Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VẤN ĐỀ HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC NHÓM DÂN CƯ BỊ TỔN THƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.14 KB, 18 trang )

BÀI TIỂU LUẬN MÔN LÝ LUẬN CHUNG
VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG VẤN ĐỀ HÒA NHẬP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI CÁC NHÓM DÂN CƯ BỊ TỔN THƯƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Nhận thức chung về vai trò của Nhà nước và vai trò của Nhà nước
trong quản lý xã hội về vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn
thương.
1.1 Cơ sở lý luận về “Vai trò của Nhà nước”
1.1.1 KN “Nhà nước”
1.1.2 “Vai trò của nhà nước”
- KN “Vai trò của nhà nước”
- Quan điểm của CN Mác- Lenin về vai trò của nhà nước
- KN “Quản lý xã hội”
1.2 Nhận thức chung về “Các nhóm dân cư bị tổn thương”
1.2.1 KN “hịa nhập xã hội”
1.2.2 KN “Các nhóm dân cư bị tổn thương”
1.2.3 Đặc điểm của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương
1.2.4 Tổng quan về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền của nhóm dễ bị tổn
thương
1.2.5 Thực trạng vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương ở
Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG II: Vị trí, vai trị của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với
các nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay


1.1 Vị trí của nhà nước trong vấn đề hịa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị
tổn thương ở Việt Nam hiện nay
1.2 Vai trò của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị
tổn thương ở Việt Nam hiện nay
1.2.1 Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc
nhóm bị tổn thương trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
1.2.2 Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm dân cư bị tổn
thương
1.2.3 Vai trò của Nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật và cung ứng các dịch vụ pháp lý để giúp những người tổn thương
hòa nhập xã hội
1.3 Cơng an nhân dân trong vai trị của Nhà nước về vấn đề hịa nhập xã hội đối
với các nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm xã hội dễ bị
tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc ra đời, nhiều văn kiện
quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thơng qua, trong đó có một số lượng ngày
càng nhiều văn kiện đề cập đến quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương.
Nếu như trong một số vấn đề chung về nhân quyền hiện vẫn còn đang được tranh
cãi và ở một số nước bị coi là nhạy cảm, thì trong vấn đề quyền của các nhóm người dễ bị
tổn thương, các quốc gia thường có sự đồng thuận và ủng hộ ở mức cao. Điều đó thể hiện
ở việc hầu hết các điều ước quốc tế về quyền của các nhóm này, ví dụ như Cơng ước về
quyền trẻ em,… thường có một số lượng quốc gia thành viên đứng đầu trong các điều
ước quốc tế về nhân quyền.

Ở nước ta, từ trước đến nay Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến bảo vệ và thúc
đẩy sự hưởng thụ các quyền con người nói chung và quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương nói riêng. Trên thực tế, vấn đề quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương đã
được thể hiện trong pháp luật và chính sách của nhà nước từ rất sớm, trước khi Việt Nam
tham gia, thậm chí là trước khi Liên Hợp Quốc thơng qua các điều ước quốc tế có liên
quan. Mặc dù vậy, về cơ bản, nhận thức về các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này ở nước
ta vẫn còn rất hạn chế, dẫn đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của một số nhóm xã hội dễ
bị tổn thương chưa thật hiệu quả.
Những cộng đồng dễ bị tổn thương là những cộng đồng không chỉ dễ bị tổn
thương về mặt thực thể như trẻ em, người khuyết tật, người già, người bệnh, các phạm
nhân, v.v, mà nhiều khi đó có thể là những nhóm vừa dễ bị tổn thương về mặt thực thể và
về mặt xã hội, kinh tế, chính trị, do thiếu nguồn lực, do sự kỳ thị, hay các dịch vụ dành
cho họ. Có những nhóm khơng bị tổn thương về mặt thực thể nhưng vẫn là những cộng
đồng dễ bị tổn thương do thiếu nguồn lực kinh tế và xã hội và do định kiến xã hội khiến
cho họ khó tiếp cận đến các nguồn lực và dịch vụ, ví dụ như người đồng tính, những
người làm lao động tình dục vì mục đích thương mại, v.v... Có những cộng đồng dễ bị tổn
thương ở cả khía cạnh xã hội và thực thể như như trẻ em, người già, người khuyết tật,
người sống chung với HIV, v.v… là những người vốn yếu về mặt thực thể, nhưng do
những định kiến xã hội khiến tiếng nói của họ ít được coi trọng và thậm chí khơng có
những dịch vụ xã hội dành cho họ. Chính vì thế, khi thực hiện các nghiên cứu với
những nhóm dễ bị tổn thương cần phải chú ý bảo vệ họ. Sự tôn trọng không chỉ liên quan
đến việc bởi vệ những thông tin cá nhân của người tham gia khơng bị tiết lộ mà cịn bảo
vệ, giúp đỡ họ khi cần thiết, nâng cao năng lực cho họ nếu có thể. Chính vì vậy, em đã
lựa chọn đề tài “Vai trò của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân
cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.


2. Mục tiêu nghiên cứu:
Chỉ ra được vị trí, vai trò của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các
nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay

Có cái nhìn tồn diện và xây dựng giải pháp trên phương diện chủ quan cá nhân về
vấn đề hịa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam
Làm cơ sở lý luận phục vụ qn trình cơng tác sau này trên phương diện giải quyết
vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương
3. Đối tượng nghiên cứu: vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn
thương ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại Việt Nam trong gian đoạn hiện nay
5. Cấu trúc:
Đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Nhận thức chung về vai trò của Nhà nước và vai trò của Nhà nước
trong quản lý xã hội về vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn
thương.
Chương II: Vị trí, vai trò của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các
nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay


NỘI DUNG
Chương I: Nhận thức chung về vai trò của Nhà nước và vai trò của Nhà nước trong
quản lý xã hội về vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương.
1.1 Cơ sở lý luận về “Vai trò của Nhà nước”
1.1.1 Khái niệm “Nhà nước”
“Nói tóm lại, thốt thai từ xã hội… cho phép phân biệt nhà nước với các
thiết chế xã hội khác”. (giáo trình lý luận chung trang 27)
1.1.2 Vai trị của nhà nước
Khái niệm “Vai trị của nhà nước”
Có thể định nghĩa vai trò của nhà nước một cách khái quát như sau: “Vai trò của
nhà nước là sự tác động tích cực của nhà nước vào các quan hệ xã hội, thúc đẩy sự phát
triển của các quan hệ đó theo một trật tự mà giai cấp thống trị (giới cầm quyền) mong
muốn.
Quan điểm của CN Mác- Lenin về vai trị của nhà nước.

Học thuyết mác - xít về nhà nước đã chỉ rõ, nhà nước ra đời và tồn tại, phát triển
trong xã hội có giai cấp, vì thế, nhà nước trước hết và bao giờ cũng là thiết chế bảo vệ địa
vị thống trị của giai cấp thống trị trong một xã hội nhất định, gắn với một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định. Vì thế, V.I.Lênin đã viết: “Cách mạng không phải ở chỗ giai cấp
mới dùng bộ máy nhà nước cũ để chỉ huy và quản lý, mà ở chỗ khi đã đập tan bộ máy ấy
đi rồi thì giai cấp mới sẽ dùng một bộ máy mới để chỉ huy và quản lý”.
Tuy nhiên, bên cạnh thực hiện chức năng chuyên chính và là bộ máy bạo lực
chuyên nghiệp của giai cấp thống trị, nhà nước còn phải thực hiện chức năng xã hội nhằm
duy trì trật tự xã hội và điều hịa lợi ích trong xã hội theo trật tự mà giai cấp thống trị
hướng đến. Cho nên, các nhà kinh điển mác - xít chỉ rõ: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là
cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó
cịn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”. Nhà nước là bộ máy của giai cấp thống trị,
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế V.I. Lênin khẳng định: “Nhà nước là một
bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với giai cấp khác”.
Khái niệm “Quản lý xã hội”
Quản lý xã hội là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học
xã hội. Thông thường, các nhà nghiên cứu phân loại quản lý xã hội theo hai cách hiểu,
hiểu theo nghĩa rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. “Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ
chức của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và
phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mang tính xu thế phát triển khách
quan của xã hội”. Quản lý xã hội luôn diễn ra trong một mơi trường biến động, vận động
khơng ngừng. Do đó, quản lý xã hội ln phải quan tâm đến q trình phát triển, vận
động của các sự vật, hiện tượng. Chính vì thế, ngày nay, chúng ta thường nói quản lý xã


hội, về thực chất, là quản lý phát triển xã hội. Bản thân các chủ thể quản lý, các đối tượng
và khách thể quản lý, cũng vận động, phát triển không ngừng.
Quản lý phát triển xã hội là việc sử dụng các cơng cụ, giải pháp về chính sách để
thúc đẩy, điều tiết, xử lý các vấn đề của xã hội, để đảm bảo các mục tiêu của quá trình
phát triển xã hội. “Quản lý sự phát triển xã hội tổng thể, bao gồm quản lý phát triển kinh

tế, quản lý phát triển hệ thống chính trị, quản lý phát triển văn hóa, quản lý phát triển xã
hội theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển con người, quản lý nguồn lực vật chất nhân tạo,
nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”. Như vậy, nói đến quản lý phát triển xã hội tức là
nói đến q trình hoạt động, hành động của chủ thể quản lý, thông qua các chính sách và
các phương tiện, cơng cụ quản lý, để đạt được mục tiêu đặt ra.
Quản lý phát triển xã hội không thuần túy chỉ là hoạt động một chiều từ chủ thể
quản lý, mà còn là một quá trình tương tác liên tục giữa chủ thể với khách thể và các
nhân tố tác động. “Quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước với sự
phối hợp của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc tổ chức xây dựng và thực hiện các
chính sách, pháp luật, các cơng cụ quản lý, huy động tối đa các nguồn lực để giải quyết
các vấn đề xã hội, hướng vào việc phát triển cá nhân và cộng đồng, phát triển xã hội bền
vững”. Nói một cách tổng quát: "Quản lý phát triển xã hội, một cách chung nhất, là sự tác
động có chủ đích của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc
các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã
hội), bằng các nguồn lực trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng,
nhằm hướng sự vận hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra”.
Đồng thời, cần thống nhất tiếp cận giải quyết các vấn đề này một cách biện chứng.
Quản lý các vấn đề xã hội và phát triển xã hội (theo nghĩa hẹp, như là một lĩnh vực
của đời sống xã hội):
Thứ nhất, cần đặt trong hệ thống các vấn đề chung của toàn xã hội và các mối
quan hệ qua lại với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố và an ninh quốc phịng.
Thứ hai, cần chú trọng đến q trình phát triển như là một chu trình từ sự phát
sinh, hình thành, phát triển và tiêu vong của sự vật, hiện tượng.
Thứ ba, cần chú ý làm rõ vai trò của các chủ thể quản lý trong quá trình quản lý
phát triển xã hội, các công cụ và phương pháp thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ tư, khi
vận dụng các lý thuyết chung vào một quốc gia cụ thể, cần chú ý giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, những điều kiện lịch sử-cụ thể của quốc gia đó”.
1.2 Nhận thức chung về “Các nhóm dân cư bị tổn thương”.
1.2.1 Khái niệm “hòa nhập xã hội”
Hòa nhập xã hội thường được hiểu một cách chung nhất là quá trình mà trong đó

cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó được xã hội tạo các điều kiện thuận lợi để tham gia một


cách tích cực vào đời sống xã hội trong sự bình đẳng với các thành viên các của xã hội.
Tuy có sự hiểu biết chung như vậy, nhưng trong thực tế nghiên cứu về sự hòa nhập xã hội
đã tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau về bản chất và nội dung của khái niệm này, đặc
biệt trong xác định nội dung các chỉ báo để nghiên cứu, đánh giá về mức độ hịa nhập xã
hội của các nhóm xã hội yếu thế. Sự nghiên cứu về hòa nhập xã hội nhằm làm rõ một số
quan điểm về bản chất nội dung của hòa nhập xã hội, các tiêu chí nhằm giúp việc đo
lường, đánh giá về mức độ hịa nhập xã hội của một số nhóm xã hội yếu thế hiện nay ở
Việt Nam.
1.2.2 Khái niệm “Các nhóm dân cư bị tổn thương”.
Khái niệm “dễ bị tổn thương” là một khái niệm mở, khó để định nghĩa chính xác
và có thể thay đổi theo ngữ cảnh. Bên cạnh đó, sự dễ bị tổn thương có thể phát sinh từ tự
nhiên và khơng thể tránh khỏi hoặc nó có thể được tạo ra và duy trì bởi sự sắp đặt của cá
nhân và/ hoặc xã hội. Hiện nay, chúng ta chưa có định nghĩa chính thức nào về khái
niệm “nhóm người dễ bị tổn thương” dù cho nó được sử dụng phổ biến trong các văn
kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu thực tiễn về quyền con người trên
thế giới. Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm này như sau: “Nhóm người dễ bị tổn thương
là “những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó
khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy,
họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”.
Theo xác định của UNESCO, nhóm yếu thế/thiệt thịi bao gồm: những
người ăn xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu niên có
hồn cảnh khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo, tù nhân, gái
mại dâm, người thất nghiệp, người lang thang cơ nhỡ. Ngoài ra còn kể đến người tị nạn,
người xin tị nạn, người bị xã hội loại trừ . Theo cách xác định này người nghèo, người
thất nghiệp cũng được coi thuộc nhóm yếu thế/ thiệt thịi.
Trong một số nghiên cứu ở Việt Nam cịn kể thêm nhóm người là nạn nhân chiến
tranh, đặc biệt nạn nhân chất độc da cam, nhóm bị bạo lực gia đình, nạn nhân bị quấy

dối và lạm dụng tình dục, nạn nhân bn bán người, các đối tượng mắc bệnh xã hội, trẻ
em bị ảnh hưởng của HIV/AIDS…Như vậy có thể nói, nhóm yếu thế (hay nhóm thiệt
thịi) là những nhóm xã hội đặc biệt, có hồn cảnh khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp
kém hơn so với với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm tương tự. Họ gặp
phải hàng loạt thách thức, ngăn cản khả năng hòa nhập của họ vào đời sống cộng đồng.
Hàng rào đó có thể liên quan đến thể chất, liên quan đến khả năng, nghề nghiệp,
hoàn cảnh sống, sự đánh giá, kỳ thị của xã hội, các vấn đề tâm lý… Hàng rào đó có thể là
vơ hình, có thể là hữu hình, ngăn cản họ tiếp cận và sử dụng các phương tiện sống thiết
yếu hay các dịch vụ xã hội cần thiết cho mọi thành viên “bình thường” của xã hội. Để
nâng cao vị thế xã hội, giảm sự thiệt thòi, họ rất cần được sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ từ
xã hội. Việc kể tên nhóm xã hội này hay nhóm xã hội khác trong danh sách của nhóm xã


hội yếu thế hịan tồn phụ thuộc vào quan điểm cũng như mục tiêu của từng nghiên cứu,
từng dự án, từng chính sách, từng phong trào cụ thể.
Theo Luật quốc tế về quyền con người, nhóm người dễ bị tổn thương bao gồm:
phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người sống chung với HIV, người di tản
hoặc người tìm kiếm nơi lánh nạn, người khơng quốc tịch, người lao động di trú, người
thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…), người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những
người bị tước tự do…Và tùy từng thời điểm, danh sách này có thể được bổ sung, bao
gồm những nhóm người có nguy cơ cao về quyền con người trong nhiều hoàn cảnh, bối
cảnh (xét trên cả phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, ở trong gia đình, nơi làm việc hoặc
ngoài xã hội.
1.2.3 Đặc điểm của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương.
Từ hàng nghìn năm qua, những người bị tổn thương luôn phải chịu nhiều
thiệt thịi. Bên cạnh đó, họ phải chịu đựng sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử ở nhiều
nơi, thậm chí ngay trong gia đình mình. Theo các nhà nghiên cứu: trên bình diện kinh tế
họ là những người những người bị gạt ra bên lề sự thay đổi kĩ thuật, nghèo, sống tạm
bợ; trên bình diện xã hội – chính trị là những người có việc làm khơng ổn định,
không được bảo hiểm xã hội đúng mức và không có tiếng nói chính trị; trên phương

diện văn hố là những người bị loại trừ khỏi kiến thức, khỏi ngưỡng cửa thông tin,
khỏi các yếu tố của xã hội hiện đại, thậm chí bị loại trừ khỏi quyền được sống theo văn
hố dân tộc… Có thể nói quan niệm về nhóm bị loại trừ đã có những lúc, ở một số quốc
gia được sử dụng với nghĩa là nhóm yếu thế, nhóm thiệt thịi hay nhóm dễ bị tổn thương.
Từ định nghĩa về nhóm người dễ bị tổn thương có thể đưa ra các đặc điểm của
nhóm như sau:
Có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn: Mặc dù luật quốc tế và quốc
gia nói rất rõ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ là nghiêm cấm nhưng trên thực tế sự phân
biệt đó vẫn tồn tại. Chúng ta đều biết rằng phụ nữ chiếm khoảng một nửa dân số thế giới
tuy nhiên chỉ từ 5-10% trong số họ có vị trí lãnh đạo. Trẻ em là đối tượng yếu đuối về
mặt thể chất do chưa phát triển hoàn thiện. Đa số trẻ em chưa có sức lao động và tài sản
riêng nên tất yếu phải lệ thuộc về kinh tế vào các thành viên trong gia đình mà trước tiên
là bố mẹ, ơng bà, anh chị. Mặc dù Luật cư trú ban hành từ năm 2006 đã quy định nghiêm
cấm lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
nhưng trong thực tế hàng chục thủ tục hành chính vẫn đang “ăn theo” hộ khẩu,
gây khó khăn và trở ngại cho cuộc sống của người dân nhập cư. Theo Điều 19 Luật thủ
đô 2012, trừ các trường hợp được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ
chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc theo hợp đồng làm việc, hợp đồng lao
động không xác định thời hạn, về về 9 ở cùng với người thân hoặc trước đây từng có hộ
khẩu trong nội thành, các trường hợp khác muốn đăng ký thường trú ở nội thành phải tạm


trú liên tục tại nội thành từ 3 năm trở lên, có nhà ở thuộc sở hữu của mình hoặc nhà thuê
ở nội thành của tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhà ở, bảo đảm điều kiện về diện
tích bình qn (theo quy định của HĐND thành phố Hà Nội) và được sự đồng ý bằng văn
bản cho đăng ký thường trú vào nhà thuê của tổ chức, cá nhân có nhà cho thuê. Như vậy,
những người muốn đến Hà Nội cư trú và lập nghiệp, những người điều chuyển công tác
không thuộc các cơ quan Nhà nước bị hạn chế về nhập cư tại Hà Nội, thậm chí được gọi
là “cơng dân hạng hai” vì khơng có hộ khẩu, gây khó khăn rất nhiều cho người dân.
Do thể chất chưa phát triển hoặc do giới tính tự nhiên: Do đặc điểm tự nhiên, phụ

nữ thường có thể chất yếu hơn nam giới. Bên cạnh đó, phụ nữ phải gánh vác chức năng
sinh nở - chức năng hàm chứa rất nhiều rủi ro về sức khỏe. Bởi những đặc điểm sinh học
về giới có thể mang lại cho phụ nữ nhiều khó khăn nên họ cần được bảo vệ sức khỏe sinh
sản; phịng chống bn bán phụ nữ, phòng chống bạo lực giới; đảm bảo sự tham gia của
phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Trẻ em là chủ thể còn non nớt cả về thể chất và tinh thần
nên trẻ em cần được bảo vệ toàn diện cả về tính mạng sức khỏe và tình cảm, đạo đức. So
với người bình thường có đầy đủ các bộ phận trên cơ thể theo cấu tạo sinh học, khả năng
nhận thức và điều chỉnh hành vi trong các quan hệ xã hội thì người khuyết tật là những
người bị khiếm khuyết (thiếu, khơng có hoặc bị mất đi) bộ phận nào đó trên cơ thể, bị suy
giảm sức khỏe khó có thể phục hồi, bị hạn chế hoặc khơng có khả năng nhận thức, tiếp
thu các tư tưởng văn hóa và giáo dục như các chủ thể thơng thường khác. Vì vậy, nếu
cùng có mặt bằng pháp lý như nhau, nhìn chung khả năng thực hiện quyền và nghĩa của
người khuyết tật sẽ hạn chế hơn đối với những đối tượng thông thường. Đây là một trong
những hệ quả kéo theo của đặc điểm khiếm khuyết. Do bị khiếm khuyết về thể chất, tâm
thần, trí tuệ hoặc giác quan mà những người khuyết tật sẽ khó khăn khi thực hiện các
công việc lao động, học tập, sinh hoạt, vui chơi giải chí, tham gia các quan hệ xã hội,
hoạt động xã hội khác kém hiệu quả hơn các đối tượng thông thường. Người từ 60 tuổi
trở lên được coi là người cao tuổi. Người cao tuổi có những thay đổi đáng kể về cả thể
chất lẫn tinh thần và cần nhận được sự quan tâm, chăm sóc phù hợp của con cháu. Trong
bối cảnh số người cao tuổi càng tăng lên hiện nay, vấn đề chăm sóc người cao tuổi cần
được gia đình và xã hội lưu tâm để tránh việc biến người cao tuổi trở thành một gánh
nặng cho xã hội. Để chăm sóc tốt cho người cao tuổi trong gia đình, chúng ta cần hiểu rõ
đặc điểm thể chất cũng như tinh thần của người già. Về thể chất, có thể thấy rõ rằng
người cao tuổi có phản ứng chậm hơn. Về vấn đề sức khỏe, người cao tuổi dễ bị mắc
bệnh hơn người trẻ, và biểu hiện bệnh thường không rõ ràng. Đây là vấn đề rất cần được
lưu ý. Vì thế, việc quan tâm, chăm sóc người cao tuổi cần được bảo vệ và nâng cao.
Có nguy cơ cao bị bỏ quên hay bị coi thường, bị vi phạm các quyền con người,
cần được bảo vệ đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác. Nước ta hiện nay vẫn tồn tại tư
tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến việc bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong gia
đình. Hoặc tư tưởng “gia trưởng” khiến cho những người đàn ơng trong gia đình mặc

nhiên cho mình có “quyền đối với vợ con” nên muốn làm gì thì làm. Ngồi ra, việc cha


mẹ thường xuyên trừng phạt, đánh đập con cái một cách dã man đôi khi cũng là do hiểu
sai ý nghĩa câu nói của cha ơng ta đã dạy “thương cho roi cho vọt”. Hiểu sai lầm trong
cách dạy dỗ và giáo dục trẻ em cũng như thiếu sự hiểu biết về pháp luật và bạo lực gia
đình từ các thành viên trong gia đình khiến phụ nữ và trẻ em có nguy cơ cao bị vi phạm
các quyền con người và cần được bảo vệ 11 đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác. Theo
một báo cáo của tổ chức UNICEF, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt Nam cần được bảo vệ
đặc biệt. Trong số đó, trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và bn bán vì mục đích tình dục; trẻ
em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị
ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và trẻ em sống trong hoàn cảnh nghèo đói.
Hồn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã, rất nhiều em phải tự bươn trải kiếm sống.
Một số em bị bắt phải lao động, còn một số khác phải lang thang trên đường phố chính
tình cảnh đó khiến các em có nguy cơ cai bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn
vào các hành vi phạm tội và mại dâm. Phụ nữ và trẻ em là những đối tượng chịu nhiều
thiệt thòi nhất trong cuộc sống. Các quyền cơ bản của phụ nữ và trẻ em không được đảm
bảo, nạn bạo lực gia đình, sự phân biệt đối xử, định kiến đối với phụ nữ diễn ra hàng
ngày nhưng họ không tự biết cách bảo vệ mình. Vì vậy, bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn
thương là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.
1.2.4 Tổng quan về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền của nhóm dễ bị
tổn thương
Nhóm người được coi là dễ bị tổn thương là nhóm mà dễ bị xâm phạm quyền nhất
bởi bản thân họ là những người yếu thế hơn những người bình thường khác. Vì vậy, cần
phải có những quy phạm pháp lý chặt chẽ giúp những cá thể trong nhóm dễ dàng
hơn trong việc tiếp cận các quyền của mình có để hưởng thụ các quyền này là điều hết
sức cần thiết. Nhóm người dễ bị tổn thương theo Luật quốc tế bao gồm: phụ nữ, trẻ
em, người khuyết tật, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh
nạn, người không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc,
tôn giáo…), người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự do, người cao

tuổi…Tùy từng đối tượng cụ thể, Luật quốc tế đã ban hành những quy phạm để bảo vệ
quyền của từng đối tượng trong nhóm dễ bị tổn thương:
- Quyền của người lao động di trú: Quan trọng nhất là Công ước quốc tế về bảo vệ các
quyền của tất cả những người lao động di trú và thành viên trong gia đình họ, thơng qua
ngày 18/12/1990, có hiệu lực từ 1/7/2003; cơng ước quốc tế về quyền của người lao động
di trú và các thành viên trong gia đình họ…; ngồi ra ILO cịn có Cơng ước số 97 về di
trú tìm việc làm (sửa đổi) năm 1949; Công ước số 143 về người lao động di trú (Các điều
khoản bổ sung năm 1975)…
- Quyền của người tị nạn (người di tản hoặc tìm nơi lánh nạn): Công ước về vị thế của
của người tị nạn 1951; Nghị định thư về vị thế của người tị nạn 1967.


- Quyền của người không quốc tịch: Công ước về vị thế của người không quốc
tịch năm 1954.
- Quyền của các nạn nhân trong chiến tranh: Các Công ước Giơnevơ bao gồm: Công ước
Giơnevơ I về bảo vệ những người bị thương, bị ốm trong các lực lượng vũ trang trên đất
liền; Công ước Giơnevơ II về bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu thuộc các
lực lượng vũ trang trên biển…
- Quyền của người bản địa: Công ước về các dân tộc và bộ lạc bản địa ở các quốc gia độc
lập 1989…
- Quyền của người bị tước tự do: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và
đối xử tàn bạo, vơ nhân đạo hay hạ nhục khác.
- Quyền của người thiểu số: Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu
số về dân tộc, chủng tộc, tơn giáo hoặc ngôn ngữ 1992.
- Quyền của người sống chung với HIV/AIDS: Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và
quyền con người 1996; Tuyên bố về “Những hành động then chốt để tiếp tục thực
hiện Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế
về dân số và phát triển” 1999, Tuyên bố chính trị và các sáng kiến và hành động tiếp theo
nhằm thực hiện các cam kết được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển
xã hội năm 2000.

- Quyền của những người đồng tính: Phong trào vận động cho các quyền của
LBGT còn mở cuộc vận động tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực, họ cũng vừa trình lên
Liên Hợp quốc một dự thảo Tuyên bố của Liên Hợp quốc về định hướng tình dục và sự
đồng giới ngày 18/12/2008.
Bên cạnh việc tìm hiểu các văn bản luật quốc tế quy định về quyền của nhóm yếu
thế, tác giả xin được trình bày quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương theo
pháp luật Việt Nam. Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng về quyền của những người
yếu thế. Bên cạnh đó, việc ghi nhận quyền của người yếu thế trong pháp luật Việt Nam có
ý nghĩa đặc biệt với những người này tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể thực hiện quyền
của mình và giúp họ có được cuộc sống tốt đẹp hơn, cụ thể: Hiến pháp 2013, Luật trẻ em
khuyết tật 2010, Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Bộ luật Lao động
2012, Bộ luật dân sự 2015 (có hiệu lực 01/01/2017); Bộ luật hình sự 2015, Luật giáo
dục 2005, Luật giao thơng đường bộ 2005, Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV-AIDS) 2006, Luật nuôi con
nuôi 2010, Luật người cao tuổi
Chẳng hạn trong Luật Hiến pháp 2013 điều 37 có ghi: < quyển Hiến pháp photo
trang 26 >


2009…
1.2.5 Thực trạng vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn
thương ở Việt Nam hiện nay
Đa số những khó khăn hay nhu cầu để để hòa nhập xã hội của người khuyết tật
đều liên quan đến học nghề và việc làm, cụ thể là khó khăn lớn nhất mà người khuyết tật
gặp phải là: “tìm việc làm”(78,8%); “Mong muốn những người xung quanh hỗ trợ, chia
sẻ, giúp đỡ khi học tập, học nghề” (91,2%); Mong muốn các tổ chức xã hội tạo điều kiện
cho những người có khiếm khuyết về bản thân được làm việc (90%). Một số nhu cầu
chiếm tỉ lệ cao như: Mong được hòa nhập, giao lưu với bạn bè, mọi người xung quanh để
tạo dựng các mối quan hệ (88.8%); Mong muốn được tham gia các chương trình hỗ trợ
người khuyết tật (85%). Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hịa nhập xã hội của người

khuyết tật là: Khó có cơ hội để kết hơn, lập gia đình (57.5%); “khơng có việc làm ổn định
để ni sống bản thân” (60%).
Mặc dù có những nỗ lực đáng kể của chính phủ trong nhằm phịng ngừa và giảm
tình trạng mua bán người, việc mua bán người vẫn tiếp diễn; thậm chí một số địa phương
còn cho biết số lượng người bị mua bán tăng hơn so với trước đây. Đã có thời gian mua
bán người được coi là một vấn đề xã hội tại khu vực biên giới với Trung Quốc và
Campuchia, nhưng trong vịng mười năm trở lại đây tình trạng này được nhận thấy ở
nhiều tỉnh trong cả nước, những nơi có nhiều trường hợp phụ nữ và trẻ em gái từ các gia
đình ở nơng thơn bị mua bán với mục đích lao động trong nước và ngồi nước, mại dâm
và lấy chồng nước ngoài sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Các tuyến thương
mại nội địa và khu vực đang trên đà phát triển, nền kinh tế tăng trưởng mạnh, và hệ thống
giao thông được cải thiện là những yếu tố giúp việc di chuyển trong nước cũng như qua
biên giới được thuận tiện. Đường biên giới khá dài tạo điều kiện cho việc qua lại thường
xuyên, và các đường bay đến phát triển mạnh cũng tạo điều kiện cho việc mua bán người
tới những điểm xa hơn trên toàn thế giới. Nhu cầu mại dâm tăng lên không chỉ dẫn đến
việc di chuyển tăng lên, mà cũng là yếu tố kích thích mua bán người.
Cuộc sống trên đường phố có nhiều nguy cơ đối với trẻ em lang thang cơ nhỡ. Các
em phải hàng ngày đối mặt với những vấn đề như thiếu ăn, bệnh tật, bị kì thị, xa lánh, bị
lạm dụng sức lao động hay thậm chí nguy hiểm hơn là bị rủ rê nghiện ngập hoặc bị xâm
hại. Nghiên cứu trên trẻ lang thang cơ nhỡ tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có đến
hơn 98% các em đã từng thử một hoặc nhiều các chất kích thích, chất gây nghiện như
rượu bia hay thuốc lá, các loại heroin hay methamphetamine (đá) hoặc các loại tân dược.
Đau lòng hơn, có tới 92,5% trẻ lang thang cơ nhỡ đã từng bị xâm hại tình dục mà thậm
chí có em cịn khơng biết mình bị xâm hại. Điều này gây những tổn thương lớn và lâu dài
cả về thể chất lẫn tinh thần. Thiếu kiến thức, thiếu thông tin để bảo vệ chính mình, khơng


nơi nương tựa, không người sẻ chia, không biết những dịch vụ trợ giúp, hầu hết các em
đều chọn giải pháp là im lặng khi bị lạm dụng hoặc xâm hại. Có những em vì mưu sinh
mà chấp nhận việc bị lạm dụng. Sử dụng chất gây nghiện cũng khiến các em có nguy cơ

mắc những bệnh nguy hiểm như viêm gan B, bệnh viêm gan C hay HIV cũng như những
tổn thương tâm lý nặng nề.
Nhiều nhóm xã hội bị tổn thương khác cũng đang sống trong tâm lý tự ti, bị tổn
thương về mặt thể chất lẫn tinh thần, thậm chí có những nhóm người cịn bị bóc lột sức
lao động, bị bôi nhọ danh dự và nhân phẩm… Ở họ ln có nhu cầu được sống, nhu cầu
cơ bản của cuộc sống về ăn, mặc, ở, học hành,… Nhà nước đã có nhiều chính sách tích
cực, hợp lý cho những nhóm người bị tổn thương giúp họ đảm bảo được mức sống cơ
bản nhưng những chính sách đó một phần khơng tới tay những nhóm người này, một
phần là do bỏ xót, thiếu xót trong q trình điều tra, xử lý…
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Vị trí của nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn
thương ở Việt Nam hiện nay.
Điều 3 Hiến pháp có ghi: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Nhà nước có vai
trị rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Bộ máy Nhà nước
từ trung ương đến địa phương cần chung tay góp sức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ
quyền và lợi ích của những người dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay.
Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ các quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Điều đó cho thấy mọi quốc gia khác
nhau, bất kỳ chế độ chính trị đều phải hướng tới mục tiêu bảo vệ các quyền tự do cơ bản
và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người dân. Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 chỉ rõ: Triết
lý con người không phải do Nhà nước ban phát mà các quyền tự do phải được Nhà nước
công nhận, tôn trọng và bảo vệ. Xuất phát từ tư tưởng Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, bảo vệ quyền con người là một nội dung căn bản trong mục tiêu của Nhà nước. Đối
với nhóm người dễ bị tổn thương, Nhà nước cịn có những cơ chế bảo vệ đặc biệt, bảo
đảm quyền bình đẳng và ưu tiên so với những đối tượng khác, theo đúng truyền thống “lá
lành đùm lá rách” tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay.
2.2 Vai trò của Nhà nước trong vấn đề hòa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị

tổn thương ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm
bị tổn thương trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.


Một trong những nội dung mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm theo
dõi, của nhiều người cả ở trong nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch
vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc gia, dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay là việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cụ thể Điều 2 ghi rõ:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức”.
Hiến pháp là Văn kiện chính trị pháp lý cơ bản nhất, thiêng liêng nhất và quan
trọng nhất, đồng thời khẳng định quyền làm chủ của Nhân dân và Nhân dân là chủ thể
trong xây dựng và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các cơ quan nhà nước do mình trực tiếp bầu ra; Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể
hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước mà ở đó các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là
thống nhất và có sự phân cơng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do
một đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước ta là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu
bằng nhà nước. Ðảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu
bằng Nhà nước và thơng qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong sạch,
vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc
phịng- an ninh, đối nội và đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ
hàng đầu của Ðảng và Nhân dân ta.
2.2.2 Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục
đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm dân cư bị tổn thương.
Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương thể hiện trước hết
qua việc tham gia, xây dựng, ban hành một hệ thống pháp luật vềbảo vệ quyền của nhóm
này.
-

Thứ nhất, Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế quan trọng về quyền
của nhóm người dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hiện tại, Nhà nước


-

đang tiếp tục nghiên cứu để có thể tham gia thêm một số văn kiện quốc tế liên
quan khác để bảo vệ quyền của nhóm này, trong đó bao gồm các công ước quốc tế
về vị thế của người tị nạn, người khơng quốc tịch, các điều ước về xóa bỏ chế độ
nơ lệ và các hình thức, thể chế tương tự như nô lệ hoặc các công ước về ngăn chặn
tình trạng bn bán người và bóc lột mại dâm. Điều đó thể hiện tư tưởng của Đảng
và Nhà nước ta trong việcchú trọng bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương.
Thứ hai, cũng xuất phát từ bản chất của dân, do dân, vì dân của nhà nước ta và sự
tương thích ở mức độ cao của hệ thống pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn
quốc tế về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, Nhà nước cần nghiên cứu và xây
dựng hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế để đảm bảo tính
xuyên suốt trong việc bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Thơng qua các
cơng cụ quyền lực của mình, Nhà nước giao trách nhiệm xây dựng pháp luật cho
một hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương để đảm bảo tạo hành lang

pháp lý phù hợp cho nhóm người dễ bị tổn thương. Với nhiệm vụ bảo vệ quyền
con người nói chung, quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương nói
riêng, Nhà nước đã giao nhiệm vụ cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có liên
quan đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật để hướng dẫn thực thi có hiệu quả,
bảo đảm quyền của nhóm yếu thế.

Có thể thấy, Nhà nước ta đã nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức,
cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Từ đó, phân quyền để các cấp
thực hiện và nâng cao hiệu quả xây dựng văn bản pháp luật – hành lang pháp lý để bảo vệ
quyền của nhóm dễ bị tổn thương.
2.2.3 Vai trò của Nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và
cung ứng các dịch vụ pháp lý để giúp những người tổn thương hòa nhập xã
hội.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nhiệm vụ
đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện pháp luật, sau đó, nhiệm
vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được xem là cầu nối giữa đưa các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Theo đó, các
cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thực
hiện chủ động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhóm dễ bị tổn thương. Xác định
những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương là nhóm đặc thù, Nhà nước đã có những quy
định cụ thể để tuyên truyền, giáo dục pháp luật quy định tại mục 2, chương II Luật phổ
biến, giáo dục pháp luật chi tiết nội dung đối với dân tộc thiểu số, vùng sâu, người khuyết
tật, nạn nhân bạo lực gia đình, những người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục…
Bên cạnh đó, Nhà nước đóng vai trị trung tâm trong việc phối hợp với các cơ
quan, tổ chức để phổ biến, phát động cung ứng các dịch vụ pháp lý dành cho nhóm dễ bị


tổn thương. Ý nghĩa xã hội của công tác trợ giúp pháp lý là Nhà nước tạo cơ hội cho
nhóm những người yếu thế trong xã hội được tiếp cận cơng lý một cách bình đẳng với

những người khác trong xã hội. Chính phủ Việt Nam từ nhiều năm nay đã tiến hành hoạt
động trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu thế trong xã hội một cách tích cực. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 41 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình. Đối tượng
thụ hưởng chính sách trợ giúp pháp lý là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và
người được trợ giúp pháp lý khác theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý sinh
sống tại: 1- Các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP; 2- Các xã nghèo
không thuộc các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP gồm xã đặc biệt khó
khăn, xã biên giới, xã an toàn khu và xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo; 3- Thơn, bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi không thuộc các
xã nghèo quy định trên.
Từ các quy định hiện hành và thực tiễn cho thấy đội ngũ tuyên truyền hỗ trợ pháp
lý từ Trung ương đến địa phương gồm: Chính phủ, Các Bộ (Bộ Tư pháp, Bộ thông tin
truyền thông….), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Hội (Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,
Hội người cao tuổi, Đoàn thanh niên…) UBND các cấp, Sở tư pháp/Phòng tư pháp/Cán
bộ tư pháp; Trung tâm hỗ trợ pháp lý trực thuộc…Ngồi ra, cịn có sự hỗ trợ của các tổ
chức kinh tế như Hội luật gia, các Văn phịng Luật, cơng ty Luật…đảm bảo tun truyền
đến những người dễ bị tổn thương đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước và hỗ
trợ pháp lý cho họ khi cần thiết.
2.3 Cơng an nhân dân trong vai trị của Nhà nước về vấn đề hòa nhập xã hội đối với
các nhóm dân cư bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, lực lượng Cơng an cần tích cực làm tốt công tác tham mưu với Đảng về vấn
đề hịa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương, đề ra các phương án, kế
hoạch, các hình thức giải quyết khó khăn, giúp đỡ các nhóm dân cư bị tổn thương.
Thứ hai, làm tốt vai trò, chức trách, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao
phó trong các vấn đề liên quan tới hịa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương
như tổ chức các buổi diễn thuyết về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong
vấn đề hịa nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương, hay tới từng nhà có người
thuộc nhóm dân cư bị tổn thương để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và giúp đỡ họ một
phần nào.

Thứ ba, chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc dân vận và thường xuyên tổ chức công
tác dân vận ở các địa bàn có nhiều nhóm người bị tổn thương, giúp họ hòa nhập xã hội,
thấy được niềm vui trong cuộc sống.


Thứ tư, làm tốt công tác nắm vững địa bàn từ cấp cơ sở để kịp thời giúp đỡ những
người bị tổn thương như giúp những người bị bão lũ bảo tồn được tính mạng và của cải,
xử lý nhanh những vụ việc liên quan tới bắt cóc trẻ em, hiếp dâm,…
Thứ năm, là lực lượng góp phần xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật, đồng thời
tuyên truyền và phổ biến tới nhân dân đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới,
hải đảo quyền của những người thuộc nhóm bị tổn thương.
Thứ sáu, lực lượng Cơng an cần phối hợp với các ban ngành, đồn thể xã hội khác để
tổ chức các cuộc vận động, các cuộc thi tìm hiểu về chính sách của Đảng và Nhà nước
trong vấn đề hòa nhập xã hội với các nhóm dân cư bị tổn thương.
KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và
vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm
bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội đối với người dễ bị tổn thương nói riêng, các tầng lớp dân cư khác nói chung
là nhiệm vụ quan trọng tiến trình xây dựng và hồn thiện nhà nước Việt Nam. Và vai trò
của Nhà nước trong vấn đề hịa nhập xã hội đối với nhóm những người bị tổn thương là
vơ cùng quan trọng. Nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế
về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên
hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với
những nhóm, cộng đồng người khác.
Thực trạng nhóm người dễ bị tổn thương và việc quy định pháp luật được thực thi
nhằm bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp cho nhóm người dễ bị tổn thương mặc dù đã gặt
hái được nhiều thành tựu nhưng trong q trình áp dụng pháp luật vẫn cịn gặp nhiều khó
khăn, việc tiếp cận đầy đủ và hịa nhập xã hội của bộ phận nhóm người dễ bị tổn thương
vẫn còn nhiều rào cản. Thực tế này đòi hỏi Nhà nước phải có sự đổi mới trong nhận thức

cũng như thực hiện pháp luật về nhóm người dễ bị tổn thương trong giai đoạn hiện nay
để thể hiện sâu sắc hơn vai trò “cầm cân nảy mực”, thay mặt nhân dân đảm bảo “cơng
bằng, bình đẳng”.
Để quyền lợi của nhóm người dễ bị tổn thương ngày càng được đảm bảo, Nhà
nước cần phải phát huy hơn nữa vai trò lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, chú trọng
quan tâm tới nhóm dân cư, cộng đồng yếu thế trong xã hội; phát triển và tạo lập nhiều
hình thức, hệ thống bảo trợ xã hội cho những người gặp khó khăn trong hịa nhập đời
sống cộng đồng. Vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh và một Việt Nam hùng cường
trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Lý luận chung nhà nước và pháp luật


Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quản lý xã hội, Đỗ Hoàng Toàn, NXB KHKT, 2000
Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y
tế, Phạm Ngọc Thanh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016
Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Hồng Chí Bảo, NXB
CTQG, 2010
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1994
Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao,
Lã Khánh Tùng (2011), Nhà xuất bản Lao động xã hội.



×