịch sử thì không tồn tại con
người.Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử,của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn là chủ thể của
lịch sử-xã hội.Mác đã khẳng định” cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng
con người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy
quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cánh và bản thân nhà giáo dục
6
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
cũng cần phải giáo dục”. Trong tâc phẩm Biện chứng của tự nhiên,Ănghen
cũng cho rắng :” Thú vật cũng có lích sử phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng tạo ra
và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó
diễn ra mà chúng không hề biết và không phải lý do ý muốn của
chúng.Ngược lại con người càng cách xa con vật bao nhiêu, hiểu theo nghĩa
hẹp bao nhiêu thì con người lại càng tự mình tạo ra lịch sử của mình một cách
có ý thức.
Như vậy với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào điều kiện có sẵn trong
tự nhiên.Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú giới tự nhiên để cải tạo tự nhiên theo hướng phục vụ ngày càng
đầy đủ cho nhu cầu của mình.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình.Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể của lịch
sử của chính bản thân loài người.Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều
kiện cho sự tồn tại của con người vừa là phương thức để biến đổi đời sống và
bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người

thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp
lên cao,phù hợp với mục tiêu và nhu cầu của con người.Không có hoạt động
của con người thì không tồn tại quy luật xã hội, và do đó không có sự tồn tại
của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chung chung mà chỉ có con người cụ
thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Do đó bản chất
con người trong mối liên hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động
biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là
một hệ kín mà nó là một hệ thống mở tương ứng với điều kiện tồn tại khách
quan của con người. Mặc dù “tổng hoà các quan hệ” con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản
chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó
chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
7
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
hướng tích cực, theo hướng phát triển nhằm đạt được những giá trị có tính
mục đích tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó con người
tiếp nhận hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt đồng thực tiễn,
quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và
năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật
chất. Đó là biện chứng về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất
kỳ giai đoạn nào trong lịch sử của xã hội loài người.
1.4 Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội để lại
và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn

còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội
cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình
diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và
cái lạc hậu.Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó. Một mặt, trong lao
động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ranhững điều kiện cơ sở vật
chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo hơn, cuộc sống
của con người ngày càng đầy đủ hơn, môitrường xã hội ngày càng trong sạch,
ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây dựng nên
những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng chính trong
quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải tạo chính
bản thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của bản
thân.Mỗi thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của
trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây dựng.
Toàn bộ mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chính sách kinh
tế - xã hội, mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mục tiêu đó, hình
thành những phẩm chất con người theo bản chất, mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Một khi con người đã hình thành với những phẩm chất tốt đẹp đó lại trở thành
chủ thể tự giác để phát triển xã hội theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, Mác đã khẳng định rằng bản chất con người là sự tổng hoà các
mối quan hệ xã hội trên nền tảng sinh học của nó, con người không phải là cái
gì đồng nhất tuyệt đối về bản chất mà là sự đồng nhất bao hàm của hai yếu tố
đối lập:
Thứ nhất: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên.
Thứ hai: con người với tư cách là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên.
8
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
Mác đã nhìn nhận vấn đề con người một cách toàn diện cụ thể và xem
bản chất con người không phải một cách chung chung, trừu tượng mà trong
tính hiện thực cụ thể trong qúa trình phát triển. Con người là một bộ phận của

giới tự nhiên nhưng trong mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên con
người hoàn toàn khác với con vật. Về mặt thực tiễn tính con người biểu hiện
ra chính là cái tính phổ biến, nó biến toàn bộ thế giới tự nhiên thành thân thể
vô cơ của con người.
Con người có tính xã hội và nó có trước, bởi bản thân hoạt động sản xuất
của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt sản xuất con người
không thể tách ra khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con
người khác với bẩt cứ sinh vật nào khác.
Vậy bản chất con người không là cái gì đó đã kết thúc,đã hoàn thiện một
lần là xong mà là sự hình thành bản chất con người là quá trình con người
không ngừng hoàn thiện khả năng tồn tại của mình trước lực lượng tự phát
của tự nhiên và xã hội vì:
- Nhu cầu tự nhiên là cơ sở vật chất phát sinh nhu cầu xã hội
- Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là sự tổng hoà các quan
hệ xã hội trên cơ sơe nền tảng tự nhiên của con người.
- Nhu cầu tự nhiên của con người không phải là đại lượng không đổi mà
nó trở nên ngày càng tăng theo sự tăng tiến của nền văn minh vật chất và tinh
thần. chính vì vậy bản chất con người cũng không phải là sự hình thành một
lần là xong mà nó là quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện mình.
2.VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI:
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người. Song để các nguồn
lực này kểt hợp với nhau, phát huy tác dụng mọi nguồn lực thì nguồn lực con
người là yếu tố vô cùng quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất tạo ra động
lực cho sự phát triểni thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những
nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được
phát huy.Vì sao trong thời đại tiến bộ khoa học như hiện nay, khi mà hướng
phát triển theo công nghệ tự động hoá ngày càng được áp dụng thì cũng
không thể tách rời nguồn lực con người? Bởi lẽ:

Vì chính bàn tay và khối óc của con người đã tạo ra những máy móc
thiết bị đó, những sản phẩm đó là đại diện cho mức độ hiểu biết và chế ngự tự
nhiên của con người. Ngay cả những thiết bị máy móc hiện đại như robot nếu
9
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
thiếu lập trình, kiểm tra, điều khiển, bảo dưỡng thì nó chỉ đơn thuần là khối
vật chất. Chỉ khi nào có sự tác động của con người thì chúng mới có thể phát
huy ứng dụng và hoạt động được.
Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai
trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia.Song những yếu tố đó ở dưới
dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động.Chúng chỉ trở thành
nhân tố "khởi động", và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con
người.Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con
người ngày càng đa dạng và phong phú và có khả năng nội sinh không bao
giờ cạn. Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng, lại càng được
nâng cao chất lượng và hiệu quả. Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể
hiểu nguồn lực theo những cách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là
một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mối
quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ
cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có
thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Hiện nay có nhiều
khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân hàng Thế giới cho rằng:
nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người(thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp,
v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất,
kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó. Qua các ý kiến khác nhau có thể
hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực
của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội.
Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là

chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Nói
tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Số
lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số, cơcấu độ tuổi,
sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dâncưgiữacác vùng, các miền
của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp
bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý,
mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương
đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia
đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị, v.v. và sự kết hợp các yếu tố đó.
Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan
10
Sinh viên: Lê Thanh Nhung. CKA-K10
trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người, quy định phương
pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con người. Số lượng và chất lượng
nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Nếu số lượng
nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội và
do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất lượng nguồn lực con người
nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị
sản xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội,
đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể
người trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội. Xã hội muốn phát triển
nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng
ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong
quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
Suy cho cùng, phát triển kinh tế-xã hội là nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích
con người ngày một tốt hơn,xã hội ngày càng văn minh hơn. Trong khi đó
nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng
lên cả về số lượng chất lượng, đáp ứng được nhu cầu về tinh thần điều đó đã
tác động đến phát triển kinh tế xã hội

Lịch sử loài người hàng triệu năm qua đã chứng minh con người phát
triển như ngày nay đã trải qua thời kỳ lao động sáng tạo không ngừng, qua
từng giai đoạn phát triển con người lại tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm
càng gia tăng sức mạnh của mình để chế ngự tự nhiên, tăng thêm động lực
cho sự phát triển kinh tế-xã hội.
Như vậy” động lực mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát
triển mà con người muốn đạt tới chính nằm trong chính bản thân con người”.
Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố quan trọng nhất của sự
phát triển kinh tế- xã hội.
II. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NHGIỆP
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc
vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt
Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”Để làm rõ hơn quan điểm trên của Người, chúng ta cần nghiên
cứu vai trò nguồn lực con người trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống
kinh tế, chính trị xã hội"Thế giới thay đổi rất nhanh, khó có một ngành sản
xuất nào chiếm vị trí mũi nhọn lâu dài”.
11

×