Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Ôn thi việt bắc tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.33 KB, 15 trang )

VIỆT BẮC
(Tố Hữu)
Phần một : Giới thiệu chung
1.Tác giả :
- Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng,là một trong những lá cờ đầu của thơ ca
cách mạng Việt Nam. TH là một nhà thơ chính trị, song chính trị đã đạt đến
mức độ trữ tình một cách sâu sắc. Cái tài của TH là biến những điều khô khan
nhất như lý tưởng, nghị quyết, chính sách thành những điều rất gần gũi, ngọt
ngào và dễ nhớ, dễ thuộc.
2.Xuất sứ, hoàn cảnh sáng tác :
a)Hoàn cảnh sáng tác :
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ - ne - vơ về Đơng Dương được
kí kết vào tháng 7 năm 1954, miền Bắc được giải phóng. Một trang sử mới,
một giai đoạn mới của đất nước, của cách mạng được mở ra. Tháng 10
-1954, cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở
về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt
Bắc
b)Xuất xứ:
Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên của tác giả, là tập thơ đỉnh cao của
TH, là tác phẩm xuất sắc của văn học VN thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
3. Kết cấu bài thơ:
Gồm 2 phần:
- Phần 1: tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của CM và kháng chiến ở chiến
khu Việt Bắc
- Phần 2: nói đến sự gắn bó đồn kết giữa miền xi và miền ngược trong
một viễn cảnh hịa bình tươi sáng của đất nước. Kết thúc bằng lời ca ngợi
công ơn của Chủ tịch HCM đối với Đảng và dân tộc.
4. Chủ đề:
Việt Bắc là tiếng hát ân tình, sâu nặng, thiết tha, là tấm lòng thủy chung, son
sắc giữa nhân dân VB và cán bộ miền xuôi kháng chiến, giữa miền xuôi và
miền ngược


5.Bố cục của phần I:
Gồm 3 phần:
- Phần 1: (2 khổ đầu): cảnh chia tay
- Phần 2: (12 câu tiếp theo): lời người ở lại nói với người ra đi
- Phần 3: (còn lại): nỗi lòng người ra đi
1
II.Phân tích:
1. Nhận xét khái qt:
a) Hình thức đối đáp:
- Nội dung của bài thơ đề cập đến vấn đề rất cách mạng có thời sự chính trị
lúc bấy giờ, đó là cuộc chia tay giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng


chiến về xuôi. Nhưng lại được thể hiện một cách rất trữ tình, lãng mạn. Bởi
bài thơ có kết cấu theo lối đáp giao duyên quen thuộc của ca dao, dân ca. Lời
thơ như lời của đôi lứa yêu nhau hát trong những ngày lễ hội đầu xuân. Nếu
cắt ngang phần đầu của bài thơ đặt bất cứ vào tuyển tập thơ nào thì chắc
chắn độc giả sẽ lầm tưởng đây là một bài thơ tình.
- Ở đây khơng chỉ là lời hỏi – đáp mà cịn là sự hơ ứng, đồng vọng. Lời đáp
không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra mà còn là sự tán đồng, mở
rộng làm phong phú thêm nhiều ý tính của lời hỏi. Sâu sắc hơn, qua những
đối thoại ấy chính là độc thoại tâm trạng. Nhân vật đang đắm chìm mình
trong hoài niệm ngọt ngào trong quá khứ đẹp đẽ. Bởi vậy cho nên kẻ ở người đi, lời hỏi - lời đáp có thể xem là một cách phân thân, hóa thân của
nhân vật trữ tình để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng
vọng ngân vang.
b) Cách xưng hô:
Nhà thơ sử dụng sáng tạo các đại từ xưng hơ quen thuộc “Ta- mình”,
trong đời sống bình dị của người lao động, đặc biệt là từ “mình”, thường chỉ
dùng để gọi người bạn đời yêu thương vì vậy nó gợi lên sự gắn bó, thân thiết.
Trong Tiếng Việt, “mình’’vừa để chỉ ngơi thứ nhất nhưng cũng dùng để chỉ

ngôi thứ hai. Trong bài thơ được dùng kết hợp cả hai chuyển hóa đa nghĩa
vừa là chủ thể này, vừa là đối tượng hòa nhập lại làm một “mình đi mình có
nhớ mình”.
c) Cảm hứng chủ đạo:
- Cảm hứng chủ đạo bao trùm cả bài thơ, bao trùm lên tâm trạng kẻ ở - người
đi là một nỗi nhớ da diết, mênh mang và mang nhiều sắc thái khác nhau.
Trong đoạn trích có tới ba mươi lăm từ “nhớ”, thể hiện niềm hoài niệm tha
thiết và đã làm sống dậy nghĩa tình sâu nặng với thiên nhiên và con người
VB, với kháng chiến và cuộc sống gian khổ mà hào hùng, qua hoài niệm, đã
từng bước trỗi dậy, nỗi nhớ đầy ắp cả không gian. Với người ở lại: núi rừng
nhớ, đất nhớ, cây cối nhớ, sông suối nhớ, người nhớ. Với người ra đi: nhớ mẹ,
nhớ rừng xanh hoa chuối, nhớ cô em gái, nhớ lớp học i tờ, nhớ tiếng mõ rừng
chiều, nhớ những nhà hắt hiu lau xám, nhớ bản khói cùng sương… Nỗi nhớ
đã hòa nhập kẻ ở - người đi làm một.
1. Cảnh chia tay cảm động giữa người Việt Bắc và người cán bộ
kháng chiến:
a. Không gian đưa tiễn:
+Thời điểm tiễn đưa: ta hình dung đây là đoạn cuối của cuộc tiễn đưa.
Người ở lại đến lúc phải quay về, người đi phải bước tiếp con đường của cuộc
hành trình.
+ Không gian tiễn đưa: ở chiến khu VB với cảnh đồi núi trập trùng, mênh
mơng gió núi.
b. Lời người ở lại: (Giống như những khúc hát giã bạn “Người ơi người ở
2
đừng về” trong đêm hội, người
cất tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là
người Việt Bắc)
+Tâm trạng băn khoăn: điều người ở lại băn khoăn nhất là sợ người ra đi
qn mình. Trong bốn câu thơ có tới hai câu hỏi tu từ được láy đi láy lại “mình
có nhớ ta, mình có nhớ khơng?”. Sự băn khoăn đó khơng phải là khơng có lí.



Bởi vì người ra đi là về với thủ đơ Hà Nội, về với phố cao, điện sáng, những
cám dỗ chốn thị thành, liệu người đi có cịn nhớ bản làng, cịn nhớ mảnh
trăng giữa rừng nữa hay khơng? Sự lãng qn đó, khơng phải là đã khơng
xảy ra. “Ánh trăng’’ của Nguyễn Duy một thời gắn bó đã bị bỏ qn một cách
vơ tình, lẻ loi, cơ đơn lạc lõng giữa chốn thị thành sáng trưng ánh điện. Người
tri kỉ một thời bị trở thành người qua đường xót xa:
“Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường’’
(Nguyễn Duy)
Chính vì vậy mà người ở lại đã viện dẫn cả mười lăm năm ân tình tha thiết
sâu nặng để nhắc nhở người ra đi: một ngày còn nên nghĩa huống hồ là
“mười lăm năm là năm mươi lăm ngàn ngày, chứ đâu phải ngày một ngày hai
cho nên khơng có lí do gì mình qn ta đâu nhé…’’
+ Nỗi lịng thiết tha: 15 năm có biết bao kỉ niệm ngọt ngào “thiết tha”,
“mặn nồng” mà khơng dễ gì lúc nào cũng có được trong cuộc đời. Chữ “ấy”
đã khiến thời gian 15 năm lùi dần vào miền kí ức, hồi niệm. Thời gian 15
năm được đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến khi kháng
chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi. Những dịng thơ phía sau sẽ lí giải với
chúng ta vì sao nhà thơ gọi 15 năm bằng cụm từ thiết tha, mặn nồng đầy
tình nghĩa. Bởi đó là thời gian được dệt nên từ tình u thương, từ gian khổ
thiếu thốn, từ sự chung sức chung lịng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?
Cách dùng hình ảnh gợi nhớ về khơng gian cây – núi, sông – nguồn làm cho
nỗi nhớ trở nên sâu thẳm, da diết hơn. Các cặp hình ảnh trên vừa mang ý
nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng: gợi tới không gian núi rừng Việt

Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngồi ra, nó cịn gợi lên tình cảm chung
thủy trong mối quan hệ với cội nguồn: Việt Bắc là cái nôi của cuộc kháng
chiến, nhân dân là hậu phương vững chắc của cách mạng. Người Việt Bắc hỏi
mà như nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc, đừng quên cội
nguồn cách mạng.
Câu hỏi trên nhấn vào thời gian, câu hỏi dưới nhấn vào không gian. Hai câu
hỏi đã gợi lên được một thời cách mạng, một vùng cách mạng.
c)Lời người ra đi:
+ Nhớ tiếng: trước tâm trạng lo lắng, thấp thỏm của người ở lại, người ra đi
cũng đã cất lên những lời nghẹn ngào, xúc động làm nao cả lòng người:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
- Hình ảnh có tính chất ẩn dụ rất lớn. Tiếng người đưa tiễn có sức mạnh níu
3
giữ bước chân, làm cho người
ra đi không nỡ cất bước. Mà có bước đi chăng
nữa thì ở trong cảnh ngộ “bước đi một bước giây giây lại dừng”. Nếu người ở
lại với một tâm trạng “thiết tha mặn nồng” thì người ra đi lại mang tâm trạng
“bồn chồn, bâng khuâng”.


- Từ “ai” vì thế vừa là tiếng lịng người ở lại, vừa là tiếng vọng từ tâm tưởng
của người ra đi. Sự tri âm tri kỉ đồng thanh tương ứng đã khiến họ thấu hiểu
lịng nhau hơn.
+ Nhớ hình:

“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…’’
- Câu thơ sử dụng phương thức hốn dụ quen thuộc. “Áo chàm” – trang phục
của đồng bào miền núi. Đó cũng là màu của sự sắt son, bền chặt thủy chung.

Màu áo gợi lên biết bao thương mến.
- “Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”, cơn sóng cảm xúc đang cuồn cuộn
dâng trào, không biết bắt đầu từ đâu, khơng biết làm sao để nói hết nỗi lịng
của mình với người ở lại. Câu hỏi tu từ cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ kết
hợp nhịp thơ độc đáo 3/3/2 diễn tả một nỗi niềm vô tận. Những nỗi niềm lưu
luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ cầm tay nhau
chan chứa ân tình, trong sự im lặng.
 Như vậy người ra đi kết đọng lại trong trái tim mình tiếng nói và dáng hình
thân thương của người ở lại. “nhớ ảnh nhớ hình nhớ tiếng”.
*Tiểu kết:
- Chỉ với hai khổ thơ, tác giả đã dựng lên một khung cảnh chia tay đầy bịn
rịn, lưu luyến, nhớ thương giữa người ra đi và người ở lại, cán bộ kháng chiến
rời chiến khu về xi và nhân dân Việt Bắc nghĩa tình sâu nặng.
- Cảnh chia tay ở thời hiện đại, của những người cách mạng mà ta cứ ngỡ
như là ở thời xa xưa đẹp như một bức tranh cổ điển, mang đậm sắc thái trữ
tình giống như cuộc chia tay của những lứa đơi u nhau từ vạn thủa.
- Tình nghĩa thủy chung, gắn bó giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ
kháng chiến phản ánh truyền thống đạo lí từ ngàn đời của dân tộc. Hiện thực
cách mạng được Tố Hữu phản ánh một cách chân thực, gợi cảm phù hợp với
tình cảm của dân tộc. Đó là một biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu
2. Lời người ở lại:
*Nhận xét:
+ Hàng loạt câu hỏi người ở lại đặt ra cho người ra đi dồn dập, liên tục.
Nguyên cả mười hai câu thơ là những câu hỏi nặng tình, nặng nghĩa, nặng
suy nghĩ và bộc lộ tình u thương, địi hỏi được u thương. Từng cặp câu
hỏi sánh đơi rất đa dạng. Có những câu hỏi thẳng ‘’Mình về có nhớ chiến
khu’’. Có những câu hỏi bóng, hỏi về sự trống vắng nay mai của lịng người
‘’Mình về rừng núi nhớ ai’’. Và cũng có nhiều câu hỏi xốy ‘’Mình đi mình có
nhớ mình’’
+ Kèm theo với những câu hỏi là những hình ảnh có tính chất gợi nhớ đồng

thời đó chính là sự tái hiện lại những năm tháng kháng chiến, gian khổ hào
hùng là những kỉ niệm suốt 15 năm ân tình sâu nặng.
4

a. Hỏi thẳng: (nhớ về những ngày kháng chiến gian khổ)
‘’Mình đi có nhớ những ngày’’
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù’’


+ Hình ảnh thiên nhiên: những hình ảnh nói về thiên nhiên dữ dội, khắc
nghiệt của núi rừng Việt Bắc. Chốn rừng thiêng nước độc biết bao nguy hiểm.
Hàng loạt những danh từ xuất hiện nhưng được sử dụng như những tính từ:
mưa, suối lũ, mây mù… Thiên nhiên cũng là kẻ thù nguy hiểm, đáng sợ của
con người. Đồng thời những hình ảnh thiên nhiên cũng gợi lên những khó
khăn, gian khổ khốc liệt của Cách mạng trong những ngày đầu kháng chiến,
khi ngọn lửa Cách Mạng chỉ mới nhóm lên ở chốn rừng thiêng.
“Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
+ Nhớ về những tháng mà những người cách mạng phải vượt lên chính mình
sống bằng ý chí, nghị lực, quyết trả cho được mối thù dân tộc, quyết rửa cho
sạch vết nhơ nô lệ. Câu thơ thể hiện sự tương phản đối lập giữa một bên là
thực tế cuộc sống hết sức khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ và một bên trọng
trách lớn lao “thù nhà, nợ nước”
+ Một dịng thơ có năm phụ âm “m” đi liền nhau “Miếng cơm chấm muối,
mối thù nặng vai” làm cho câu thơ như được đúc lại, diễn tả sự bền gan,
vững chí và mọi quyết tâm sắt đá, khơng gì lay chuyển phải trả được mối thù
bằng mọi giá.
b.Hỏi bóng:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”

+ “Mình về rừng núi nhớ ai”: cách nói bóng gió đầy ngụ ý. Phép nhân hóa kết
hợp nghệ thuật hốn dụ đã khiến câu thơ diễn tả được các cung bậc của nỗi
nhớ. Nỗi nhớ khơng chỉ thổn thức trong lịng người mà còn chảy tràn lên cả
cảnh vật. Làm cho cả núi rừng cũng “ngẩn ngơ’’. Trám bùi trên cây không ai
hái, rụng đầy đất không ai nhặt, măng mai để hoang phí giữa rừng sâu.
Người về đã để lại sự trống vắng trong lịng người khơng dễ gì khỏa lấp.
+ Âm điệu của câu thơ trở nên dìu dặt, tha thiết. Vần ai “ai-mai” phát huy
thế mạnh tối đa, khác với âm điệu mạnh mẽ, rắn rỏi ở những câu thơ trước
đấy. Người dân với những tấm lòng thơm thảo đã dành cho cán bộ kháng
chiến những gì ngon nhất, tốt nhất trong điều kiện mà mình có thể. Chưa
phải là cao lương mĩ vị nhưng trám bùi, măng mai là những sản vật tươi ngon
của núi rừng. Người dân Việt Bắc đã ưu ái dành riêng cho cán bộ kháng chiến
trong những ngày đói khổ, q giá biết bao.
+
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
Phong cảnh hoang sơ, hắt hiu, buồn vắng làm nao cả lịng người. Câu thơ mở
ra khơng gian rất đặc trưng của rừng núi với hình ảnh cây lau quen thuộc đã
đi vào trong thơ ca như là biểu tượng cho cảnh vật miền núi:“Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ” (Tây Tiến - Quang Dũng). “Nhà” là hình ảnh hốn dụ cho con
5
người, “hắt hiu lau xám” vừa
có nghĩa tả thực vừa mang nét tượng trưng, ẩn
dụ cho cuộc sống nghèo khổ, “đậm đà lòng son” ẩn dụ cho tình cảm trung
hậu, nghĩa tình của người Việt Bắc. Nét cao quý của người dân Việt Bắc là ở
chỗ nghèo nàn mà chân tình, rộng mở, cực khổ, son sắt, thủy chung với cách


mạng. Dù chỉ có khoai, sắn thay cơm nhưng tấm lịng son thì mãi mãi chói
ngời cũng năm tháng.

c.Hỏi xốy:
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thủơ cịn Việt Minh
+ “Nhớ núi non” ở đây được đặt trong thế đối lập với phố cao điện sáng, cửa
gương. “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” là giai đoạn mà phong trào
cách mạng đang còn trong trứng nước, còn bây giờ là lúc cất cao ca khúc
khải hoàn chiến thắng. Ngọt bùi phải nhớ lúc đắng cay, trong ánh hào quang
rực rỡ của chiến thắng hôm nay không được quên những ngày nếm mật nằm
gai trong quá khứ.
Mình đi mình có nhớ mình
+Ba chữ mình trong câu thơ này khiến câu thơ có nhiều cách hiểu. Đây chính
là một sự phân thân hàm ẩn, một lời nhắc nhở đối với chủ thể trữ tình. Nhớ
người ở lại đã đành rồi nhưng cịn phải nhớ chính cả người ra đi nữa. Biết đâu
ngay cả chính mình cũng có thể qn mình đấy. Mà quên mình tức là đã tự
đánh mất mình, là đã phản bội lại chính mình, phản bội lại quá khứ. Câu hỏi
rất sâu nặng, nghe mà giật mình. Theo đánh giá của Nguyễn Đức Quyền:
“Câu thơ đã cõng cả bài thơ”.
*Tiểu kết: Đoạn thơ thể hiện tính dân tộc đậm đà.
+ 12 dòng lục bát tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỉ niệm. Mỗi câu
hỏi đều gợi lại một cái gì đó rất tiêu biểu của Việt Bắc, của cảnh vật, và lòng
người. Nhưng nếu chỉ gợi nhiều kỉ niệm như vậy thơi thì chưa thể tạo thành
cái ma lực quyến luyến, tha thiết, tạo thành chất thơ diệu kì ở những câu
thơ. Đó chính là nhạc điệu đã làm cho các câu thơ trầm bỗng, réo rắt dội vào
tâm tư.
+ Sự lặp lại cấu trúc đều đặn ở những câu sáu đã tạo ra nhịp ru rất riêng của
đoạn thơ. Trong các câu thơ này lại có sự luân phiên, xen kẽ giữa “mình đi”
và “mình về”. Các từ “đi”, “về” vốn ngược chiều nhau trong văn cảnh này lại
đồng nghĩa với nhau, cùng chỉ về hướng xi. Một câu “mình đi” và một câu
“mình về” vừa thể hiện sự quyến luyến bịn rịn giữa người đi kẻ ở vừa tạo
thành từng cặp chao qua liệng lại vỗ vào thương nhớ không nguôi của lòng

người trong cuộc chia li.
+ Đoạn thơ vừa thể hiện những tình cảm sâu sắc thương nhớ, vừa có những
hình ảnh dân dã, cổ điển, cân đối nhịp nhàng (vì có phép tiểu đối ở câu bát)
những câu thơ ngân vang, dìu dặt như thắt, như buộc, thân thương và mới
mẻ lạ lùng. Chính vì thế mà có một âm điệu rất riêng cuốn hút lòng người.
Đấy là thành cơng của nhà thơ.
3.Nỗi lịng của người ra đi (70 câu tiếp theo)
*Nhận xét:
- Sau 12 dòng câu hỏi của người ở lại, người về đã trả lời một mạch tới bảy
6
mươi dịng. Người đi như đón
lấy từng lời, từng ý của người ở lại để đáp lại
một cách rất cặn kẽ, chi tiết, đầy đủ tất cả những băn khoăn, lo lắng của
người ở lại bằng nỗi lòng tha thiết yêu thương. Câu hỏi của người ở lại như đã
chạm đúng mạch nguồn cho cơn lũ yêu thương tuôn trào.
A.Lời khẳng định:


+ Sự gắn kết: trước hết người ra đi khẳng định một cách mạnh mẽ, chắc
chắn tình cảm của mình đối với người ở lại trước sau như một, không bao giờ
thay đổi:
Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Ta - mình, mình - ta sao mà quấn quýt, hòa quyện đến thế. Hai chữ ta - mình
đi suốt chiều dài của câu thơ sánh với nhau từng cặp một giống như từng cặp
liền anh, liền chị đang hát đối với nhau trong những ngày lễ hội đầu xuân
+Lòng thủy chung : ý nghĩa về sự chung thủy, gắn bó khơng chỉ được thể
hiện bằng sự có mặt của hai từ chỉ thời gian « sau - trước » mà hàng loạt vần
‘’inh’’ được sử dụng trong câu thơ : đó là ‘’mình’’, « đinh ninh », « tình » làm
cho âm điệu của câu thơ trở nên rắn rỏi, mạnh mẽ chứ không chùng xuống

và trải dài như những câu thơ trước đó.
 Nếu ở câu thơ trước đấy là lời hỏi xốy « mình đi mình có nhớ mình » thì ở
câu thơ này là lời đồng vọng tương xứng. Cái hay của câu thơ là vừa đáp lại
một cách đầy đủ tình ý của câu thơ trước : ta sẽ không bao giờ quên chính
bản thân ta, đồng thời lại vừa thể hiện sự hòa nhập làm một giữa người đi và
kẻ ở. Mình cũng chính là một phần đời của ta. Ý nghĩa câu thơ vì vậy mà được
nâng cao hơn rất nhiều
B.Nhớ về những kỉ niệm của cuộc sống kháng chiến :
a. Đặc điểm của nỗi nhớ : Người ra đi tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ của mình. Nỗi
nhớ Việt Bắc được so sánh với nhớ người yêu. Mà nhớ người yêu thì thật da
diết, cồn cào, thường trực. Ca dao đã miêu tả nỗi nhớ người yêu « Nhớ ai bổi
hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than ». Điều đó chứng tỏ Việt
Bắc gần gũi, thân thương biết bao. Mỗi người, mỗi cảnh, mỗi thời khắc của
Việt Bắc đã trở thành tâm hồn của người ra đi :
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
+ Phải nói rằng câu thơ đẹp như một khúc đồng quê êm đềm. Nỗi nhớ rất
ngọt ngào, thi vị như ánh trăng, như sợi nắng chiều tà -đây cũng là thời điểm
quyến rũ nhất của mỗi ngày. Nỗi nhớ quấn lấy lòng người, cảnh vật. Nỗi nhớ
có mặt ở khắp khơng gian từ đầu núi trải dài đến lưng nương.
b. Những sự vật hiện lên trong nỗi nhớ :
Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Trong câu thơ này ta như thấp thống hình ảnh câu thơ « Nhớ bản
sương giăng, nhớ đèo mây phủ’’ của Chế Lan Viên trong bài thơ ‘’Tiếng hát
con tàu’’. Nhưng sương ở đây mang một ý nghĩa khác, nó khơng cịn thể hiện
sự khắc nghiệt, dữ dội của7thiên nhiên mà thể hiện sự mờ ảo, thơ mộng của
bản làng ở VB. Bởi vì ở trong làn sương ấy cịn có những sợi khói lam chiều
được tỏa ra từ những mái nhà sàn ấm cúng, từ bếp lửa của ‘’người thương
sớm khuya đi về’’. Bếp lửa là linh hồn của cuộc sống của đồng bào miền núi,



là nơi qy quần đồn tụ của mỗi gia đình thường được đặt ở nơi trang trọng
nhất. Câu thơ gợi lên nét sinh hoạt rất đặc trưng của đồng bào vùng cao.
- Người thương gợi lên bao hoài niệm nhung nhớ. Câu thơ khơng chỉ thể hiện
tình thương mà cịn tái hiện cả tảo tần sớm – khuya của người miền núi hay
làm, cần cù, chất phác.
- Nhớ từng : điệp ngữ « nhớ từng » được lặp đi lặp lại, nỗi nhớ rất cụ thể, rất
đầy đủ, không bỏ sót bất cứ một sự vật nào, hình ảnh nào. Điều đó thể hiện
người ra đi gắn bó, thương nhớ VB tha thiết biết bao. Người ra đi không chỉ
nhớ người mà còn nhớ bản, nhớ đèo tha thiết, nhớ từng dịng sơng, từng con
suối đầy vơi, nhớ rừng nứa bờ tre nghĩa là đất cũng đã « hóa tâm hồn », cảnh
vơ tri cũng đất trở thành lịng người níu giữ.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
+ Sự sát cánh bên nhau : « mình đây » và « ta đó » nghĩa là ta và mình ln
sát cánh bên nhau, cùng vượt qua những gian nan khắc nghiệt, những đắng
cay ngọt bùi của cuộc sống kháng chiến. Đồng thời đó cịn là sự bền chặt
trong tình cảm giữa ta và mình đã được thời gian thử thách và điều đó càng
làm cho ta nhớ mình hơn.
+Sự nhường cơm sẻ áo : nhịp thơ đang là những từ « nhớ » liên hồn bỗng
dưng có sự thay đổi :
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
« Nhớ » và « thương » vốn cùng chung một trường nghĩa nhưng vẫn có
những sắc điệu riêng. Đây cũng là chỗ duy nhất trong bài thơ tác giả dùng
chữ « thương » để thay cho chữ « nhớ ». Phải chăng vì sự hi sinh của nhân
dân VB dành cho cán bộ kháng chiến thiêng liêng sâu nặng quá, sự sẻ chia
thầm lặng và cao cả. « Một miếng khi đói bằng một gói khi no ». Nhân dân
VB đã san sẻ sự sống của mình cho cán bộ kháng chiến. Tình thương ở đây

khơng dừng lại ở những người chung một nước mà đã trở thành tình thương
của những người ở chung một nhà, ruột rà máu mủ. Nhà thơ hiểu và thấm
thía hi sinh lớn lao và thầm lặng ấy của nhân dân VB « chia, sẻ, cùng’’ là
những từ ngữ rất chân thực nói về sự chịu đựng, về sự san sẻ cái đói, cái no,
cái ấm, cái lạnh, nỗi khổ của nhân dân VB với cán bộ kháng chiến trong
những ngày tháng gian lao.
+ Nhớ người mẹ lam lũ : Và đây nữa là hình ảnh khơng dễ gì quên :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Câu thơ không chỉ gợi lên sự cần cù, lam lũ của người mẹ phải « cháy
lưng », vất vả dưới cái nắng thiêu đốt mà cịn thể hiện tình mẫu tử thiêng
liêng và một tuổi thơ nghèo khổ, đáng thương thiệt thòi của những trẻ em
vùng cao thời kháng chiến. Tuổi thơ trên nương, tuổi thơ trên lưng, tuổi thơ
đầy nắng gió và mưa gào. 8
+Nhớ những ngày tháng cơ quan :
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn cang núi đèo


Cuộc kháng chiến của dân tộc đã làm cho đời sống của miền núi có nhiều
thay đổi. Bản làng có nhiều lớp học “i tờ’’. Đây là phong trào bình dân học vụ
nổi tiếng một thời khơng dễ gì lăp lại. Với phong trào này chúng ta đã nhanh
chóng xóa nạn giặc dốt. Rồi những buổi sinh hoạt của cán bộ, các cơ quan
kháng chiến tuy thiếu thốn nhưng rất nhiều nhưng vẫn rất lạc quan, yêu đời
đó là sức mạnh của tinh thần, của nghị lực gian nan mà tiếng hát át tiếng
bom.
+ Nhớ âm thanh đặc trưng của Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Ở hai câu thơ này có những âm thanh rất đặc trưng riêng của Việt Bắc:

tiếng mõ gọi trâu, và tiếng cối nước vọng suốt những đêm dài trên những
suối xa. Những âm thanh đó đã hiện lên cách sinh hoạt, cách sống rất riêng
của đồng bào miền núi. Đó là những âm thanh rất đỗi thân thương đã hằn
sâu trong kí ức người ra đi. Dấu chấm lửng ở cuối câu thể hiện một sự vang
xa của âm thanh tiếng suối và âm thanh tiếng cối trong không gian của núi
rừng.
Tiểu kết: đoạn thơ không dài nhưng đã để lại những rung động sâu xa trong
lòng người đọc về một thời gian khó mà hào hùng, oanh liệt. Giọng thơ nhẹ
nhàng lắng vào sâu tư, những hình ảnh chân thực giàu sức gợi .
B. Bức tranh tứ bình:
* Nhận xét chung:
+ Cảnh thiên nhiên núi rừng VB ở trong mười câu thơ trên thuộc đoạn thứ
năm của bài thơ. Tự nó đã có tính hồn chỉnh rất cao. Đây là một trong
những đoạn thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Là một bức tranh toàn cảnh, tiêu
biểu của VB qua bốn mùa trong năm. Bức tranh đó hiện lên thật sinh động và
ấm áp trong âm điệu nhịp nhàng êm ả đẹp và thơ mộng đến lạ thường, tha
thiết của tình yêu thương. Cảnh vật rất tươi tắn, rực rỡ nhưng cũng không
kém phần man mác, bâng khng. Bởi vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người
về xuôi, một nỗi nhớ da diết, bồn chồn trong buổi chia tay.
+ Nhà phê bình Hồi Thanh nhận định những câu thơ TH viết về thiên nhiên
VB có thể sánh với bất kỳ đoạn thơ nào trong văn học cổ điển.
+ Hai câu đầu giới thiệu khái quát, tám câu còn lại là bức tranh bốn mùa
trong năm. Mỗi mùa lại có một nét riêng biệt để nhớ giống như bức tranh tứ
bình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng khác ở chỗ cảnh trong thơ
Nguyễn Du là cảnh chung cho tất cả mọi nơi mang tính khái quát, còn cảnh
trong thơ Tố Hữu là cảnh riêng của rừng núi VB mang tính cụ thể, khơng lẫn
đi đâu được. Và mùa nào cũng gắn với cánh rừng dù màu sắc có sự thay đổi:
rừng xanh, trắng rừng, rừng phách, rừng thu.
9


a)Hai câu thơ đầu:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người


+ Hai câu thơ mang tính khái qt. Nó nói về ‘’hoa cùng người’’ ở VB.
« Hoa » là vẻ đẹp cảnh vật thiên nhiên trong bốn mùa, còn người ở đây chính
là những con người VB thân thương, những con người đã đùm bọc, cưu mang
cán bộ kháng chiến
+ Hai chữ ‘’ta về’’ được láy lại hai lần cùng trong thời điểm chia tay. Nhưng ở
câu đầu là hỏi người, câu dưới là bày tỏ lịng mình. « Hoa » và « người » ở
đây hịa quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên VB.
Mà cái đẹp của thiên nhiên VB thì khơng thể tách rời với cái đẹp của con
người. Khơng gì riêng ở hai câu đầu mà toàn bộ tám câu thơ cịn lại câu nào
cũng có hoa và người hài hịa, gắn bó.
b) Cảnh mùa đơng :
+ Nhớ thiên nhiên: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Mở đầu là bức tranh tứ bình khơng phải là cảnh mùa xn như ta vẫn
thường thấy theo quy luật của tự nhiên mà là cảnh mùa đông. Mùa đông
thường gắn với những màu lạnh lẽo của sương giá, băng tuyết ở đây chúng
ta lại thấy những gam màu ấm nóng bởi màu đỏ của hoa chuối và màu vàng
của nắng trên nền xanh của núi rừng đại ngàn. Đây là màu đỏ của hoa
chuối, cịn là màu đỏ của lí tưởng cách mạng, của niềm tin vào tương lai tất
thắng, mà chúng ta đã từng gặp trong bài thơ « Cuộc chia ly màu đỏ » của
nhà thơ quá cố Nguyễn Mĩ :
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người.
+ Nhớ người :

Nhà thơ đã đưa vào bức tranh con người thật bình dị, đáng yêu. Đó là
con người lao động cần cù, chăm chỉ. Con người được xuất hiện trong bức
tranh mùa đông này rất phù hợp với thiên nhiên, mang nét rất đặc trưng của
người dân VB « dao gài thắt lưng ». Đối với những người miền núi, chiếc dao
vừa là vũ khí tự vệ, vừa là dụng cụ để mở đường, vừa là công cụ để lao động.
Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá thể hiện đúng người, đúng cảnh. Cách
nói đảo ngữ « nắng ánh » (động từ) khác so với « ánh nắng » (danh từ) nhắm
nhấn mạnh các luồng sáng của nắng bỗng chói lên bởi sự phản quang của
lưỡi dao trên thắt lưng người Việt Bắc đi rừng khai thác lâm thổ sản. Con
người xuất hiện ở tầm cao, vị thế của con người không bị thiên nhiên lấn át
mà dường như lồng lộng giữa đèo cao với ánh nắng rực rỡ.
c)Cảnh mùa xuân :
+ Nhớ thiên nhiên :
10
« Ngày
xuân mơ nở trắng rừng »
Sang xuân, màu sắc đã có sự thay đổi. Khắp cả núi rừng là một màu
trắng tinh khôi, thanh khiết của hoa mơ, thể hiện một sức sống mãnh liệt
bừng dậy làm thay đổi cảnh quan. Tính từ ‘’trắng’’ được đảo lên đứng trước
danh từ cùng với cách nói quá cho ta thấy một màu trắng mãnh liệt, bao phủ


khắp mọi nơi, làm cho không gian trở nên vô cùng diễm lệ và thơ mộng.
Dường như cảnh ấy chỉ có trong cổ tích thần thoại của xứ sở thần tiên. Màu
trắng của hoa mơ đã đọng lại trong kí ức của nhà thơ một sự ám ảnh khôn
nguôi. Sau này trong Trường ca « Theo chân Bác’’, nhà thơ Tố Hữu lại viết :
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ’’
+Nhớ người :
Con người ở đây hiện lên không chỉ là con người chăm chỉ mà còn là con

người rất tài hoa, khéo léo, kiên nhẫn và cịn rất tỉ mỉ trong cơng việc của
mình. Từ những sự vật thơ sơ, bình thường tre, nứa đã làm nên những chiếc
nón, xinh xắn, dễ thương. Qủa là :
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
(Nguyễn Đình Thi)
d) Cảnh mùa hạ :
+ Nhớ thiên nhiên:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Mở ra cảnh mùa hè ở VB là cả một sắc vàng rực rỡ, tươi tắn của « rừng
phách » bao trùm cả không gian. Đây là một sự khác biệt của TH. Khác biệt
bởi vì trong thơ ca cổ điển sắc vàng vốn là đặc trưng cho mùa thu. Màu vàng
ở đây khơng phải có tính ước lệ mà là cảnh có thực ở VB. Phách là một loại
cây thường mọc thành rừng ở VB, nở hoa vào đầu mùa hè. Câu thơ chỉ có sáu
chữ nhưng lại thể hiện sự chuyển đổi màu sắc dữ dội và diệu kì của thiên
nhiên. Từ ‘’đổ’’ là nhãn tự của câu thơ. Sau từ ‘’đổ’’ cả cảnh rừng đang từ
màu xanh đồng loạt chuyển thành màu vàng. Chất xúc tác để tạo nên sự
chuyển đổi ấy là âm thanh của tiếng ve.
Điều đặc biệt thứ hai của mùa hè này khơng chỉ có sự chuyển đổi của
sắc màu mà cịn có cả âm thanh, bản tình ca rộn rã của những chú ve sầu
làm náo nức cả rừng núi VB xốn xang cả lòng người.
+Nhớ người :
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Hình ảnh con người ở đây hiện lên cụ thể hơn đấy là hình ảnh‘’Cơ em gái hái
măng’’. « Hái măng » khơng chỉ là hoạt động lao động bình thường mà đó là
biểu hiện của tình u thương sâu nặng. Một mình lặn lội vào rừng sâu hái
« măng mai » để về nuôi cán bộ kháng chiến. Hai vần ‘’ai’’ đi liền nhau « gái,
hái » kết hợp với hai thanh trắc sánh kề nhau đã diễn tả động tác nhanh
nhẹn, thoăn thoắt của người con gái, tạo cho ta có cảm giác dù có một mình
mà cơ cảm thấy không buồn chán. Hơn nữa người con gái dường như vừa

làm, vừa hát rất vui vẻ. Giả sử ta thay một từ tương ứng vào trong câu thơ, từ
« bẻ » hoặc từ « lấy’’thay cho từ « hái’’ thì âm điệu và nội dung biểu hiện của
11 ảnh người con gái sẽ mất đi vẻ hồn nhiên, nhí
câu thơ sẽ bị thay đổi. Hình
nhảnh và trở nên cơ đơn.
e)Cảnh mùa thu :
+Nhớ cảnh


Rừng thu trăng rọi hịa bình
- Khơng gian tràn ngập sắc vàng của ánh trăng. Câu thơ vừa cổ điển, vừa
hiện đại bởi vì mùa thu được hiện ra bởi sắc vàng của trăng. Không phải là lá
thu, trời thu, nước thu mà chọn trăng là tiêu biểu cho mùa thu vì mùa thu là
mùa trăng đẹp nhất trong năm. « Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa » (Cảnh
khuya - Hồ Chí Minh), khơng gian trăng đẹp nhất là cảnh « Trăng ngàn gió
núi ». Vầng trăng ấy cịn là biểu tượng của ước vọng, hạnh phúc về hòa bình
của ngày mai tươi sáng.
+Nhớ người :
« Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung »
- Con người xuất hiện ở đây không phải ở tư thế lao động mà đang cất lên lời
ca mặn mà sâu lắng. ‘’Ai’’ ở đây là người ở lại, là nhân dân VB thân thương.
Cung bậc của tiếng hát đó là ‘’ân tình ‘’ và ‘’thủy chung’’, khơng chỉ là tiếng
hát bình thường mà cịn là tiếng hát của sự gắn bó, u thương. Tiếng hát đó
vừa là lời của người ở lại tiễn đưa người ra đi nhưng đồng thời nó cịn là tiếng
lịng của người ra đi tự dặn mình
*Tiểu kết :
Mười dòng thơ viết về con người và cảnh vật VB có thể nói rằng đây là
đoạn thơ hay nhất của bài thơ. Mỗi mùa đều được mở đầu bằng một nỗi nhớ,
sau nỗi nhớ ấy bóng dáng thân thương của con người được hiện ra và nỗi nhớ
lại dày thêm. Nỗi nhớ lại được gắn với một không gian cụ thể của núi rừng

VB. Hoa và người cùng đan xen, hài hịa, trọn vẹn. Nếu khơng từng gắn bó
với VB, không yêu VB nồng nàn, không nhớ VB da diết thì khơng thể dựng
nên bức tranh q hương cách mạng đẹp tuyệt vời và ấm áp tình người đến
thế. Đoạn thơ vừa là lời đáp vừa là lời giãi bày của người ra đi nhớ người ở lại.
C. Sự hùng mạnh của VB trong những ngày kháng chiến (Cảnh hành
quân)
*Nhận xét chung :
Đoạn thơ thấm đẫm khơng khí huyền thoại và cảm hứng anh hùng ca.
Hình ảnh VB cũng chính là hình ảnh của cả đất nước đi vào trận đánh cuối
cùng thật hồnh tráng với hào khí ngất trời của những con người mới xuất
quân mà như đã cầm chắc phần thắng trong tay
a)Hình ảnh những con đường ở VB:
+ Hai câu thơ đầu là sự khái quát những con đường VB. Đây là những con
đường chiến dịch, con đường ra trận. Những con đường thật dũng mãnh như
đang trào lên một sức mạnh phi thường không thế lực nào ngăn cản được,
tưởng như mặt đất cùng đang chuyển động dưới bàn chân người chiến sĩ
trong cuộc hành quân từ khắp mọi nẻo đường của VB.
+ Những từ láy “đêm đêm”, “rầm rập” tả con đường giúp chúng ta hình dung
được hình ảnh đồn qn 12thật dũng mãnh. Đây là thực tế của cuộc kháng
chiến lúc bấy giờ. Ban ngày dường như tất cả bình thường, lặng yên nhưng
ban đêm trở nên sôi động, gấp gáp để chuẩn bị một cuộc tấn cơng táo bạo,
bí mật, bất ngờ làm cho kẻ thù không kịp trở tay. Câu thơ tạo dựng lại một
khơng khí anh hùng ca của thời đại


b)Hình ảnh đồn qn:
+ Hình ảnh đồn qn ở đây thật đẹp, đẹp ở đội ngũ, đẹp trong tư thế sẵn
sàng xơng trận, ở sức mạnh vơ biên và lịng quả cảm phi thường và đẹp
trong lí tưởng chiến đấu. Hai cặp từ láy ‘’trùng trùng’’, ‘’điệp điệp’’ đi liền
nhau tạo ấn tượng đồn qn thật đơng đảo như kéo dài vơ tận. Đó là sự lớn

mạnh về sức lực và số lượng của quân đội, từ lúc đội tuyên truyền giải phóng
quân thành lập chỉ có mấy chục người, bây giờ con số đã lên tới hàng vạn.
+ Đoàn qn đó cịn đẹp bởi ‘’ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan’’. Chiếc
mũ nan bình dị được làm từ tre nứa thân thuộc của quê nhà. Chiếc mũ nan
của anh Vệ quốc dân gắn bó một thời kì mà chúng ta còn kham khổ và thiếu
thốn về quân trang, quân dụng, của cái thời ‘’áo anh rách vai, quần anh có
vài mảnh vá, chân khơng giày (Chính Hữu)’’. Nó chưa phải là chiếc mũ tai
bèo của anh giải phóng quân sau này. Mặc dù vậy nhưng ‘’ánh sao đầu
súng’’ vẫn cứ sáng ngời. Đấy là ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng. Hình ảnh
này cũng làm ta liên tưởng đến hình ảnh ‘’đầu súng trăng treo’’ của nhà thơ
Chính Hữu. Đấy cũng chính là dấu ấn của thời đại hắt bóng vào thơ ca.
c)Hình ảnh đồn dân cơng:
‘’Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá mn tàn lửa bay’’
+Góp phần làm nên chiến thắng có một phần cơng sức khơng nhỏ của những
đồn dân cơng tải đạn, chở lương thực phục vụ cho tiền tuyến. Cả một rừng
hoa lửa được thắp lên trong đêm. Khơng khí của ngày hội trước giờ xuất quân
thật náo nức, sôi nổi, khẩn trương. Đây cịn là những bó đuốc được tỏa sáng
từ lịng người, của nhiệt tình u nước, của lí tưởng Cách mạng.
+ Hình ảnh ‘’mn tàn lửa bay’’ thật đẹp tạo nên khơng khí sử thi hồnh
tráng. Ta rất hay gặp trong thơ ca kháng chiến bởi nó có ý nghĩa biểu tượng
cao:
‘’Ôi kháng chiến! Mười năm qua như
ngọn lửa’’
(Tiếng hát con tàu-Chế Lan
Viên)
+ Ý của câu thơ được lấy từ cao dao “Trông cho chân cứng đá mềm’’ nhưng ý
thơ của Tố Hữu mạnh hơn rất nhiều, đá cũng phải nát dưới bàn chân dũng
mãnh của những người dân cơng. Ngợi ca sức mạnh diệu kì của con người có
thể làm được tất cả. Đấy là sức mạnh của lịng u nước, lịng căm thù sâu

sắc nhưng có lẽ lớn nhất đấy chính là sức mạnh của chính nghĩa. Hình ảnh
mang tính chất hiện đại quan niệm mới về người anh hùng. Bởi vì xưa nay
trong thơ ca, ca ngợi sức mạnh phi thường như vậy chỉ dành cho những đấng
“râu én mày ngài”, còn ở đây TH lại dành cho những người dân cơng rất đỗi
13
bình thường và nhỏ bé, nhưng
chính họ đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa’’ để
làm nên những trang sử mới cho dân tộc.
d)Hình ảnh của ánh sáng, niềm tin:


+ Hình ảnh trung tâm của câu thơ là một ánh sáng rực rỡ mãnh liệt có thể
soi rọi được cả quá khứ và tương lai. Con số “nghìn đêm” là nói về cuộc
kháng chiến ngàn ngày khơng nghỉ. Trong ngàn ngày đêm ấy, chúng ta đã
phải trải qua biết bao khó khăn, gian khổ ‘’thăm thẳm sương dày’’ của bóng
đêm nơ lệ. Và giờ đây đến giây phút mà dân tộc chờ đợi ‘’đèn pha bật sáng
như ngày mai lên’’
+ “Đèn pha” là hình ảnh có tính chất biểu tượng và lịch sử. Bởi vì trong hồn
cảnh lúc bấy giờ ta chỉ có ngọn đèn dầu leo lét, thì đèn pha là một nguồn
sáng dữ dội, mãnh liệt có thể soi chiếu khắp mọi nơi. Đó là ánh sáng của
niềm tin vào tương lai, vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có ánh sáng ấy mới có
thể xua tan được đêm dài ‘’thăm thẳm’’.
e)Niềm vui chiến thắng:
+Giọng thơ tràn ngập một niềm vui sướng, phấn khởi. Nhịp thơ nhanh, dồn
dập. Người đọc phải đọc liền một mạch, một hơi ngây ngất, sung sướng.
+ Hàng loạt điệp từ ‘’vui’’ có mặt trong mỗi câu thơ: “tin vui”, “vui từ”, “vui
lên”, “vui về” như tên bắn. Đây là những niềm vui lớn của cả dân tộc, niềm
vui ở đây không chỉ ở một nơi mà ở khắp nơi ba miền ‘’Bắc-Trung-Nam’’ : Tây
Bắc, Đồng Tháp, An Khê…
+ Những từ chỉ địa danh rất khó để tạo thành thơ nhưng bàn tay tài hoa của

TH đã thổi hồn vào những địa danh ấy để nó trở nên rất thơ, rất duyên. Niềm
vui lan tỏa trong từng câu chữ và chảy tràn cả lòng người. TH đã tái hiện lại
khơng khí náo nức, tâm trạng chờ đợi hồi hộp của cả dân tộc lúc bấy giờ
trước những tin chiến thắng.
 Chỉ bằng 12 câu thơ, Tố Hữu đã khắc hoạ được một bức tranh cả dân
tộc ra trận bằng cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh
không chỉ làm sống dậy một thời kỳ hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa
Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công “lừng lẫy Điện Biên chấn
động địa cầu” mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách
mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất
của Việt Bắc.
III. Tổng kết:
1. Giá trị nghệ thuật
- Tác giả đã sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật, biện pháp tu từ hiệu
quả như nhân hóa, so sánh, từ láy, điệp từ, đại từ nhân xưng độc đáo.
- Thể thơ lục bát quen thuộc trong thơ ca Việt Nam và pha nét chấm phá đối
đáp ca dao độc đáo, sáng tạo.
14


2. Giá trị nội dung
Việt Bắc như một bản trường ca về cuộc kháng chiến chống Pháp chông
gai, gian khổ nhưng đầy tự hào, anh dũng. Ở đó cịn là nỗi nhớ thương da
diết khôn nguôi giữa những người cách mạng và Việt Bắc, tình cảm tha
thiết, đậm sâu giữa quân và dân ta. Từng lời thơ còn thấm đượm tình yêu
nước, niềm tự hào dân tộc, tự hào non sơng gấm vóc.

15




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×