Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ nâng cao ý thức bảo vệ tổ quốc của học viên trường sĩ quan chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.43 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1:

THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT NÂNG CAO Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA
HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ TRONG
ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1.

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
10
Thực chất nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế

1.2.

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
10
Một số vấn đề có tính quy luật nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc
của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển

Chương 2:

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
30


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA HỌC VIÊN
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG

2.1.

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
42
Thực trạng ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ
quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường

2.2.

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
42
Giải pháp cơ bản nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

59
80
82
86

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp,
khó lường. Các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng chiến lược “diễn biến
hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để can thiệp sâu vào
nhiều quốc gia có độc lập, chủ quyền, trong đó có Việt Nam. Gần đây, những
diễn biến phức tạp trên biển Đông đặt vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia dân
tộc Việt Nam trở nên cấp thiết. Vì vậy, nâng cao ý thức BVTQ cho học viên
Trường Sĩ quan Chính trị nhằm giúp họ ln nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc là một tất
yếu khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị góp
phần giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội; giúp học viên hồn thiện nhân cách sĩ quan chính trị tương
lai, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị
trong tình hình mới có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cấp thiết.
Nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị là kết
quả tác động của nhiều yếu tố... Trong đó, phát triển KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp. Mặc dù
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được thực hiện chưa lâu nhưng nó đã
phát huy tác dụng và tác động lớn đến quá trình phát triển ý thức xã hội nói
chung, ý thức BVTQ nói riêng. Học viên Trường Sĩ quan Chính trị khơng
nằm ngoài những tác động ấy. Sự tác động, ảnh hưởng tích cực của KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam đến nâng cao ý thức BVTQ của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị đã tạo ra động lực mới, giúp học viên an tâm công

3


tác, xác định tốt yêu cầu, nhiệm vụ học tập, rèn luyện, nâng cao ý chí, quyết
tâm, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để vươn lên học tập, rèn luyện tốt,
tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu trở thành người
học viên giỏi tồn diện, người cán bộ chính trị “vừa hồng, vừa chun”. Bên
cạnh những mặt tích cực đó, phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay, nhất là những mặt tiêu cực đang tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên. Đó là ý thức tu dưỡng, học
tập, rèn luyện của một bộ phận học viên chưa cao, chất lượng hiệu quả học
tập, rèn luyện còn thấp, biểu hiện khá rõ ở các mặt tri thức, niềm tin, ý chí và
tình cảm đối với trách nhiệm học tập, rèn luyện, sẵn sàng tâm thế thực hiện
nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, có mặt chưa cao.
Để phát huy mặt ảnh hưởng tích cực, khắc phục mặt ảnh hưởng tiêu
cực của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đến nâng cao ý thức BVTQ
của học viên, các lực lượng tham gia đào tạo và từng học viên cần có sự hiểu
biết đầy đủ, tồn diện và sâu sắc về nó. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết
phải nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
về nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị hơm nay Sĩ quan chính trị ngày mai trong điều kiện phát triển KTTT định hướng
XHCN ở nước ta, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của người chủ trì về chính trị ở
đơn vị cơ sở, trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đảng,
cơng tác chính trị, góp phần BVTQ trong tình hình mới. Đây là lý do tác giả
lựa chọn vấn đề: “Nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ
quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề của đề tài đã có nhiều cơng trình của các tác giả
trong và ngồi qn đội nghiên cứu, tiêu biểu là:


4


“Xây dựng ý thức BVTQ trong giáo dục con người Việt Nam hiện nay”,
đề tài KX.07.19, Chương trình khoa học - cơng nghệ cấp Nhà nước, Bộ Quốc
phịng [3]; “Xây dựng ý thức BVTQ XHCN thời kỳ mới” của tác giả Lê Minh Vụ
(Chủ biên) [42]; “Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng
của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và BVTQ” của tác giả Nguyễn Bá Dương
[6]; “Vai trị của gia đình trong giáo dục ý thức BVTQ XHCN cho thanh niên ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay” của tác giả Đinh Quốc Triệu [32]; “Xây dựng ý thức BVTQ Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trên địa bàn Hà Nội hiện nay” của tác giả
Nguyễn Hùng Sơn [27]; “Một số vấn đề chủ yếu trong xây dựng ý thức BVTQ Việt
Nam XHCN cho nhân dân và lực lượng vũ trang thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn
Vĩnh Thắng [29]; “Bước đầu tiếp cận ý thức BVTQ XHCN ở con người Việt Nam
trong thời kỳ mới” của tác giả Trương Thành Trung [34], v.v..
Trong đó, đề tài KX.07.19 đã đưa ra khái niệm về ý thức BVTQ của
con người Việt Nam: “Ý thức BVTQ của con người Việt Nam ngày nay là sự
giác ngộ về nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp BVTQ Việt
Nam phát triển theo định hướng XHCN, được biểu hiện bằng hành vi thực tế
sẵn sàng chống lại các hình thức lũng đoạn, khuất phục, lấn chiếm và xâm
lược của các thế lực thù địch đối với nền độc lập dân tộc và công cuộc phát
triển đất nước”; đề tài đã xác định cấu trúc của ý thức BVTQ bao gồm những
thành tố. Tri thức: sự hiểu biết về đất nước và con người Việt Nam, về mục
tiêu yêu cầu BVTQ ngày nay, về kẻ thù và những kiến thức quốc phòng cần
thiết. Thái độ, cảm xúc, tình cảm: đó là lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội,
niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường phát triển
đất nước theo định hướng XHCN, thiết tha với lý tưởng sống vì độc lập dân
tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh. Ý chí được biểu hiện ở
tính độc lập tự chủ, tự lực tự cường, dám xả thân vì mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, tích cực học tập,

lĩnh hội kiến thức và kỹ năng quốc phòng, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội.
5


Tâm thế sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ công dân để bảo vệ Đảng, Nhà nước
XHCN và nhân dân, sẵn sàng chống “diễn biến hồ bình”, “bạo loạn lật đổ”.
Tác giả Đinh Quốc Triệu cho rằng: “Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN là
một loại hình của ý thức xã hội XHCN, phản ánh tính tất yếu (yêu cầu khách
quan), mục tiêu, nhiệm vụ, những vấn đề chiến lược, sách lược của Đảng Cộng
sản Việt Nam về BVTQ XHCN và mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền... bảo vệ sự nghiệp đổi mới và
lợi ích quốc gia dân tộc”. Tác giả đã xác định cấu trúc của ý thức BVTQ Việt
Nam XHCN bao gồm: tri thức BVTQ ở cả hai cấp độ thơng thường và lý luận;
tình cảm, thái độ và sự đòi hỏi bên trong đối với nhiệm vụ sẵn sàng BVTQ; ý chí
và các hành động tích cực cho sự nghiệp BVTQ.
Tác giả Trương Thành Trung đã đưa ra và luận giải cơ sở khoa học của
sự hình thành ý thức BVTQ Việt Nam XHCN trên các khía cạnh khác nhau, ví
như: ý thức BVTQ Việt Nam XHCN hình thành trên cơ sở truyền thống yêu
nước và văn hóa giữ nước của dân tộc; thực chất là ý thức chính trị, được hình
thành trên cơ sở sự giác ngộ về trách nhiệm xã hội của con người đối với độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, v.v.. Tác giả khẳng định: “Xây dựng ý thức BVTQ
XHCN cho người dân Việt Nam trong thời đại ngày nay chính là nâng cao giác
ngộ của họ về giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc...”.
Các cơng trình trên đã khám phá và làm rõ nhiều vấn đề về ý thức
BVTQ. Mỗi cơng trình, mỗi đề tài đều đã đề cập và luận giải ý thức BVTQ ở
góc độ tiếp cận, độ sâu, độ rộng khác nhau và các tác giả cũng đã đưa ra
những quan niệm, định nghĩa khác nhau về ý thức BVTQ Việt Nam XHCN;
nhưng tất cả đều có một quan điểm chung là: ý thức BVTQ Việt Nam XHCN
bao giờ cũng là sản phẩm của hoạt động BVTQ Việt Nam XHCN được cấu
trúc bởi các thành tố khác nhau.

Về sự tác động, ảnh hưởng của KTTT định hướng XHCN đến nâng cao
ý thức BVTQ của học viên các nhà trường quân đội; đến nay có các cơng
trình tiêu biểu của các tác giả như:
6


“Ảnh hưởng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay đến
phát triển ý thức chính trị của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường
Sĩ quan Pháo binh hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Xiển [43]; “Phát triển
nhân cách học viên cấp phân đội Học viện Khoa học Quân sự dưới tác động của
mặt trái KTTT ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Văn Thịnh [31]; “Sự phát
triển nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam” của tác giả Phạm
Quốc Trung, Phạm Thị Túy [33], v.v.. Từ góc độ triết học, các cơng trình trên đã
luận giải, làm rõ sự tác động, ảnh hưởng của KTTT định hướng XHCN đến các
yếu tố cấu thành ý thức BVTQ của người học viên, người sĩ quan quân đội ta
trên cả phương diện tích cực và tiêu cực. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm
phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT định
hướng XHCN để phát triển ý thức BVTQ. Song, các tác giả mới đề cập sự tác
động, ảnh hưởng của KTTT đến các yếu tố cấu thành ý thức BVTQ; chưa luận
giải sự tác động, ảnh hưởng đó đến nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường
Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên đến nay, chưa có
một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống, chuyên sâu
với tính cách là một đề tài độc lập dưới góc độ triết học về vấn đề: “Nâng cao ý
thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng
cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát

triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật nâng cao ý thức
BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
7


Đánh giá thực trạng ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính
trị trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan
Chính trị trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp nâng cao ý thức BVTQ trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị, tập trung ở đối tượng học viên đào tạo chính trị viên
cơ bản 5 năm. Số liệu điều tra, khảo sát từ năm học 2009 - 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Nghị quyết của Quân ủy
Trung ương, Chỉ thị, Hướng dẫn của Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị về KTTT
định hướng XHCN ở nước ta và lý luận BVTQ ở Việt Nam; các nghị quyết, kế
hoạch của Trường Sĩ quan Chính trị và các cơng trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Là các báo cáo kết quả tổng kết, đánh giá thực tiễn của các cơ quan

chức năng có liên quan ở Nhà trường và kết quả khảo sát thực trạng ý thức
BVTQ trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích và
tổng hợp; lơgíc và lịch sử; điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia, v.v..

8


6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần luận giải một số vấn đề lý luận về nâng cao ý thức
BVTQ trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao ý thức BVTQ
trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay của
học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị làm cơ sở khoa học
để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nâng cao ý thức BVTQ của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy, giáo dục, rèn luyện học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị và những người quan tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

9



Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
NÂNG CAO Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG
SĨ QUAN CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. Thực chất nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường
Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại những mơ
hình kinh tế gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và của phân
cơng lao động xã hội, đó là: kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và kinh tế hàng
hóa. KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, là một kiểu tổ
chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại.
KTTT không phải là sản phẩm của một chế độ kinh tế, xã hội nào mà là thành
tựu của văn minh nhân loại, là giai đoạn phát triển tất yếu của xã hội loài
người và là phương thức phát triển kinh tế năng động nhất của nhân loại đã
tìm ra cho đến nay. Do đó, các quốc gia lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội cần
phải sử dụng KTTT phục vụ cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động cho nhân dân.
Nhận thức được điều đó, trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã
quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
sang xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Theo đó, Nghị
quyết Trung ương lần thứ sáu, khóa IV năm 1979 được xem như điểm khởi
đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm cho sản xuất bung


10


ra, thừa nhận quan hệ hàng hóa, tiền tệ, cho tự do lưu thông. Tuy nhiên, nền
kinh tế Việt Nam thực sự bắt đầu chuyển sang vận hành theo cơ chế mới từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), sự kiện đánh dấu bước chuyển
này là việc Đảng ta khẳng định đường lối đổi mới kinh tế là: phát triển nền kinh
tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối phát
triển kinh tế ấy tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện Đảng, tại các kỳ
Đại hội tiếp theo của Đảng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm “KTTT định hướng XHCN” mới chính
thức được đưa ra. Đại hội khẳng định: “Phát triển KTTT định hướng XHCN là
đường lối chiến lược nhất quán, là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [12, tr. 86]. Có thể coi đây là bước đột phá
trong tư duy lý luận của Đảng ta về cách mạng XHCN ở Việt Nam.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng chủ trương: “tiếp tục
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN” và đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ
bản của định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá
toàn diện sự nghiệp đổi mới qua 25 năm, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định
quan điểm “kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới” mà “trọng tâm là hoàn thiện
thể chế KTTT định hướng XHCN”. Đại hội tiếp tục khẳng định: “nền KTTT định
hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; vừa vận động theo những quy luật của KTTT, vừa được dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được
vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đơi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh” [14, tr. 34 - 35].
11


KTTT định hướng XHCN là mơ hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một kiểu KTTT mới trong
lịch sử phát triển của KTTT. Hay nói cách khác, KTTT là cái phổ biến, còn
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là cái đặc thù của Việt Nam, phù hợp
với điều kiện và đặc điểm của Việt Nam. Đây là nền kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của thị trường vừa có định hướng bởi các nguyên tắc của chủ
nghĩa xã hội, luôn chịu sự tác động của các quy luật khách quan của KTTT
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Nhà nước một
mặt tạo điều kiện cho các quy luật phát huy tác dụng, mặt khác bằng các biện
pháp thích hợp để hạn chế các mặt tiêu cực do cơ chế thị trường sản sinh ra.
Như vậy, qua các văn kiện của Đảng ta, có thể hiểu, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một phương thức phát triển
sức sản xuất để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền KTTT khác về bản chất so
với nền KTTT ở nhiều nước khác. KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
hồn tồn khơng phải là KTTT tự do mà là KTTT vận hành cùng với việc
thực hiện nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, là KTTT có tổ chức, có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước pháp
quyền XHCN, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những
khuyết tật của tính tự phát thị trường, phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số
nhân dân lao động và sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
đã và đang bộc lộ một số vấn đề cần phải giải quyết.
Tính hai mặt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Mặt tích cực: tạo ra động lực mạnh mẽ đưa nền kinh tế đất nước tăng
trưởng liên tục với tốc độ cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Đời
12


sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện cơ bản, tình
hình chính trị - xã hội luôn ổn định, niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ
XHCN vì thế mà ngày càng được củng cố và tăng cường, vị thế của đất nước
trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Điều đó đã có tác động tích cực
đến q trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Mặt tiêu cực, có thể khái qt qua một số nội dung sau đây:
Một là, KTTT làm cho con người dần dần hình thành thói quen sùng
bái tính tự phát dẫn đến coi nhẹ, phủ nhận vai trò quan trọng, cần thiết của tập
thể và chủ nghĩa tập thể đối với sự phát triển của xã hội.
Hai là, KTTT tạo ra môi thuận lợi cho sự gia tăng tình trạng phân hố
giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội. Từ đó, hình thành các tầng, lớp học viên
khác nhau. Sự phân hoá giàu nghèo làm cho khoảng cách về mức sống giữa
các học viên, gia đình học viên ngày càng phát triển. Điều đó tác động hằng
ngày, hằng giờ vào tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống học viên, thúc đẩy
nhanh q trình hình thành lề thói thực dụng dẫn đến thoái hoá về phẩm chất
đạo đức trong một số học viên. Ảnh hưởng không nhỏ đối với việc thực hiện
nhiệm vụ BVTQ.
Ba là, KTTT dung dưỡng tiềm năng hình thành thói quen sùng bái quan hệ
mua bán, giảm nhẹ quan hệ giáo dưỡng trong xã hội. Hình thành một bộ phận lấy
làm giàu là mục đích tối cao, nhiều người sẵn sàng dùng mọi cách trao đổi, mua
bán, chà đạp lên lợi ích tập thể làm phai nhạt lý tưởng, niềm tin, xem nhẹ những
giá trị truyền thống, thậm chí phản bội lợi ích quốc gia, dân tộc.
Bốn là, KTTT hình thành thói quen tuyệt đối hố lợi ích cá nhân, nhóm
nhỏ, lợi ích trước mắt; coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng, lợi ích lâu dài, vì lợi
ích cá nhân, họ sẵn sàng hy sinh lợi ích chung, lợi ích tập thể. Sự tác động từ

mặt trái KTTT đã thực sự làm cho một bộ phận học viên, khi mưu cầu hạnh
phúc cá nhân, lợi ích riêng tư đã đặt giá trị của cái “ích” lên vị trí cao trong
các thang bậc giá trị xã hội, thậm chí lên trên cả những tiêu chí khuôn mẫu,
13


những giá trị đạo đức đích thực. Nó biểu hiện thành lối sống vụ lợi, thực dụng
và đi liền với lối sống đó là sự bất chấp, sa đoạ về đạo đức, đi ngược lại với
bản chất nhân đạo, tích cực và những giá trị nhân văn của xã hội ta... Với tính
cách là tồn tại xã hội, tính hai mặt của sự phát triển KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam đang tác động hằng ngày, hằng giờ đến ý thức BVTQ của từng
quân nhân nói chung, cũng như học viên Trường Sĩ quan Chính trị nói riêng.
Nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
Tại Hội nghị Trung ương 8, khóa IX, lần đầu tiên Đảng ta xác định mục
tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN với các nội dung cụ thể: “Một là, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa; sáu
là, giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo
định hướng XHCN” [1, tr. 45 - 46].
Tư duy lý luận, nhận thức của Đảng về BVTQ ngày càng có bước phát
triển, đến Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững
hịa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội;
chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” [14, tr. 81 - 82].
BVTQ là một quy luật khách quan, một nhiệm vụ chiến lược gắn bó
hữu cơ với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong suốt quá trình cách

mạng Việt Nam. Ý thức BVTQ là một loại hình của ý thức xã hội, phản ánh
tất yếu khách quan, yêu cầu, nhiệm vụ và thực tiễn BVTQ. Ý thức BVTQ được
hình thành, phát triển và ngày càng hồn thiện gắn liền với q trình dựng nước
và giữ nước của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện thực xây dựng và BVTQ, mục tiêu,
nội dung BVTQ như thế nào sẽ quy định ý thức BVTQ như thế ấy.
14


Ý thức BVTQ Việt Nam XHCN hiện nay là sự giác ngộ về quyền lợi,
nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ
Việt Nam XHCN, biểu hiện bằng hành vi thực tế sẵn sàng chống lại các hình
thức lũng đoạn, khuất phục, lấn chiếm và xâm lược của các thế lực thù địch
đối với nền độc lập dân tộc và công cuộc phát triển đất nước. Vì vậy, cấu trúc
của ý thức BVTQ XHCN rất rộng lớn và tồn diện: đó là nhận thức của mọi
người dân Việt Nam về Tổ quốc XHCN và những vấn đề cơ bản về BVTQ
XHCN; là tình cảm, niềm tin của mọi người đối với Tổ quốc và sự nghiệp
BVTQ; là ý chí, quyết tâm BVTQ của mọi người dân Việt Nam. Các yếu tố
nhận thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có
vai trị khơng giống nhau trong cấu trúc của ý thức BVTQ; tác động thúc đẩy
lẫn nhau cùng phát triển, đồng thời thể hiện trong thực tiễn thực hiện nhiệm
vụ BVTQ, khơng thể tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ một yếu tố nào. Từ những
luận giải trên, có thể quan niệm: Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là một loại hình của ý thức xã hội, phản ánh yêu cầu khách quan, mục
tiêu, nhiệm vụ và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc, là tổng hịa tri thức, tình cảm,
niềm tin, ý chí của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nhằm bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ý thức BVTQ thuộc phạm trù ý thức nói chung của con người, vừa tồn
tại trong ý thức cá nhân, vừa tồn tại trong ý thức cộng đồng; là một hiện
tượng xã hội nhưng cũng được biểu hiện thông qua từng con người, từng quân
nhân cụ thể, trong đó có học viên Trường Sĩ quan Chính trị. Do đó, cần đặc

biệt coi trọng việc nâng cao ý thức BVTQ của quân nhân nói chung, học viên
Trường Sĩ quan Chính trị nói riêng.
Đặc điểm của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
Trường Sĩ quan Chính trị là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị cấp phân
đội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đối tượng đào tạo ở Nhà trường rất đa

15


dạng, trong đó đối tượng học viên đào tạo chính trị viên, bậc đại học (thời
gian đào tạo 5 năm) được xác định là đối tượng đào tạo cơ bản và chủ yếu.
Nghiên cứu ý thức BVTQ cho đối tượng này cần thấy được những đặc điểm
chung và đặc điểm riêng.
So với những quân nhân trong quân đội và học viên các học viện, nhà
trường khác trong quân đội, học viên Trường Sĩ quan Chính trị mang đầy đủ
những đặc trưng chung, đó là: Họ là những thanh niên tốt nghiệp phổ thông
trung học, thiếu sinh quân, quân nhân thực hiện nghĩa vụ quân sự có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, văn hố, sức khoẻ, tuổi đời,
có ý chí, quyết tâm cao, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ; có tinh
thần yêu nước, có tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của quê
hương, đất nước; tin tưởng vào mục tiêu lý tưởng và sự lãnh đạo của Đảng,
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; có nguyện vọng phục vụ
lâu dài trong quân đội, ln năng nổ, nhiệt tình, sơi nổi trong thực hiện nhiệm
vụ, năng động, nhạy bén trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, do đặc điểm tuổi quân, tuổi đời, kinh nghiệm sống chưa
nhiều, nên ở họ còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: chưa chín chắn, bản
lĩnh chính trị chưa vững vàng, khi gặp khó khăn thất bại tạm thời dễ bi quan
chán nản, thiếu kiên trì nhẫn nại; khả năng phân biệt đúng sai trong tiếp xúc với
cái mới còn hạn chế… Mặt khác, do được tuyển chọn ở khắp các tỉnh, thành
trong toàn quốc, nguồn gốc xuất thân khác nhau, nhiều học viên xuất thân từ

thị trấn, thị xã, thành phố…nên học viên Trường Sĩ quan Chính trị còn mang
đậm tác phong sinh hoạt và phong tục tập quán vùng, miền và trực tiếp chịu tác
động của KTTT trước khi vào quân đội. Tất cả những đặc điểm đó sẽ chi phối,
tác động khơng nhỏ đến q trình nâng cao ý thức BVTQ của đối tượng này.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, học viên Trường Sĩ quan Chính
trị cịn có những đặc điểm riêng, đó là:

16


Học viên Trường Sĩ quan Chính trị là những thanh niên đang phát
triển, hồn thiện về nhân cách và có năng khiếu chính trị tốt. Đây là điểm
khác biệt so với thanh niên và học viên ở các nhà trường khác. Khi lựa chọn
đăng kí dự thi vào Trường Sĩ quan Chính trị, về cơ bản họ đã có sở thích, có
cảm tình, mong muốn, ước mơ, trở thành người cán bộ chính trị trong quân đội,
họ tự ý thức được mục tiêu mà mình đang phấn đấu, hướng tới. Cho nên, các
hoạt động của họ có xu hướng vươn tới nhận thức và chiếm lĩnh những phẩm
chất, năng lực cấu thành nhân cách của người chính trị viên. Điều đó chi phối
đến động cơ, thái độ học tập, đến thái độ sống, đến cách ứng xử và giải quyết
các mối quan hệ và quy định quá trình nhận thức, tình cảm, niềm tin, ý chí của
họ đối với nhiệm vụ BVTQ. Năng khiếu chính trị của học viên có ý nghĩa rất
lớn trong việc hướng sự chú ý, tình cảm, tri thức của học viên đối với Tổ quốc
nói chung và sự nghiệp BVTQ nói riêng.
Học viên Trường Sĩ quan Chính trị có điều kiện thuận lợi để rèn luyện,
nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà
trường, đặc điểm, điều kiện của Trường Sĩ quan Chính trị có những nét khác
biệt với những nhà trường quân đội khác. Sự khác biệt này quy định con
đường, biện pháp nâng cao ý thức BVTQ của học viên diễn ra theo những
cách thức cụ thể, đặc thù: kỷ luật nghiêm minh nhưng cũng thấm đượm tinh
thần nhân văn, khoa học. Do yêu cầu, nhiệm vụ người cán bộ chính trị cấp

phân đội, chương trình đào tạo của học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện
nay có hàm lượng các tri thức khoa học xã hội và nhân văn nhiều hơn hẳn học
viên ở các nhà trường quân đội khác. Đây là điều kiện thuận lợi để học viên
vừa được lĩnh hội những tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, vừa
được rèn luyện, trưởng thành trong môi trường nhân văn quân sự. Học viên
được định hướng sâu sắc những giá trị cách mạng, khoa học và nhân văn, lập
trường thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, đặc biệt là định hướng và bản
lĩnh chính trị; có sự hiểu biết và niềm tin sâu sắc vào chủ nghĩa Mác - Lênin,

17


tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tuyệt đối
trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ
quốc, Nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN; luôn vững vàng, chủ động, tỉnh táo
trong mọi hoàn cảnh, nhạy bén, sắc sảo trong xem xét, giải quyết các vấn đề
trong q trình học tập, cơng tác.
Học viên Trường Sĩ quan Chính trị là chính trị viên - người chủ trì về
chính trị ở đơn vị cơ sở ngày mai nên đòi hỏi cao về rèn luyện nhân cách “Bộ
đội Cụ Hồ” và ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện
Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khóa IX “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, vị thế của cán
bộ chính trị trong quân đội được nâng cao hơn trước. Hiện thực hóa mục tiêu
đó, học viên đào tạo chính trị viên phải học tập, rèn luyện, thực hành, thực tập
đáp ứng yêu cầu cao về phẩm chất, năng lực của người cán bộ chính trị trong
tương lai. Học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị tốt nghiệp ra trường thường
được đảm nhiệm trên cương vị chính trị viên phó đại đội, chính trị viên đại
đội và tiếp tục phát triển ở những năm tiếp theo. So với sĩ quan cấp phân đội

mới tốt nghiệp ở các học viện, nhà trường khác, cương vị của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị có tầm cao hơn. Chính vì vậy, ngay từ khi đang học
tập tại trường, học viên ý thức được vị thế cơng tác của mình. Điều đó đặt ra
u cầu cao về nhân cách học viên cũng như ý thức của họ đối với nhiệm vụ
BVTQ. Các chủ thể giáo dục và bản thân học viên phải nỗ lực học tập, rèn
luyện để không ngừng củng cố hệ thống tri thức tồn diện; tình cảm, niềm tin
vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vào sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt
Nam XHCN, tình cảm đồng chí đồng đội, u mến nghề nghiệp của người sĩ
quan chính trị tương lai được bồi dưỡng, rèn luyện thường xuyên.
Từ khái niệm ý thức BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của
học viên Trường Sĩ quan Chính trị, có thể quan niệm: Ý thức bảo vệ Tổ quốc
18


của học viên Trường Sĩ quan Chính trị là tổng hịa các yếu tố tri thức, tình
cảm, niềm tin và ý chí phấn đấu vươn lên của người học viên, thể hiện ở thái
độ, hành vi của họ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu đào tạo người chính trị viên của Nhà trường, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị mang tính giai
cấp sâu sắc, nó phản ánh địa vị giai cấp trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nội dung giai cấp trong ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
được thể hiện ở quan điểm, tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí của họ đối với
nhiệm vụ BVTQ.
Ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị được biểu hiện ở ý
thức về chủ quyền quốc gia, dân tộc; ở lịng tự tơn dân tộc, tinh thần sẵn sàng đấu
tranh chống lại các thế lực vi phạm chủ quyền quốc gia, dân tộc; ở sự giác ngộ
quyền và nghĩa vụ của học viên đối với sự an nguy, thịnh suy, tồn vong của quốc
gia, dân tộc. Đây là sản phẩm, kết quả của hoạt động học tập, rèn luyện, thực hiện

nhiệm vụ theo chức trách của người học viên, thể hiện qua nhận thức của họ về
đối tác, đối tượng; nhận thức về kẻ thù, nắm được âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
đối với cách mạng nước ta.
Tiếp cận ý thức BVTQ là một hiện tượng của ý thức xã hội gắn với đối
tượng cụ thể là học viên Trường Sĩ quan Chính trị, ý thức BVTQ ln có sự vận
động, phát triển mang dấu ấn riêng của chủ thể. Nâng cao ý thức BVTQ của học
viên Trường Sĩ quan Chính trị là một q trình tự thân vận động, chuyển hóa các
yếu tố cấu thành. Quá trình đó chịu sự tác động của chủ thể tới khách thể, làm cho
đối tượng phát triển theo hướng cao hơn theo mục đích, yêu cầu mà chủ thể đề ra.
Vì vậy, thực chất nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
hiện nay là sự phát triển ý thức BVTQ lên một chất mới phù hợp với ý thức
BVTQ Việt Nam XHCN với đặc điểm, nhiệm vụ của quân đội và Nhà trường.
19


Như vậy, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ quan
Chính trị là q trình tác động có mục đích của các chủ thể cùng với sự tích
cực, sáng tạo, nỗ lực học tập, rèn luyện, phấn đấu của người học viên, làm
chuyển hóa khơng ngừng các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ Tổ quốc, thể
hiện ở tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí khắc phục khó khăn, hồn thành
tốt nhiệm vụ của người học viên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trực
tiếp góp phần hình thành hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí
BVTQ trong mỗi người học một cách đúng đắn; thơng qua đó góp phần rèn
luyện bản lĩnh chính trị, lịng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng,
với nhân dân; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội; giúp cho họ đứng vững trước những thay đổi của thời cuộc, có niềm
tin son sắt vào con đường đi lên của dân tộc, sẵn sàng phục vụ và hy sinh
vì Tổ quốc. Đồng thời, giúp học viên tăng khả năng “miễn dịch” và đấu

tranh thắng lợi trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các
thế lực thù địch.
Nội dung nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính
trị mang tính tồn diện, tuy nhiên cần tập trung vào những nội dung mang tính
thiết thực đó là: giáo dục nâng cao nhận thức cho học viên về tình yêu quê
hương, đất nước, truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng, làm cho mỗi
người học thấy được vinh dự, tự hào, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng cho học viên tình cảm, niềm tin
vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước; đồng thời
hình thành ở mỗi học viên ý chí, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ,
hành động tích cực, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp BVTQ.
Như vậy, nội dung nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan
Chính trị là một thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố, nhưng tựu trung được
20


biểu hiện sâu sắc và rõ nét ở tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí và hành động
tích cực vì sự nghiệp BVTQ. Những yếu tố này là một chỉnh thể thống nhất
hữu cơ, không tách rời. Do vậy, trong quá trình nâng cao ý thức BVTQ của
đối tượng này phải tiến hành đồng thời ở tất cả các yếu tố, các bộ phận cấu
thành, không được coi nhẹ, hạ thấp yếu tố nào.
1.1.2. Quan niệm về nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nâng
cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, phức tạp và chứa đựng nhiều
yếu tố khó lường, tác động của nền KTTT định hướng XHCN chi phối mạnh
mẽ đến vấn đề nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị.
Thông qua con đường vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, nhưng con đường trực tiếp

là chủ yếu. KTTT có thể tác động trực tiếp tới từng học viên, hoặc thông qua
mơi trường xã hội bên ngồi như: qua gia đình, qua các mối quan hệ phong
phú của người học, hoặc qua các khâu trung gian từ đó tác động đến ý thức
BVTQ của học viên. Vì thế, nếu chỉ thấy những tác động tích cực, mà khơng
thấy những tác động tiêu cực và ngược lại sẽ là sai lầm. Càng sai lầm hơn nếu
phủ nhận sự tác động của KTTT định hướng XHCN tới vấn đề nâng cao ý
thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị với nhận thức rằng, học
viên Trường Sĩ quan Chính trị khơng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, lại
được Nhà nước chăm lo từ ăn, ở, mặc và các lĩnh vực khác... do đó khơng liên
quan đến KTTT. Sự tác động của KTTT định hướng XHCN đến nâng cao ý
thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị là một quá trình tác động
phức tạp nhiều chiều, là một tổ hợp các tác động tích cực lẫn tiêu cực với
những phương thức tác động đa dạng.
Tác động tích cực
Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở vật
chất để cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của học viên. Trong
21


điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN sẽ thúc đẩy mạnh mẽ q trình
sản xuất, lưu thơng làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập kinh tế
thế giới. Mở rộng hợp tác giao lưu, góp phần rút ngắn sự chênh lệch kinh tế
giữa các vùng, miền, khu vực trong đất nước, tạo điều kiện nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của học viên. Các nhu cầu xã hội về ăn, mặc, ở, học hành,
chăm sóc sức khoẻ được bảo đảm tốt hơn. Cơ sở vật chất, phương tiện bảo
đảm thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần của học viên tăng lên cả về số lượng
và chất lượng. Nhờ đó, họ có thể kịp thời nắm bắt được đường lối, chủ
trương, chính sách và các vấn đề thời sự chính trị, văn hố, xã hội cả trong và
ngồi nước, góp phần mở rộng tầm nhìn và nâng cao sự hiểu biết mình. KTTT
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay còn là cơ sở quan trọng để Đảng và Nhà

nước ta đề ra và thực hiện chính sách đối với qn nhân và gia đình qn nhân
nói chung, học viên Trường Sĩ quan Chính trị nói riêng. Bảo đảm lợi ích vật chất
và tinh thần, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cho
học viên. Từ đó, sẽ hạn chế phân tâm ở người học, nâng cao ý thức, trách nhiệm
chính trị của họ với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.
Thứ hai, thành tựu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
cơ sở hiện thực, góp phần củng cố niềm tin của học viên vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn và
rất quan trọng do sự phát triển KTTT đưa lại đã từng bước củng cố lòng tin của
người học đối với Đảng Cộng sản và chế độ mới. Trong điều kiện đất nước
chuyển dần sang nền kinh tế của một nước cơng nghiệp, chúng ta sẽ có điều
kiện phát triển cơng nghiệp quốc phịng, cải thiện vũ khí, trang bị cho lực
lượng vũ trang, sẽ là cơ sở vật chất quan trọng tạo cho người học sự yên tâm,
phấn khởi hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ, tăng thêm niềm tin vào sức mạnh
của quân đội, sự tất thắng của chế độ xã hội XHCN, vào chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao tính tích cực, tự giác, yên
tâm phấn khởi của học viên, sẵn sàng vượt qua khó khăn để hồn thành tốt
22


nhiệm vụ được giao, là cơ sở để thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Những thành tựu của KTTT định hướng XHCN cịn làm cho trình độ
dân trí của tồn xã hội cũng như của từng học viên được nâng cao. Con người
năng động, sáng tạo hơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cơ sở xã hội, giai
cấp của quân đội ta được củng cố vững chắc thêm, niềm tin của học viên vào
tiền đồ của cách mạng, của đất nước càng được củng cố. Điều đó tác động
tích cực đến việc nâng cao ý thức BVTQ của họ, tăng thêm sức đề kháng của
học viên trước sự xâm nhập của tư tưởng tư sản, sự tấn công phá hoại của kẻ
thù. Nhờ thế, sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại sẽ có nhiều thuận lợi hơn, q trình nâng cao ý thức

BVTQ của học viên được thực hiện tốt hơn.
Tác động tiêu cực
Phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam bên cạnh những tác
động tích cực to lớn cũng bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị. Nguyên
cố vấn Phạm Văn Đồng nhận xét rằng: “Trong cuộc sống của chúng ta, ở bất
kỳ đâu hình như cũng có một dạng tiêu cực của kinh tế thị trường trắng trợn
hoặc kín đáo, ngay cả ở những nơi không thể chấp nhận được như ở trường
học, ở các viện nghiên cứu khoa học, trong văn học và nghệ thuật, trong báo
chí và xuất bản... tình trạng thiếu kỷ luật, kỷ cương... đã khiến cho kinh tế thị
trường sơ khai nhiều khi có tính hoang dã đã triển khai hoạt động ở hầu khắp
các lĩnh vực của cuộc sống, gây tác hại về nhiều mặt” [17, tr. 60 - 61, 90 - 91].
Sự tác động tiêu cực của KTTT đến vấn đề nâng cao ý thức BVTQ của học
viên biểu hiện cụ thể trên một số mặt sau:
Một là, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường ảnh hưởng xấu đến
mơi trường chính trị - xã hội của quân đội và việc nâng cao ý thức bảo vệ Tổ
quốc của học viên Trường Sĩ quan Chính trị. Mặt trái của KTTT kéo theo
23


nhiều tiêu cực xã hội ở các vùng, miền, các địa phương trong cả nước; ở các
ngành, các cấp, ở một số cơ quan chức năng trong bộ máy Đảng và Nhà nước;
sự yếu kém của hệ thống chính trị nhất là ở đơn vị cơ sở; sự lợi dụng sơ hở
của pháp luật; sự khơng phù hợp của chính sách; sự băng hoại về đạo đức,
phẩm chất lối sống, thoái hoá biến chất ở một số cán bộ, đảng viên; tệ quan
liêu, tham ô, tham nhũng, cửa quyền - một quốc nạn, một nguy cơ của đất
nước chưa được ngăn chặn; niềm tin của một bộ phận nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào cách mạng XHCN bị suy giảm...những hiện tượng đó đã
ảnh hưởng nhất định đến mơi trường chính trị và sự phát triển của đất nước
theo định hướng XHCN nói chung, đến sự nghiệp xây dựng quân đội, BVTQ

của học viên nói riêng. Đó cũng sẽ là trận địa để các thế lực thù địch kích
động chống phá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Điều
này tác động trực tiếp đến quá trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị.
Hai là, kinh tế thị trường tác động tới sự phân hoá giàu nghèo trong
nội bộ tập thể học viên đào tạo chính trị viên. Mặt trái của KTTT đã và đang
tác động, ảnh hưởng đến sự phân tầng làm xuất hiện các nhóm học viên thuộc
các gia đình giàu có và các gia đình cịn nghèo khó. Sự cách biệt về mức sống
và lối sống của các nhóm học viên ấy sẽ ngày càng trở nên rõ nét, ảnh hưởng
xấu đến quan hệ, tình cảm đồng chí, đồng đội trong tập thể học viên. Tác
động trực tiếp đến sự thống nhất ý chí của học viên, làm cho tính hồ đồng,
tinh thần đồng cam cộng khổ giữa cán bộ và học viên, giữa cán bộ với cán bộ,
giữa học viên ở các vùng khác nhau có biểu hiện sa sút nhất định. Sự phân
hoá giàu nghèo trong quân đội hàng ngày, hàng giờ tác động vào tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, lối sống học viên. Đồng thời, nó cịn dẫn tới sự cách biệt
trong phong cách sinh hoạt, trong lối sống và có thể dẫn tới sự đối lập về thái
độ đối với nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ BVTQ. Đây thực sự là vấn đề phức
tạp, liên quan trực tiếp đến việc nâng cao ý thức BVTQ của học viên.
24


Ba là, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường dẫn tới sự biến đổi định
hướng giá trị trong quân đội. Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái KTTT
định hướng XHCN sẽ làm định hướng giá trị của một số học viên có những đảo
lộn nhất định. Đó là sự tăng lên của các nhân tố thực dụng trong mỗi người quân
nhân nói chung, học viên Trường Sĩ quan Chính trị nói riêng, chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa cơ hội cực đoan có điều kiện phát triển hơn, gây khó khăn cho q
trình nâng cao ý thức BVTQ của người quân nhân cách mạng. Tác động từ mặt
trái KTTT còn dẫn đến định hướng giá trị của một bộ phận học viên với những
biểu hiện lệch lạc như: trọng tài hơn trọng đức; trọng bằng cấp, học vị hơn phẩm

chất chính trị, nhân cách; trọng kinh tế hơn quân sự, quốc phòng.
Tác động của sự phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đến
nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị là một quá trình
trực tiếp lẫn gián tiếp, tự phát với tự giác thông qua nhiều con đường. Cường
độ và tác hại của những tác động tiêu cực không phải như nhau ở mỗi thời kỳ.
Đối tượng chịu tác động của KTTT định hướng XHCN là học viên, tập thể học
viên, hậu phương gia đình của họ và các đơn vị quân đội. Vì vậy, cần nhận thức
đầy đủ cả tác động tích cực và tiêu cực của KTTT định hướng XHCN đến quá
trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị.
Từ khái niệm nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan
Chính trị và những tác động của KTTT đối với quá trình nâng cao ý thức
BVTQ của đối tượng này, có thể quan niệm: Nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc
của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quá trình tác động có mục
đích của các chủ thể giáo dục, cùng với sự nỗ lực, tích cực của học viên để
tạo ra sự miễn dịch, không bị ảnh hưởng của tác động tiêu cực từ kinh tế thị
trường; làm chuyển hóa khơng ngừng các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ Tổ
quốc theo hướng tích cực, tạo ra sự thay đổi về chất trong tri thức, tình cảm,
niềm tin và ý chí khắc phục khó khăn, hồn thành tốt nhiệm vụ của học viên.
25


Nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một q trình
thống nhất, có chủ thể và đối tượng nâng cao. Chủ thể nâng cao ý thức BVTQ
của học viên Trường Sĩ quan Chính trị trong điều kiện phát triển KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam bao gồm các lực lượng giáo dục và các cơ quan
chức năng của Nhà trường, đó là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các phòng, ban,
khoa giáo viên, các đơn vị quản lý học viên và các bộ phận liên quan. Chủ thể
là nhân tố năng động, giữ vai trị quyết định chất lượng, hiệu quả của tồn bộ

q trình nâng cao ý thức BVTQ của học viên.
Đối tượng nâng cao ý thức BVTQ của học viên Trường Sĩ quan Chính
trị trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là học
viên đào tạo chính trị viên. Họ vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá trình
nâng cao. Với tư cách là khách thể, đối tượng nâng cao chịu sự điều khiển của
chủ thể nâng cao và sự chi phối của mục đích, nội dung, phương pháp, hình
thức nâng cao. Với tư cách là chủ thể nâng cao, họ lại có vai trị tích cực, năng
động, độc lập và sáng tạo trong tiếp nhận và xử lý những tác động của quá
trình nâng cao, trực tiếp tạo nên chất lượng, hiệu quả của quá trình đó. Như
vậy, chủ thể trực tiếp, xét đến cùng quyết định chất lượng và hiệu quả nâng
cao chính là người học viên. Họ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể; biến quá
trình nâng cao thành quá trình tự nâng cao dưới sự dẫn dắt, định hướng của
các lực lượng giáo dục ở nhà trường.
Nội dung nâng cao đó là làm cho học viên có nhận thức tốt các vấn đề
lý luận về BVTQ, nhận thức rõ kẻ thù, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch. Về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, quan điểm của Đảng ta, về nhiệm vụ BVTQ. Đồng thời, giáo dục
cho học viên có thái độ đúng, nhận rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của người qn
nhân đối với nhiệm vụ BVTQ, có tình cảm tốt trong thực hiện nhiệm vụ
BVTQ. Có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp
26


×