Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tình trạng đói nghèo ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và thực trạng các chính sách xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.29 KB, 90 trang )

Nguyễn Kim Dung 1
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

LỜI NÓI ĐẦU

Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo ln là vấn đề được xã
hội quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn ln tồn
tại tình trạng phân hóa giàu nghèo. Cịn ở những nước đang phát triển với thu
nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không
nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt cịn có những người sống
trong hồn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, khơng đủ ăn
trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con người.

Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng
miền trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội. Trong đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa
trầm trọng hơn các khu vực miền xi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất
xấu tới chất lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây,
Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực
giúp xóa đói giảm nghèo cho vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định.
Song trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn cịn khá nghiêm trọng bởi
những chính sách này chưa thật sự hồn thiện và phù hợp với tình hình địa
phương, và do đó sự tác động của chúng tới việc khắc phục đói nghèo miền
núi chưa thật sự hiệu quả. Xuất phát từ thực tế đó, ở đây, bài viết với đề tài:
“Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây
và một số kiến nghị đối với cơng tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà
nước” đi vào nghiên cứu thực trạng nghèo đói ở miền núi phía bắc Việt Nam
trong những năm gần đây như một ví dụ điển hình cho đói nghèo ở vùng núi
nói chung, từ đó đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của các chính sách
xóa đói giảm nghèo cho vùng núi của Nhà nước để đưa ra những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng của các chính sách có ý nghĩa



Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 2
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

thiết thực này.
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, nội dung của chuyên đề được kết cấu

thành ba chương:
- Chương I: Những vấn đề chung về đói nghèo
- Chương II: Tình trạng đói nghèo ở vùng núi phía bắc nước ta trong

những năm gần đây và thực trạng các chính sách xóa đói giảm nghèo ở vùng
núi của Nhà nước

- Chương III: Những kiến nghị đối với cơng tác xóa đói giảm nghèo ở
vùng núi của Nhà nước ta

Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Vũ Thắng, giảng viên
khoa Khoa học Quản lý - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã tận tình hướng
dẫn và đóng góp ý kiến cho tác giả trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề
này.

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 3
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO

I.1. Những khái niệm cơ bản
I.1.1. Đói nghèo là gì ? - Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và
Việt Nam

Trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa về đói nghèo. Nhìn chung, trên
bình diện quốc tế, hai khái niệm “đói” và “nghèo” thường được gộp chung
thành khái niệm “đói nghèo” và được hiểu như là “nghèo khổ”. Đó là tình
trạng thiếu “một cái gì đó” ở mức tối thiểu cần thiết. Sự cụ thể hóa “cái gì đó”
đã hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau về nghèo đói. Có thể tập
hợp các quan niệm về nghèo đói trên thế giới vào bốn cách tiếp cận cơ bản
sau đây:
I.1.1.1. Cách tiếp cận tiền tệ:

Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, cách tiếp cận tiền tệ thường được sử dụng kết
hợp với ngưỡng nghèo (sẽ được giải thích trong phần I.1.2.a) và dựa trên chỉ
tiêu thu nhập hoặc tiêu dùng để quy cho đói nghèo một giá trị tiền tệ. Những
người có thu nhập nằm dưới ngưỡng nghèo thì được coi là nghèo.

Đại biểu cho cách tiếp cận này là Martin Ravallion, coi tình trạng đói
nghèo của một xã hội là tình trạng một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó
khơng có được một mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối
thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. “Cái gì đó”, theo ơng, chính là
“mức phúc lợi kinh tế”, thường được đo lường bằng mức sống mà chỉ tiêu
quan trọng nhất là thu nhập, đặc biệt là thu nhập từ tiền mặt. Ngồi ra cịn có
thể đo lường qua giá trị của lượng hàng hóa và dịch vụ được tiêu dùng bời
một hộ gia đình có xem xét tới quy mô và thành phần nhân khẩu của hộ gia

Chuyên đề thực tập


Nguyễn Kim Dung 4
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

đình đó 1.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng định nghĩa nghèo theo tiêu chí thu

nhập. Theo đó, một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn
một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia (chỉ
số Per Capita Income, PCI). 2

Cách tiếp cận này có ưu điểm là dễ đo lường vì số lượng tiền tệ dễ xác
định, vì vậy nó được sử dụng khá phổ biến mặc dù chỉ xem xét đói nghèo
theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm ở chỗ nó dựa vào giả thiết
người nghèo sử dụng thu nhập của mình theo cách hiệu quả nhất để mua
những hàng hóa như thực phẩm, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế ở mức cơ bản
chứ không bao gồm những hàng hóa mà khơng thật sự thiết yếu cho cuộc
sống. Ngoài ra, thu nhập thực tế của người nghèo có thể dao động lên trên
hoặc xuống dưới ngưỡng nghèo ở những thời điểm khác nhau do nhiều yếu tố
tác động nên có khi họ được coi là người nghèo, có lúc khơng.

Như vậy, với quan niệm của trường phái này thì để loại bỏ đói nghèo,
các biện pháp xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cần định hướng vào mục đích
tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người nghèo như tạo công ăn việc làm,
cải tiến nâng cao năng suất lao động.

Sở dĩ cách tiếp cận tiền tệ được cho là chỉ tìm hiểu đói nghèo theo
nghĩa hẹp bởi trên thực tế, những nhu cầu của con người không chỉ bao gồm
yếu tố vật chất, thu nhập mà còn gồm nhiều yếu tố phi tiền tệ khác. Đói nghèo
cịn được biểu hiện ở phương diện tinh thần hoặc những hình thái trừu tượng

khác khơng thể lượng hóa thành tiền - những nhu cầu bậc cao hơn của con
người - khơng được đáp ứng. Hiểu đói nghèo theo ý nghĩa này được gọi là đói
nghèo theo nghĩa rộng. Với cách hiểu này, chúng ta có ba cách tiếp cận khác

1 Martin Ravallion, Poverty Comparisons, Fundamentals of Pure and Applied Economics,
Harwood Academic Publishers, 1994
2

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 5
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

về đói nghèo.
I.1.1.2. Cách tiếp cận về năng lực:

Cách tiếp cận về năng lực chú trọng vào sự tự do của con người và một
cuộc sống có giá trị thì định nghĩa đói nghèo là sự thất bại trong việc đạt tới
những khả năng, năng lực cơ bản và tối thiểu trong cuộc sống.

Nhà kinh tế học người Ấn Độ Amartya Sen cho rằng: sự phát triển cần
được nhìn nhận như sự mở rộng năng lực của con người chứ không phải là
việc tối đa hóa độ thỏa dụng hay thu nhập bằng tiền. Ông nhấn mạnh vào
năng lực, khả năng của mỗi con người và phát biểu: “giá trị cuộc sống của
con người là khả năng mà con người có được, là quyền tự do đáng kể mà họ
được hưởng để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn, gồm: đủ dinh
dưỡng, sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm, được tơn trọng, có
tiếng nói và quyền lực...” 3.

Chỉ số HPI (chỉ số nghèo khổ con người) do Liên Hợp Quốc đưa ra

(xem I.1.2.4) cũng dựa trên cơ sở cách tiếp cận về năng lực để phản ánh đói
nghèo theo ba yếu tố năng lực điển hình là tuổi thọ, hiểu biết và mức sống.
Trên thực tế, rất nhiều nhà học giả đã cố gắng liệt kê đầy đủ các năng lực mà
con người hướng tới trong cuộc sống song hầu như chưa có nghiên cứu nào
bao qt được tất cả bởi tính đa dạng và phong phú của chúng. Ở đây, tác giả
xin dẫn ra danh sách các đặc trưng cần thiết cho một cuộc sống đầy đủ do
Nussbaum đề xuất: 4

Hình I.1: Những đặc trưng của một cuộc sống đầy đủ (Nussbaum)

3 Amartya Sen, Phát triển là tự do, New York, 1999
4 M. Nussbaum, Women and Human Development: A study in Human Capabilities,
Cambridge University Press, 2000

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 6
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

a. Tuổi thọ bình thường
b. Sức khỏe tốt, dinh dưỡng đầy đủ
c. Có nhà ở
d. Sự toàn vẹn về thể chất, hoạt động và quyền lựa chọn sinh sản
e. Trí tưởng tượng, cảm xúc, suy nghĩ được truyền thụ qua giáo dục
f. Lập kế hoạch cho cuộc sống
g. Hòa nhập với xã hội, được bảo vệ khỏi sự kỳ thị và phân biệt
h. Được tôn trọng
i. Quyền lợi về mặt chính trị và mặt vật chất

Như vậy, có thể dễ dàng thấy rằng vấn đề thu nhập được đề cập đến

trong cách tiếp cận tiền tệ chỉ là một phần trong số các yếu tố năng lực, và vì
vậy, cách tiếp cận đói nghèo trên phương diện năng lực của con người có ưu
điểm là phản ánh đầy đủ, sâu sát và chính xác hơn tình trạng nghèo đói của
con người. Bởi thế, đây là cách tiếp cận về đói nghèo được sử dụng rộng rãi
nhất về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phải là khơng có
nhược điểm, mà nhược điểm đó được thể hiện rõ nhất ở mặt áp dụng trong
thực tế để nghiên cứu về đói nghèo. Điểm yếu của cách tiếp cận này là khó
xác định được đầy đủ số lượng cũng như mức độ của các khả năng để đánh
giá tình trạng nghèo khổ trong thực tiễn. Thực tế, việc đo lường đói nghèo
theo cách hiểu này thường chỉ sử dụng một số khả năng cơ bản dễ được định
lượng như cách tính chỉ số HPI của Liên Hợp Quốc được đề cập đến ở trên.

Tương tự với quan điểm của Amatya Sen về các khía cạnh của đói
nghèo, Bob Baulch đã đưa ra sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về nghèo đói 5
như sau:

5 Bob Baulch,“Poverty, Policy and Aid” article, the IDS Bulletin Volume 27 Number 1,
1996

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 7
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Hình I.2: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo của Bob Baulch

1. Tiêu dùng
2. Tiêu dùng + Tài sản
3. Tiêu dùng + Tài sản + Con người
4. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH

5. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị
6. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị + Bảo vệ

(Trong đó:
Tiêu dùng là thu nhập/tiêu dùng
Tài sản là tài sản tự nhiên : đất đai, của cải vật chất, khả năng tài chính
Con người là giáo dục, kỹ năng, sức khỏe ...
Văn hóa xã hội là hệ thống các mối quan hệ xã hội
Chính trị là khả năng tham gia và trao quyền
Bảo vệ là khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro)
Tuy chưa có được một định nghĩa về đói nghèo thống nhất theo cách

tiếp cận về năng lực, song từ các quan niệm kể trên, Ngân hàng thế giới đã
đưa ra một cách hiểu về đói nghèo bao gồm tương đối đầy đủ những khía
cạnh cơ bản: 6

- sự khốn cùng về mặt vật chất, được đo lường qua mức thu nhập bấp
bênh

- bị giới hạn về sức khỏe thể chất
- năng lực, hiểu biết bị kìm hãm
- sự phân biệt về giới tính

6 The World Bank, Voices of the Poor, 2002

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 8
Lớp Quản lý Kinh tế 46B


- dễ gặp nguy cơ bị tổn thương và rủi ro do thiếu sự bảo vệ, bị lạm
dụng bởi các thế lực và gặp phải các vấn đề trong giao tiếp với xã hội

- các tổ chức cộng đồng đại diện yếu
Theo quan điểm này, các chính sách XĐGN cần đi theo hướng tạo ra
những cơ hội cho người nghèo để họ được tự do phát huy năng lực của mình
để hướng tới một cuộc sống sung túc theo mong muốn của riêng họ.
I.1.1.3. Cách tiếp cận về sự loại trừ mang tính xã hội:
Một cách tiếp cận khác về đói nghèo theo nghĩa rộng là cách tiếp cận
về sự loại trừ mang tính xã hội. Sự loại trừ mang tính xã hội là việc các cá
nhân hay nhóm người, một phần hoặc hoàn toàn, bị ngăn chặn khỏi sự tham
gia vào xã hội mà họ sinh sống. Townsend định nghĩa sự tước đoạt theo ý
nghĩa đói nghèo là tình trạng con người bị loại ra khỏi lối sống, tục lệ và hoạt
động của xã hội 7. Nguyên nhân của việc này thường xuất phát từ những đặc
điểm riêng của nhóm người trong xã hội đó như người già, người tàn tật,
người thuộc dân tộc, chủng tộc khác… Atkinson xác định một ảnh hưởng
quan trọng của sự loại trừ xã hội là tính động lực 8: do một số bất lợi từ đói
nghèo mà người nghèo bị cơ lập khỏi xã hội, tình trạng đó càng làm cho họ
mất đi những cơ hội để thỏa mãn tình trạng thiếu thốn của mình và để thốt
nghèo, do đó càng trở nên bất lợi, càng bị loại trừ, và bởi thế càng trở nên
nghèo đói hơn nữa. Nói chung, cách tiếp cận này tuy mở rộng một cách xem
xét mới về đói nghèo song được sử dụng ít phổ biến do tính tương đối (chỉ
xảy ra ở một số cộng đồng xã hội nhất định) và rất khó đo lường.
I.1.1.4. Cách tiếp cận mang tính tham gia:

7 Peter Townsend, Poverty in the United Kingdom, Harmondsworth, 1979
8 A.B.Atkinson, Social Exclusion, Poverty and Unemployment, in: A.B. Atkinson & J. Hills
(Eds), Exclusion, Employment and Opportunity, CASE Paper 4, London School of
Economics, Centre for Analysis of Social Exclusion, 1998


Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 9
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Trong khi cách tiếp cận tiền tệ và cách tiếp cận theo năng lực - khả
năng bị chỉ trích là chỉ mang ý kiến của người “ngồi cuộc”, khơng chứa đựng
cách nhìn nhận về đói nghèo của chính những người nghèo thì cách tiếp cận
mang tính tham gia do Chambers khởi xướng 9 đã khắc phục được những hạn
chế này. Cách tiếp cận này khuyến khích người nghèo tham gia vào việc ra
quyết định và đánh giá thế nào là đói nghèo, mức độ ảnh hưởng quan trọng
đến cuộc sống của chính họ và họ cần phản ứng lại như thế nào đối với đói
nghèo. Mục đích của nó là giúp cho người nghèo có thể chia sẻ, phân tích và
tăng thêm hiểu biết về cuộc sống và điều kiện sống để họ lập được kế hoạch
hành động cho mình. Cách tiếp cận này nhìn vào đói nghèo từ nhiều phương
diện: xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và phịng vệ, và do đó, nó cung cấp
một cái nhìn đa dạng, nhiều mặt về đói nghèo. Tuy nhiên, do cịn nhiều hạn
chế, nó thường chỉ được sử dụng bổ trợ cho những nghiên cứu sâu hơn về đói
nghèo như các “Báo cáo về Đói nghèo” và ấn phẩm “Tiếng nói của người
nghèo” của Ngân hàng Thế giới. Hạn chế đầu tiên là do tính chất tham gia của
người nghèo vào việc đánh giá đói nghèo, cách tiếp cận này khơng chỉ ra
được cách giải quyết khi có sự khác nhau trong cách nhìn nhận của những đối
tượng khác nhau: phụ nữ và nam giới, những người theo trường phái truyền
thống và trường phái hiện đại, những cộng đồng nghèo khác nhau… Lí do
thứ hai, do sự yếu thế của người nghèo trong xã hội, chưa chắc đã có thể
khẳng định họ dám nói lên những suy nghĩ của mình một cách trung thực và
đầy đủ. Thứ ba, đánh giá của một người nghèo, chỉ giới hạn trong tình cảnh
nghèo của chính họ, chưa phản ánh được bức tranh tồn cảnh về đói nghèo.

Ở Việt Nam, chúng ta thừa nhận định nghĩa về nghèo theo cách tiếp

cận về năng lực do Hội nghị Chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình

9 R. Chambers, Whose Reality Counts? Putting the First Last, London, Intermediate
Technology Publications, 1997

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 10
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Dương do ESCAP tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đưa ra vào tháng 9/1993:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của địa
phương” 10. Do đặc thù của một nước đang phát triển, đã từng tồn tại tình
trạng thiếu lương thực trong một thời gian dài nên chúng ta cịn phân tách hộ
đói với hộ nghèo. Những hộ đói được hiểu là một bộ phận trong những hộ gia
đình nghèo mà khơng có được đủ lương thực để ăn hai bữa cơm hàng ngày,
chỉ đủ khả năng đảm bảo mức lương thực ít ỏi cần thiết để tồn tại, do đó tiêu
chuẩn thu nhập bình qn đầu người quy gạo của Bộ LĐTBXH đối với hộ đói
thấp hơn so với mức quy gạo của hộ nghèo. 11
I.1.2. Các thước đo về đói nghèo của thế giới và Việt Nam
I.1.2.1. Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo):

Đây là một trong những thước đo quan trọng được sử dụng chủ yếu
trong việc xác định tình trạng đói nghèo. Ngưỡng nghèo là một mức độ phân
chia ranh giới giữa “nghèo” và “khơng nghèo”. Gồm có 2 loại: ngưỡng nghèo
tuyệt đối và ngưỡng nghèo tương đối.

Ngưỡng nghèo tuyệt đối là chuẩn tuyệt đối về mức sống tối thiểu cần

thiết để con người có thể tồn tại khỏe mạnh. Ngưỡng nghèo tuyệt đối cũng
gồm 2 loại : ngưỡng nghèo LTTP (được xác định bằng số tiền cần có để mua
được một rổ LTTP thiết yếu hàng ngày) và ngưỡng nghèo chung (có tính đến
số tiền chi tiêu cho cả các sản phẩm phi lương thực khác). Ngưỡng nghèo
LTTP thường chỉ được dùng phổ biến ở các nước đang phát triển và nhìn
chung là thường thấp hơn ngưỡng nghèo chung.

10 Chính phủ Việt Nam, 2002, Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm
nghèo, NXB Bản đồ
11 Xem I.1.2, phần Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo)

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 11
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Ngân hàng thế giới World Bank (WB) đã đưa ra ngưỡng nghèo tuyệt

đối (được hiểu như là ngưỡng nghèo chung) quốc tế là 1$/ ngày cho các nước

có thu nhập thấp (GNP/người từ 755$/năm trở xuống, theo giá gốc năm 1999)

và cho các nước có thu nhập trung bình thấp (GNP/người từ 756 đến 2.995$/

năm, giá gốc năm 1999) là 2$/ngày. Tính theo ngang giá sức mua, ở Việt

Nam, hai ngưỡng này tương đương 20 và 40 cent/ ngày. 12

Ở Việt Nam, Tổng cục thống kê (TCTK) đưa ra hai ngưỡng. Ngưỡng


thứ nhất, nghèo đói LTTP là tình trạng mức thu nhập không bảo đảm được

nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu 2100 Kcal/người/ngày đêm. Ngưỡng thứ hai là

nghèo đói chung, coi LTTP ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% là các

nhu cầu khác.

Bảng I.1: Ngưỡng nghèo của TCTK qua các năm 13

(đơn vị : VNĐ/người/năm)

Năm 1998 2002 2004
Nghèo đói LTTP 1.286.808 1.381.000 1.488.000
Nghèo đói chung 1.789.872 1.915.000 2.076.000

Bên cạnh đó, ở Việt Nam cịn có ngưỡng nghèo do Bộ LĐTBXH quy
định theo từng giai đoạn căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và mức giá cả ở từng khu
vực. Cụ thể: 14

- Giai đoạn 1996 – 2000:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 70.000 đồng/ người/tháng
+ Thành thị: 90.000 đồng/người/tháng

12 PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường
ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế cơng cộng, NXB Thống kê, 2005
13 Niên giám TCTK năm 2000 và 2006
14 PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường
ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005


Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 12
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

- Giai đoạn 2000 – 2005:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
- Giai đoạn 2006 – 2010: quy định sẽ chỉ còn 2 ngưỡng nghèo là:
+ Nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
Ngoài ra chúng ta cũng sử dụng thước đo về thu nhập bình quân đầu
người trong hộ một tháng quy gạo để làm chuẩn đói như sau: 15
- Giai đoạn 1993 – 1995:
+ Thành thị: dưới 13kg
+ Nông thôn: dưới 8kg
- Giai đoạn 1995 – 2000: dưới 13kg cho tất cả các vùng
- Giai đoạn 2000 đến nay: Bộ LĐTBXH khơng tiếp tục đưa ra mức
chuẩn đói do cơ bản đã giải quyết được tình trạng hộ đói kinh niên.
Ngưỡng nghèo tương đối là một mức phần trăm so với thu nhập trung
bình chung của toàn xã hội mà những người dân trong xã hội đó nếu có mức
thu nhập rịng thấp hơn mức này thì được coi người nghèo. Tỷ lệ phần trăm
này thường được xác định ở mức 50% hoặc 60% của thu nhập trung bình.
I.1.2.2. Tỷ lệ đói nghèo:
Tỷ lệ đói nghèo được xác định bằng số lượng người nghèo trên tổng
dân số, thể hiện quy mô số người nằm dưới ngưỡng nghèo, và thường được
biển hiện dưới dạng phần trăm.
Tỷ lệ nghèo chung (%) = (Số người nghèo chung) : Tổng dân số x 100

Tỷ lệ nghèo LTTP (%) = (Số hộ nghèo LTTP) : Tổng số hộ x 100
Đây cũng là một thước đo đói nghèo thơng dụng, tuy nhiên nó có hạn chế

15 Bộ LĐTBXH, Chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam, 2000

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 13
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

là không quan tâm đến mức độ đói nghèo (mức độ nằm dưới, cách xa ngưỡng
nghèo) do đó khơng biểu hiện được kết cấu đầy đủ của sự đói nghèo. Bởi vậy,
nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ đói nghèo thì sẽ khó có thể đưa ra được một chính
sách XĐGN sâu sát tới từng loại đối tượng thuộc diện này.
I.1.2.3. Khoảng nghèo:

Khoảng nghèo được tính bằng tổng mức thiếu hụt của tất cả những
người nghèo so với ngưỡng nghèo, hay được hiểu là chi phí để đưa tất cả
những người nằm dưới ngưỡng nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng
nghèo. Nói chung, thước đo này được sử dụng ít phổ biến hơn so với hai
thước đo kể trên.
I.1.2.4. Chỉ số nghèo khổ con người:

Chỉ số nghèo khổ con người Human Poverty Index (HPI) là chỉ số đo
lường mức độ nghèo khổ của con người trên ba phương diện cơ bản: tuổi thọ,
hiểu biết và mức sống. Chỉ số này ở một quốc gia càng cao thì chứng tỏ tình
trạng đói nghèo của quốc gia đó càng nghiêm trọng. Liên Hợp Quốc sử dụng
HPI-1 cho các nước đang phát triển, HPI-2 cho các nước OECD.

Ở các nước đang phát triển, UNDP đưa ra công thức đo lường chỉ số

này như sau:

HPI1 = [1/3(P13 + P23 + P33)]1/3
P1 : tỷ lệ người không sống đến 40 tuổi
P2 : tỷ lệ người lớn không biết chữ
P3 : tỷ lệ phần trăm dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch và
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Bảng I.2: Xếp hạng một số nước theo chỉ số nghèo khổ con người

HPI-1 năm 2007 16
Xếp hạng HPI(%) Quốc gia Xếp hạng HPI(%) Quốc gia

16 Báo cáo 2007/2008 của UNDP

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 14
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

1 3 Barbados 47 18.2 Indonesia

2 3.5 Uruguay 50 21.2 Fiji

3 3.7 Chile 52 21.5 Myanma

4 4.1 Argentina 55 23.5 South Africa

6 4.7 Cuba 60 30.8 Kenya

7 5.2 Singapore 62 31.3 India


10 6.8 Mexico 65 32.3 Ghana

13 7.8 Quata 70 34.5 Laos

16 8.3 Malaysia 80 37.3 Nigeria

20 8.8 Paraguay 85 38.6 Cambodia

24 10.0 Thailand 88 39.3 Congo

27 11.7 China 93 40.5 Bangladesh

34 14.3 Jamaica 97 42.9 Senegal

36 15.2 Vietnam 101 50.6 Mozambique

37 15.3 Philippines 105 54.9 Ethiopia

44 17.8 Sri Lanka 107 56.4 Mali

I.2. Nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
I.2.1. Giới thiệu một số nghiên cứu về nguyên nhân của đói nghèo trên thế
giới:

Một nhà nghiên cứu có tên là Phil Bartle cho rằng những nguyên nhân
lịch sử sâu xa của đói nghèo là chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chế độ nô lệ
và sự xâm lược. Cịn ngày nay, có những yếu tố khác tạo ra sự tiếp tục tiếp
diễn của đói nghèo. Ơng đã đưa ra mơ hình “Năm yếu tố lớn” (The Big Five)
xác định năm nguyên nhân tạo nên đói nghèo như một vấn đề xã hội là: sự

thiếu hiểu biết, bệnh tật, sự lãnh đạm, tính khơng trung thực và tính lệ thuộc.

Hình I.3: Mơ hình “Năm yếu tố lớn” của Phil Bartle 17

17 Dr.Phil Bartle, Factors of Poverty: The Big Five, Community Empowerment
Programme, 2005

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 15
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Sự thiếu hiểu biết

Bệnh tật Đói nghèo Sự lãnh đạm

Sự không trung thực Sự phụ thuộc

Theo ông, sự thiếu hiểu biết ở đây không giống với sự ngu dốt mà bản
chất là vấn đề thiếu những thông tin cần thiết hữu ích cho người nghèo. Giáo
dục có thể là một giải pháp tốt nhưng cần chọn lọc kiến thức phù hợp để
giảng dạy, ví dụ như người nơng dân cần biết loại cây trồng nào thích nghi
được với chất đất của địa phương. Bệnh tật làm giảm năng suất lao động và
tổng sản lượng, và tạo ra ít sự thịnh vượng của quốc gia hơn. Ơng cho rằng
“phịng bệnh hơn chữa bệnh” và đề cao vai trò của y tế cơ sở. Sự lãnh đạm là
khi con người cảm thấy bất lực, khơng muốn và khơng cịn ý chí cải thiện tình
trạng tồi tệ của mình, cảm thấy ghen tị với những người có quyết tâm vươn
lên và tìm cách ghìm kéo họ xuống tình cảnh của mình. Sự thiếu trung thực
mà Phil Bartle đề cập đến chủ yếu là tệ nạn tham nhũng: một số tiền mà quan
chức chính phủ bỏ vào túi riêng có thể làm giảm giá trị đáng lẽ mà cả xã hội

có thể nhận được đi một khoản lớn hơn số tiền hối lộ đó nhiều lần. Cuối cùng
là sự phụ thuộc hay là tính ỷ lại của người nghèo, của quốc gia nghèo vào các
nguồn viện trợ làm cho họ mất đi động lực tự phấn đấu và cuối cùng, nghèo
vẫn hoàn nghèo.

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 16
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Năm yếu tố lớn này dẫn đến những yếu tố cấp hai tạo nên đói nghèo là
thiếu thốn cơ sở vật chất hạ tầng cho người nghèo, thiếu thị trường, sự quản lý
của chính phủ yếu kém, thiếu cơng ăn việc làm, thiếu kĩ năng tay nghề, thiếu
vốn và các yếu tố khác.

Theo một nghiên cứu khác của Maxwell School, Syracuse University
thì có thể chia ra hai cách tiếp cận về đói nghèo là lý thuyết “Hoàn cảnh”
(Case theory) và lý thuyết “Chung” (Generic theory) 18. Theo “Case theory”
thì đói nghèo xuất phát từ nguyên nhân tổng hợp của các đặc điểm riêng của
người nghèo như là:

- Giáo dục, kĩ năng, kinh nghiệm, trí thơng minh
- Sức khỏe, tuổi tác
- Định hướng cơng việc, tầm nhận thức, văn hóa
- Sự phân biệt về tầng lớp, giai cấp, chủng tộc, giới tính…
Cịn theo “Generic theory” thì đói nghèo lại được hiểu là tình trạng
xuất phát từ những vấn đề chung mang tính vĩ mơ của nền kinh tế: thiếu
những cơ hội nghề nghiệp, tổng cầu thấp, thu nhập quốc gia thấp.
Trong khi đó, tổ chức MSU Women and International Development chỉ
đưa ra những nguyên nhân gây nên đói nghèo theo hướng liệt kê mà khơng

phân nhóm: 19
- Lịch sử bị cai trị và xâm lược
- Chiến tranh và xung đột vũ trang
- Chu trình sản xuất nơng nghiệp
- Thảm họa tự nhiên và thiên tai
- Sự tập quyền

18 Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of
poverty and related issues
19 Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of
poverty and related issues

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 17
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

- Nạn tham nhũng
- Suy thối mơi trường
- Bất bình đẳng xã hội
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Thực tế, những
nguyên nhân được nhắc tới trong các nghiên cứu nói trên cịn có thể tiếp tục
được chia nhỏ chi tiết hơn nữa. Đối với đói nghèo ở Việt Nam có thể hợp
nhóm các nguyên nhân này vào ba nhóm ngun nhân lớn. Ở đây, ta khơng
quan tâm tới những nguyên nhân mang tính lịch sử như chiến tranh, sự xâm
lược của nước ngoài mà chỉ quan tâm tới những gì có tác động đến đói nghèo
như một vấn đề xã hội hiện đại ngày nay.
I.2.2. Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
I.2.2.1. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên:
Đất nước ta được chia làm nhiều vùng miền có vị trí địa lý và địa hình

rất khác nhau. Ở những vùng có tính đặc thù như miền núi, vùng sâu vùng xa,
hải đảo, vị trí địa lý khá cách biệt các vùng khác, cộng thêm địa hình gập
ghềnh hiểm trở đã tạo khó khăn trong việc giao thơng liên lạc với các khu vực
khác, tạo ra sự cô lập tương đối về mọi mặt đời sống. Nhiều nơi ở nước ta như
vùng núi phía bắc, các tỉnh miền trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa…
thường xuyên phải gánh chịu hậu quả to lớn của các trận lũ lụt gây ra thiệt hại
to lớn về người và của, rơi vào tình trạng đói nghèo triền miên. Những vùng
canh tác nơng nghiệp lại gặp phải vấn nạn về sâu bệnh, mưa đá, sương muối,
rét đậm rét hại… dẫn đến mất mùa, thất bát, mất đi các nguồn lực sản xuất.
Việt Nam từ lâu đã được coi là rừng vàng biển bạc, có nhiều tài
nguyên. Tài nguyên rừng, biển, đất đai, sinh vật, khoáng sản ... đều rất phong
phú, đa dạng. Tuy nhiên, theo thời gian, chúng đã bị khai thác gần như cạn
kiệt. Những tài nguyên đó khi cịn dồi dào đã giúp nhiều người Việt Nam có
thu nhập tương đối, song hành động quá khứ đã để lại hậu quả cho thế hệ

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 18
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

ngày nay. Giờ đây, một bộ phận dân cư sống dựa vào tự nhiên đã mất đi
nguồn thu nhập đáng kể. Những tài ngun cịn lại đều ở tình trạng gặp khó
khăn trong việc khai thác.
I.2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:

Những yếu tố như sự thiếu hiểu biết, sự lãnh đạm, bệnh tật và tính phụ
thuộc mà Phil Bartle nhắc tới trong lý thuyết “Năm yếu tố lớn” và các nguyên
nhân theo “Case theory” của Maxwell School, Syracuse University có thể xếp
vào nhóm nguyên nhân lớn này. Phần lớn người nghèo ở Việt Nam sinh sống
tập trung ở vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, chỉ một phần nhỏ rải rác ở

các vùng thành thị đồng bằng. Đa số hoạt động nông nghiệp với lối canh tác
truyền thống lạc hậu, cho năng suất thấp. Những người làm việc trong các
lĩnh vực phi nơng nghiệp thì có tay nghề kỹ thuật yếu. Bản thân họ có trình độ
học vấn khơng cao, nhiều người thất học. Cái vịng luẩn quẩn của đói nghèo
cũng được thể hiện rất rõ. Một là, các hộ thuộc diện đói nghèo thì thường
đơng con (xuất phát từ nhu cầu về lao động kiếm sống) song cũng chính vì thế
lại tạo thêm gánh nặng về các khoản chi tiêu cho gia đình. Thứ hai, thu nhập
thấp, điều kiện ăn ở thiếu thốn không đảm bảo được sức khỏe, dẫn đến tình
trạng ốm yếu, bệnh tật của người nghèo, mà đến lượt nó thì chính bệnh tật lại
là nguồn gốc làm cho đói nghèo thêm trầm trọng vì người nghèo khơng đủ
sức lực để làm việc.

Một vấn đề khác cũng nổi cộm lên trong đó là tình trạng bất bình đẳng
giới. Trọng nam khinh nữ là quan niệm còn ăn sâu trong tiềm thức nhiều
người dân Việt Nam. Sinh nhiều con cũng do mong có được đứa con trai. Con
gái thường bị bắt nghỉ học sớm ở nhà giúp đỡ cha mẹ, vơ hình trung gây lãng
phí nguồn chất xám lớn do cách nhìn thiển cận. Ở nhiều vùng núi có tục “thờ
chồng”, phụ nữ dù sức yếu vẫn phải làm lụng vất vả ni cả gia đình.

Chun đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 19
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Cuối cùng, mặc dù thời gian gần đây Nhà nước đã có nhiều chính sách
XĐGN song ở nhiều nơi, nghèo vẫn hồn nghèo. Đó là do tâm lý trì trệ,
trơng chờ vào trợ cấp Nhà nước của bà con. Trong khi đó, trợ cấp thì có hạn.
Chừng nào chưa xóa bỏ được tâm lý ỷ lại này để tự lực vươn lên XĐGN thì
người nghèo chưa thể có được mức sống khá hơn một cách bền vững.
I.2.2.3. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:


Đây là những nguyên nhân ở tầm vĩ mô gây tác hại duy trì tình trạng
đói nghèo, có sự tương đồng với “Generic theory” của Maxwell School,
Syracuse University. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực thực
hiện nhiều chương trình dự án nhằm XĐGN, song hiệu quả đạt được chưa
như mong muốn và số hộ nghèo vẫn không giảm, vẫn cịn tình trạng tái
nghèo. Ngun nhân là do các biện pháp chính sách XĐGN được thực hiện
cịn thiếu tính đồng bộ, nội dung chưa sát với thực tiễn địa phương, vì vậy
khiến cho việc thực hiện cịn nặng về hình thức, chỉ giải quyết phần “ngọn”
của vấn đề gây lãng phí nguồn lực đầu tư vơ ích. Tình trạng này sẽ được xem
xét kỹ hơn ở mục II.3.2.
I.3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
I.3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:

Đối với bản thân người nghèo, hậu quả của đói nghèo có thể được nhìn
thấy hết sức rõ ràng. Vì “đói” mà thiếu ăn thường xun, vì “nghèo” mà các
nhu cầu sống bị hạn chế ở mức thấp. Cuộc sống thiếu thốn, nhà cửa tạm bợ,
đồ dùng chỉ đủ ở mức thiết yếu nhất. Tình trạng ốm đau bệnh tật, trẻ em suy
dinh dưỡng xảy ra ở nhiều nơi. Không đủ ăn, mặc, ở, việc học hành bị coi nhẹ
dẫn đến sự thất học, thiếu hiểu biết, tư duy con người trở nên lạc hậu. Các tệ
nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm… có cơ hội phát sinh. Người
nghèo, vì thế, hầu như khơng có tiếng nói và vị thế ngồi xã hội và dễ trở
thành nạn nhân của sự đối xử bất công như bị trả lương thấp, bị coi thường.

Chuyên đề thực tập

Nguyễn Kim Dung 20
Lớp Quản lý Kinh tế 46B

Đói nghèo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường theo cơ chế về

“cầu”, người nghèo triệt để khai thác tài nguyên tự nhiên để phục vụ cuộc
sống. Để đánh bắt cá với số lượng lớn, ngư dân sẵn sàng cho nổ mìn. Vì mục
tiêu sinh lợi, phong trào nuôi ốc bươu vàng rầm rộ một thời gian đã gây nên
những mối nguy về mất cân bằng sinh thái. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật quá liều lượng, những làng tái chế phế thải nhựa thành túi nilon… làm ô
nhiễm môi trường trầm trọng. Ở vùng cao, rừng bị đốt làm rẫy, bị “xẻ thịt”
đem bán, khoáng sản bị khai thác bừa bãi, động vật rừng bị săn bắn ồ ạt, đất
đai bạc màu theo nạn du canh du cư… khiến cho tài nguyên thiên nhiên ngày
một cạn kiệt.

Khơng những vậy, đói nghèo cịn gây ra ảnh hưởng đến vấn đề ổn định
chính trị quốc gia. Những năm qua, việc đồng bào dân tộc bị các thế lực phản
động nước ngoài mua chuộc, xúi giục gây mất an ninh, trật tự xã hội đã trở
thành điểm nóng khiến cả xã hội phải quan tâm. Tất cả cũng do cuộc sống cịn
khó khăn đã khiến người nghèo dễ bị lay động bởi những mối lợi trước mắt.
Nếu khơng giải quyết được dứt điểm nạn đói nghèo thì lòng tin của nhân dân
vào Đảng, vào Nhà nước còn có thể bị kẻ thù lợi dụng vào âm mưu phá hoại
của chúng.
I.3.2. Phân cách giàu nghèo là biểu hiện của bất bình đẳng:

Phân hóa giàu nghèo chính là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
bởi vì: Con người sinh ra đều có những yếu tố tự nhiên như nhau cho phép họ
hưởng thụ cuộc sống như nhau trong tương lai, nhưng trên thực tế thì thu
nhập mà họ nhận được khi trưởng thành, làm việc lại là khác nhau. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, nhưng
sự khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội, mơi trường bên ngồi ảnh hưởng
đến cuộc sống đã khơng cho con người có sự bình đẳng về mức sống. Trên
thực tế, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bắt nguồn từ hai nhóm

Chuyên đề thực tập



×