Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Sự tác động của ngân hàng trung ương độc lập với việc thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.92 KB, 36 trang )

Sự tác động của ngân hàng Trung ương độc lập ( NHTW ĐL) với việc
thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu
Tóm tắt
Bài viết này xem xét các lợi ích của lạm phát mục tiêu ở cả hai nền kinh tế đã
phát triển và mới nổi. Trong những nghiên cứu trước đây, chúng tơi khơng tìm thấy
những dấu hiệu đáng kể ở các nền kinh tế phát triển và chỉ tìm thấy những lợi ích rất
nhỏ của lạm phát mục tiêu ở nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, khi chúng tôi so sánh ảnh
hưởng của lạm phát mục tiêu dựa trên mức độ độc lập của NHTW thì nhận thấy những
nền kinh tế mới nổi sẽ nhận được những tác động lớn hơn nếu mức độ độc lập của
NHTW là thấp. Theo kết quả nghiên cứu, tính độc lập của NHTW không phải là điều
kiện tiên quyết để thực hiện thành cơng lạm phát mục tiêu. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ
cung cấp những bằng chứng cho thấy nếu NHTW có tính độc lập thấp thì việc áp dụng
cơng cụ lạm phát mục tiêu để giảm lạm phát trong nước đồng nghĩa với việc giảm thâm
hụt trong ngân sách nhà nước.

________________
* Chúng tôi chân thành cám ơn hai nhà kinh tế Ricardo D. Brito và Brianne Bystedt đã cung cấp các
dữ liệu cho bài nghiên cứu này.
** Thông tin liên lạc của tác giả: 315 Converse Hall, Amcherst College, AmherstMA 01002-5000.
Phone: (413) 542-5032. Fax: (413) 542-2090. Email:
1


1. Giới thiệu
Ngày càng có nhiều quốc gia sử dụng cơng cụ lạm phát mục tiêu như một chính
sách tiền tệ chiến lược. Xu hướng này bắt đầu vào đầu những năm 1990 ở một số nền
kinh tế phát triển. Vào khoảng giữa những năm 1990, có thêm một số quốc gia công
nghiệp và cuối những năm 1990, đầu những năm 2000, ngân hàng trung ương tại các
nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu áp dụng chính sách này. Hiện tại có 8 nền kinh tế phát
triển và 13 nền kinh tế mới nổi áp dụng chính sách này. NHTW đưa lạm phát mục tiêu
vào khn khổ chính sách tiền tệ vì nhận thức được lợi ích thực sự của nó. Với chính


sách này, mức biến động lạm phát và lạm phát sẽ thấp hơn nhưng vẫn duy trì một mức
linh hoạt đủ để phản ứng với những cú sốc kinh tế vĩ mô và vẫn đảm bảo ổn định sản
lượng của nền kinh tế. Các nền kinh tế mới nổi thì đang tìm kiếm một cái neo tỷ giá ít
biến động khi thực hiện cơ chế tỷ giá hối đối cố định.
Ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, do đó có
những nghiên cứu từ thực nghiệm để xác định ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu tới lạm
phát bình quân, biến động lạm phát, tăng trưởng bình quân và biến động tăng trưởng.
Nghiên cứu ban đầu tập trung vào các quốc gia cơng nghiệp (c.f. Ball and Sheridan,
2005) và nhìn chung đã tìm ra được một bằng chứng nhỏ chứng minh rằng IT cải thiện
được hiệu quả của kinh tế vĩ mơ. Các nghiên cứu gần đây trong đó có các nền kinh tế
mới nổi đã cho thấy những bằng chứng mạnh mẽ hơn về tác động tích cực của IT tới
chính sách kinh tế vĩ mơ (Batini and Laxton, 2007; Gonỗalves and Salles, 2008; Lin and
Ye,2009; Mishkin and Schmidt-Hebbel, 2007). Tuy nhiên, Brito and Bystedt (2010),
bằng cách sử dụng hệ thống ước tính GMM, sử dụng ước tính trái ngược với các ước
tính thường sử dụng trong Ball and Sheridan (2005), và thu được những kết quả khá
khác biệt. Nghiên cứu của họ đã cho thấy sự tác động của IT lên lạm phát bình quân,
biến động lạm phát, và biến động tăng trưởng thì khơng lớn và có bằng chứng cho thấy
sự tăng trưởng bình quân thấp hơn dưới tác động của IT. Qua khảo sát, Ball (2010) đưa
ra bằng chứng cho thấy hiệu quả của IT ở các nền kinh tế mới nổi mạnh mẽ hơn nền
kinh tế phát triển, nhưng chưa đưa ra kết luận cụ thể.
Trong bài viết này, chúng tơi cố gắng giải thích việc thiếu những bằng chứng
thuyết phục bằng cách lập luận rằng do đặc điểm các nền kinh tế mới nổi là khơng
giống nhau, việc áp dụng IT có thể cho kết quả ở quốc gia này tốt hơn so với quốc gia
2


khác. Đặc biệt, các NHTW có mức độ độc lập khác nhau sẽ dẫn đến tác động đến kinh
tế vĩ mơ khác nhau khi áp dụng IT. Do đó, khi chưa xác định được những khác biệt này
thì kết luận về tác động của IT sẽ thiếu chính xác do tính ln các nước mà IT khơng có
tác động.

Có một số quan điểm đối lập nhau về sự độc lập của NHTW làm cho chính sách
lạm phát mục tiêu hiệu quả hơn hay kém hiệu quả hơn. Một mặt cho rằng NHTWĐL là
điều kiện tiên quyết cho việc áp dụng thành cơng chính sách IT (Mishkin, 2000;2004;
Eichengreen et al., 1999; Friedman and Ưtker-Robe, 2010). Ví dụ như IT sẽ khơng có
hiệu quả trong việc đạt tới mức lạm phát thấp nếu NHTW bị chi phối bởi các chính trị
gia về việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, phát hành thêm tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách
lớn. Tương tự như vậy, sự độc lập của NHTW thấp hàm ý rằng còn những điều kiện
tiên quyết khác đã bị bỏ qua. Đó là việc xem lạm phát mục tiêu như là mục tiêu của
chính sách tiền tệ, khơng có chính sách tài khóa mạnh mẽ, khả năng hạn chế tình trạng
bị đơ la hóa, thơng tin về hệ thống ngân hàng được minh bạch, rõ ràng, hiệu quả (Batini
and Laxton, 2007; Friedman and Ötker-Robe, 2010)1. Trong trường hợp này, nếu
NHTW có tính độc lập thấp thì IT cũng sẽ kém hiệu quả (theo hiệu ứng “ điều kiện tiên
quyết”).
Tuy nhiên có những ý kiến bất đồng về những điều kiện tiên quyết này liệu thực
sự phải có để việc áp dụng IT được thành công, hay chỉ đơn thuần là một đặc điểm
mong muốn đưa vào cho phù hợp. Tất nhiên, hầu hết chúng ta sẽ đồng ý rằng bất kỳ
yếu tố nào vừa nêu trên cũng làm cho chính sách tiền tệ được thành công hơn. Hơn nữa
các tranh luận cho thấy IT có thể là cơng cụ thúc đẩy sự phát triển của những yếu tố này
(Batini and Laxton, 2007; Friedman and Ưtker-Robe, 2009; Mishkin, 1999). Do đó, IT
có thể thành cơng hơn so với việc sử dụng các chính sách tiền tệ khác (trong khi các yếu
tố này đang thiếu và đủ điều kiện để hoàn thiện). Trong trường hợp những yếu tố này
đang thiếu, NHTW của nước nào có tính độc lập thấp, thì chúng tơi có thể mong đợi
hiệu ứng lớn hơn của IT (xét trong nhóm các quốc gia có NHTW mà tính độc lập thấp).
Chúng tôi gọi đây là "hiệu ứng cải thiện" khi NHTW có tính độc lập thấp. Ngược lại,
khi có đủ các yếu tố này, IT có thể có ít tác động.
1 Chúng ta sẽ thảo luận sau về các điều kiện tiên quyết mà tính độc lập của NHTW có thể có tương quan nhưng
dường như ít thấy có quan hệ nhân quả

3



Một ví dụ khác của hiệu ứng này, nếu NHTW có tính độc lập thấp cũng hàm ý
sự tín nhiệm ngân hàng trung ương khơng cao và khơng có khả năng bảo đảm được lạm
phát kỳ vọng, thì khi sử dụng IT sẽ tạo ra được một hiệu ứng tác động lớn (Bernanke et
al.,1999; Mishkin, 1999; Svensson, 1997). Trong khi đó, nếu NHTW thực sự có uy tín
thì khơng cần sự tín nhiệm vào ngân hàng và sự bảo đảm đạt được lạm phát kỳ vọng,
những yếu tố thường đi cựng vi IT (Ball, 2010; Gonỗalvesand Salles, 2008). Mt ln
na, chúng tơi mong đợi sẽ có một hiệu ứng mạnh mẽ của IT trong các nền kinh tế nơi
mà không có NHTW độc lập.
Ảnh hưởng của NHTW có tính độc lập thấp lên hiệu quả của việc thực hiện lạm
phát mục tiêu thì phụ thuộc vào mức độ của các điều kiện tiên quyết và ảnh hưởng cải
thiện2. Bằng phân tích thực tế tác động của NHTWĐL lên hiệu quả của chế độ IT,
chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ được vấn đề tranh luận này. Lướt qua kết quả, chúng tơi
muốn khẳng định rằng khơng tìm thấy bằng chứng về những tác động tích cực của IT ở
các nền kinh tế phát triển và mới nổi nơi NHTW có tính độc lập cao. Tuy nhiên, chúng
tơi phát hiện có những ảnh hưởng tích cực lớn ở các nước đang phát triển với mức độ
độc lập của NHTW thấp. Những kết quả này đưa ra sự hoài nghi về quan điểm cho rằng
mức độ độc lập của NHTW là một điều kiện cần thiết cho hiệu quả IT. Một ý kiến trái
ngược thì cho rằng, IT chỉ có hiệu quả tại các quốc gia có NHTW khơng độc lập. Điều
này cho thấy hiệu ứng cải thiện lớn hơn hiệu ứng điều kiện tiên quyết. Hàm ý của điều
này là, các nước có nền kinh tế mới nổi khơng nên chờ đợi NHTW có sự độc lập rồi
mới thực hiện chế độ IT mà hãy áp dụng chế độ này ngay từ đầu như một chính sách
tiền tệ chiến lược.
Tiếp theo, chúng tôi đã nghiên cứu một số kênh mà qua đó sự độc lập thấp của
NHTW tại các nền kinh tế mới nổi có thể làm tăng hiệu quả của IT trong việc làm giảm
lạm phát. Đặc biệt, chúng ta xem xét một vài khía cạnh qua đó cho thấy sau khi áp dụng
IT ở các nước có NHTW ít độc lập thì có nhiều hiệu ứng cải thiện hơn so với các nước
mà NHTW có tính độc lập cao. Ví dụ, áp dụng IT có thể gia tăng mức CBI ở các nước
có CBI thấp (theo thực tế hoặc trên danh nghĩa) vì các chính trị gia sẽ trao quyền nhiều
2 Một quan điểm thứ ba trung lập cho rằng sự độc lập của NHTW và các điều kiện tiên quyết khác đã được đề

cập phần trên là quan trọng cho bất kỳ chiến lược chính sách tiền tệ thành công nào và không nên quá quan tâm
hoặc bỏ qua những yếu tố này khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu. Do đó, việc thiếu các yếu tố này không
nhất thiết phải xem xét trong khi áp dụng IT (Carare et al., 2002; IMF, 2006; Truman, 2003

4


hơn cho NHTW để đạt được cam kết lạm phát thấp (Mishkin, 1999; Batini và Laxton,
2007). Liên quan đến vấn đề này, có thể quan trọng hơn, IT có thể làm tăng tính kỷ luật
ngân sách và giảm thâm hụt ngân sách ở các nước có CBI thấp, vì việc tạo tiền để tài
trợ tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài sẽ làm hủy hoại thành quả của lạm phát mục
tiêu. IT cũng có thể dẫn đến giảm khả năng bị đơ la hóa, tăng cường hiệu quả của chính
sách tiền tệ cũng như làm cho khả năng lạm phát thấp hơn (Mishkin, 2003). IT cũng có
mối liên hệ với những cải thiện nhanh chóng trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các ngân
hàng trung ương (Batini và Laxton, 2007) và sự gia tăng trao đổi thông tin, minh bạch
và trách nhiệm giải trình (Mishkin và Schmidt-Hebbel, năm 2001).
Do sự hạn chế về dữ liệu, chúng tôi không thể xác định riêng lẻ các kênh này,
nhưng chúng tôi tìm thấy bằng chứng cho quan điểm: sự suy giảm trong thâm hụt ngân
sách là một kênh quan trọng. Đặc biệt, có một sự giảm đáng kể thâm hụt ngân sách ở
nước CBI thấp sau khi áp dụng IT, nhiều hơn so với trong nước CBI cao, và khi chúng
tôi kiểm tra vai trò của thâm hụt ngân sách theo hồi qui tiêu chuẩn thì chúng tơi khơng
cịn thấy ảnh hưởng của IT ở nước CBI thấp. Ngược lại, chúng tơi khơng tìm thấy bằng
chứng rằng khả năng bị đơ la hóa và mở rộng tài chính như là kênh quan trọng mà qua
đó CBI thấp cải thiện lạm phát.
Phần còn lại của bài viết này được tổ chức như sau: Phần 2 giới thiệu các dữ liệu
và phương trình hồi quy tiêu chuẩn mà chúng tôi sử dụng để kiểm tra tác động của IT
lên các yếu tố kinh tế vĩ mơ và vai trị của NHTWĐL. Phần 3 trình bày kết quả và kiểm
tra độ mạnh. Phần 4 phân tích các kênh tiềm năng mà thơng qua đó IT ảnh hưởng đến
lạm phát. Phần 5 kết luận.
2. Ảnh hưởng của IT và vai trò NHTWĐL:

Trong phần này, chúng tơi giới thiệu mơ hình tiêu chuẩn và các dữ liệu được sử
dụng để kiểm tra tác động của IT vào các chỉ số kinh tế vĩ mô và vai trị của NHTWĐL.
Xem xét một mơ hình hồi quy chỉ số của nền kinh tế vĩ mô - Y, Y điều chỉnh, một biến
IT giả - IT, và một số biến kiểm sốt. Mơ hình chuẩn được xác định có dạng:

5


Yi,t =

β1
+

.Yi,t-1 +

β5

β2

β3

.ITi,t +

.HIGHINFLi,t +

δt

β4

.CBIi,t +


+

αi

+

ε it

.(ITi,t * CBIi,t)

(1)

Trong đó: i: quốc gia; t: thời gian; Các biến kiểm soát bao gồm: biến đo lường mức độ
độc lập của NHTW – CBI; đo lường mối tương quan giữa IT và CBI – IT*CBI; biến giả
cho biết mức độ lạm phát cao - HIGHINFL. Mối tương quan của chỉ số IT*CBI cho
thấy tác động của IT lên kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào CBI. Giống như đã thảo luận ở
trên, CBI có thể làm cho IT tăng hoặc giảm hiệu quả phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
độ mạnh của hiệu ứng điều kiện tiên quyết với hiệu ứng cải thiện. Do đó các hệ số
tương tác khơng được xác định cụ thể. Cuối cùng,

αi

δt

: thời gian ảnh hưởng và

: sai số của từng quốc gia cụ thể.
Để thuận tiện trong việc so sánh với những kết quả trước đây và tách biệt những


thông tin được cung cấp thông qua việc đo lường tính độc lập của NHTW, chúng ta sử
dụng cùng phương trình hồi qui (ngoại trừ đối với CBI và tương quan của nó) và cùng
các bước ước lượng như nghiên cứu của Brito và Bystedt (2010). Do đó, nhóm nghiên
cứu lựa chọn hệ thống GMM được bởi Arellano và Bover (1995) và Blundell và Bond
(1998)3 để đánh giá mơ hình.
2.1 Dữ liệu
Số liệu lấy từ năm 1980 đến năm 2006. Dựa theo nghiên cứu của Brito và
Bystedt (2010), chúng tơi lấy số liệu trung bình ba năm, kết quả là một mẫu có 9 giai
đoạn. Điều này làm giảm số lượng cần kiểm tra, là bậc hai trong T, và cung cấp sự dung
hòa hợp lý giữa thời gian đủ để các biến số vĩ mô phản ứng và đủ để tách biệt ảnh
hưởng của chính sách IT với ảnh hưởng từ những sự kiện xảy ra trong quãng thời gian
3 Brito và Bystedt (2010) thảo luận về một số lợi thế của cách tiếp cận dựa trên các ước lượng độc lập được thực
hiện trong Ball và Sheridan (2005)

6


gần đó. Mẫu bao gồm tất cả các nước đã áp dụng IT trong một khoảng thời gian lấy
mẫu cũng như các nước không áp dụng IT 4. Những nước không áp dụng IT và khoảng
thời gian trước trước khi áp dụng đối với các nước thực hiện chính sách lạm phát mục
tiêu sẽ đóng vai trị kiểm sốt. Chúng tơi sử dụng cùng một nhóm các quốc gia thuộc
nền kinh tế mới nổi, bao gồm hai nhóm áp dụng IT và không áp dụng IT theo Brito và
Bystedt (2010), tương tự như mẫu trong nghiên cứu của Batini và Laxton (2007) và
Goncalves và Salles (2008). Sự khác biệt duy nhất là hai trong số các nước khơng có dữ
liệu về CBI, và vì vậy chúng tơi chỉ có 44 nền kinh tế mới nổi trong tổng số 46. Trong
phép tốn hồi quy riêng biệt, chúng tơi mở rộng mẫu và bao gồm các nền kinh tế phát
triển. Nhóm 22 nền kinh tế phát triển được lấy từ Ball (2010) 5. Do đó, tổng mẫu sẽ bao
gồm 66 quốc gia.
Dựa trên tiêu chuẩn trong bài nghiên cứu, chúng tôi xem xét các tác động của IT
trên bốn chỉ số kinh tế vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng sản lượng, độ lệch chuẩn của lạm

phát, và độ lệch chuẩn của tăng trưởng sản lượng. Việc đo lường lạm phát và tăng
trưởng sản lượng lần lượt dựa trên chỉ số giá tiêu dùng (tính gộp) và GDP thực tế (nhân
cho 100). Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của hai chỉ số trên được tính cho mỗi
khoảng thời gian ba năm. Việc sử dụng cách tính liên tục trong việc tính toán tỷ lệ thay
đổi một phần làm giảm ảnh hưởng của giá trị ngoại lai.
Ngày áp dụng IT đối với các nền kinh tế phát triển được lấy từ Ball (2010); đối
với các nền kinh tế mới nổi lấy từ Brito và Bystedt (2010) dựa trên nghiên cứu của
Batini và Laxton (2007). Biến IT giả định với giá trị bằng 1 trong suốt khoảng thời gian
ba năm, nếu một chính sách IT diễn ra trong cả ba năm của thời kỳ này, và được bằng
2/3 hoặc 1/3 nếu một chính sách IT chỉ được xây dựng trong hai năm hay một năm.
Chúng ta có thể giải thích hệ số của biến IT,

β2

, như sau: giả sử tất cả các quốc gia

là tương đương nhau, một quốc gia theo đuổi IT có (-

β2

) thì có lạm phát ít hơn so

4 Xem phụ lục danh sách các quốc gia và nguồn dữ liệu.
5 Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi không loại trừ Hy Lạp và Iceland, đã được loại trừ trong mẫu bởi vì họ đã
trải qua lạm phát hàng năm trên 20% từ 1984.

7


với quốc gia không theo đuổi IT (bỏ qua các yếu tố tương tác), hoặc có nghĩa là, nếu

một quốc gia thực hiện IT, lạm phát trung bình sẽ giảm

β2

điểm phần trăm.

Để đo lường CBI, chúng ta xem xét các chỉ số CBI của Cukierman et al. (1992),
những chỉ số này được dựa trên khía cạnh pháp lý độc lập (LEGAL) và sự thay đổi
người đứng đầu của NHTW (TURNOVER)6. Các chỉ số nói chung là có sẵn cho đến
năm 1989 cho cả hai nền kinh tế phát triển và đang phát triển và giả định mỗi thập kỷ
có giá trị bằng 1. Giá trị chạy từ 0-1, với chỉ số LEGAL cao cho thấy tính độc lập của
NHTW cao và chỉ số TURNOVER cao cho thấy tính độc lập của NHTW thấp.
Chỉ số LEGAL đã được tính cho 24 nước Mỹ Latinh và Caribbean từ năm 2002
bởi Jácome và Vázquez (2005), nghiên cứu của Jácome và Vázquez (2005) cũng thêm
vào mẫu một số quốc gia, và chỉ số này được tính từ năm 1999 với các nước phát triển
bởi Siklos (2008). Chỉ số TURNOVER đã được bổ sung thêm các dữ liệu sau năm 1990
từ Crowe và Meade (2007) và Dreher, et al.(2008).
Ba điểm đáng chú ý liên quan đến những chỉ số này là: Đầu tiên, như đã đề cập
ở trên, không phải tất cả các quốc gia áp dụng IT có CBI cao, và có sự thay đổi đáng kể
trong giá trị của biến CBI, do đó có thể được sử dụng để xác định vai trị của CBI. Thứ
hai, cách đo lường này cung cấp thêm những thơng tin về CBI ngồi cơng cụ độc lập.
Như đã được đề cập trong nghiên cứu của Batini và Laxton (2007), hầu hết các
ngân hàng trung ương đều có ít nhất một công cụ độc lập hợp pháp tại thời điểm áp
dung IT 7. Tuy nhiên, nhiều yếu tố không được đề cập trong CBI lại được phản ánh qua
việc đo lường LEGAL, bao gồm việc tự chủ của NHTW trong việc mua các cơng cụ nợ
của chính phủ, tầm quan trọng của lạm phát trên những mục tiêu khác, và giảm tỷ lệ
thất nghiệp (Batini và Laxton, 2007). Ngồi ra, việc đo lường TURNOVER cịn cung
cấp thơng tin thực tế về tính ổn định của vị trí thống đốc NHTW. Thứ ba, một vấn đề
tiềm ẩn trong việc đo lường LEGAL là luật pháp được ban hành có thể rất khác so với
6 TURNOVER được tính bằng bình quân số lần thay đổi thống đốc NHTW trong 1 thập kỷ. Ví dụ:

TURNOVER = 0,2 nghĩa là có 2 lần NHTW thay đổi người đứng đầu trong vòng 10 năm qua, bình qn 1
nhiệm kỳ là 5 năm.
7 cơng cụ độc lập có được khi các ngân hàng trung ương có tồn quyền kiểm sốt việc thiết lập các chính sách,
thường là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn, để đạt được các mục tiêu cho chính sách. Mục tiêu độc lập trong đó các
ngân hàng trung ương thiết lập các chính sách như lạm phát mục tiêu là khơng phổ biến, ngay cả trong nền kinh
tế phát triển (Debelle và Fischer, 1994

8


thực tế thực hiện. Điều này đặc biệt đúng trong các nền kinh tế mới nổi. Tương tự như
vậy, công cụ độc lập hợp pháp không bao hàm sự độc lập trên thực tế. Sự thực là, như
nghiên cứu của Cukierman, et al. (1992) chỉ rõ các chỉ số đánh giá TURNOVER là
thích hợp hơn cho nền kinh tế mới nổi so với các chỉ số đánh giá LEGAL, trong khi đối
với các nước phát triển, các các chỉ số đánh giá LEGAL là cốt lõi của CBI. Những vấn
đề này được thảo luận thêm trong phần 3 và 4.
Cuối cùng, nghiên cứu của chúng tôi bao gồm một biến giả, HIGHINFL, dùng
cho mức lạm phát trung bình cao (> 40%) trong một khoảng thời gian, mục đích của
biến giả này nhằm kiểm soát các động lực kinh tế vĩ mơ có thể khác nhau ở các nước
đang lạm phát cao (Brito và Bystedt, 2010; Batini và Laxton, 2007, IMF, 2006). Chúng
tôi cũng thử loại bỏ các quốc gia lạm phát cao ra khỏi mẫu tại mục 3.1.
2.2. Thống kê tổng hợp
Theo số liệu thống kê tổng hợp cho tất cả các quan sát, các nước phát triển, và
các nền kinh tế mới nổi được cung cấp trong Bảng 1. Thời gian mẫu từ 1980-2006,
được chia thành các giai đoạn ba năm. Có 66 quốc gia, 22 nền kinh tế phát triển, và 44
quốc gia mới nổi.
Các quốc gia phát triển chiếm 27% của tất cả các quan sát. Cả hai nền kinh tế phát triển
và mới nổi đã áp dụng một chế độ IT khoảng 13% thời gian. Các nước mới nổi có tỷ lệ
thay đổi thống đốc của NHTW cao hơn, mặc dù vậy thật đáng ngạc nhiên họ có chỉ số
LEGAL cao hơn một chút so với mức trung bình. Điều này cho thấy thực tế chỉ số

LEGAL khơng phản ánh chính xác CBI tại các nền kinh tế mới nổi, như Cukierman, et
al. (1992) chỉ ra. Nền kinh tế mới nổi có tỷ lệ lạm phát cao và tỷ lệ tăng trưởng sản
lượng cao. Họ cũng đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát như giá trị tối đa của lạm phát
cho thấy.
Bảng 2 trình bày các số liệu thống kê tổng hợp theo nhóm quốc gia (phát triển
hay mới nổi), theo chế độ tiền tệ (thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu hoặc khơng,
như được xác định bởi biến IT), và theo khoảng thời gian (trước và sau áp dụng IT).
Đối với các nước phát triển (mới nổi) khơng thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu,
thời điểm trung bình thực hiện IT ở các quốc gia phát triển (mới nổi) có áp dụng chính
sách này, 1995 (1999), được sử dụng để phân chia mẫu. Đối với các nước phát triển,
giai đoạn IT có liên quan với lạm phát thấp hơn, tốc độ tăng trưởng cao hơn, biến động
9


lạm phát thấp hơn và biến động đầu ra ổn định hơn. Tuy nhiên, cũng có sự cải thiện này
với các chính sách khơng xác định lạm phát mục tiêu, mặc dù cải thiện này nhỏ hơn
một chút. Mơ hình tương tự như trên với các nền kinh tế mới nổi, tuy nhiên cải thiện
theo thời gian cho chính sách lạm phát mục tiêu là lớn hơn cho chính sách khơng đặt ra
lạm phát mục tiêu. Ví dụ, lạm phát trung bình ở các nền kinh tế mới nổi thực hiện chính
sách lạm phát mục tiêu giảm 10%, trong khi các nền kinh tế mới nổi khơng thực hiện
chính sách lạm phát mục tiêu giảm 4%. Điều này gợi nhớ đến các kết quả trong những
nghiên cứu trước đây với nhiều ước tính khác nhau. Tuy nhiên, nhìn vào lạm phát trung
bình trước và sau khi áp dụng IT có thể gây hiểu nhầm và có thể phóng đại các tác dụng
có lợi của IT. Như đã chỉ ra bởi Brito và Bystedt (2010), các quốc gia áp dụng chính
sách lạm phát mục tiêu có lạm phát trung bình cao hơn so với các quốc gia không áp
dụng đến cuối những năm 1980, nhưng đến giữa những năm 1990, trước khi áp dụng
IT, có mức lạm phát thấp hơn so với các quốc gia khơng áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu. Mơ hình lạm phát này có thể gây ra một vấn đề với các ước tính khác nhau
dựa trên sự khác biệt về lạm phát trước và sau áp dụng IT. Cuối cùng bảng 2 chỉ ra rằng
những nền kinh tế mới nổi, nơi có lạm phát ban đầu cao hơn mức trung bình và khơng

ổn định thì có sự sụt giảm lớn hơn nhiều so với các nước phát triển.
Trong bảng 3, chúng tôi giới hạn sự quan tâm đến các nền kinh tế mới nổi và
trình bày thống kê theo chính sách tiền tệ, khoảng thời gian và mức độ của CBI đại diện
bởi TURNOVER. Cụ thể, chúng tơi trình bày các thống kê tổng hợp theo TURNOVER
ở mức trên dưới 0,26. Như đã được miêu tả trong phần kết quả, TURNOVER = 0,26
tương ứng với ngưỡng mà ảnh hưởng của IT lên lạm phát trung bình là đáng kể tại mức
ý nghĩa 10%. Đó cũng là giá trị trung bình của biến TURNOVER (với trung vị là 0,2).
Đối với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có TURNOVER thấp/CBI cao, lạm
phát trung bình giảm 11% (trung vị giảm 8%) sau khi áp dụng IT, trong khi đối với
những nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu, lạm phát trung bình giảm 8%
(trung vị giảm 4%). Với những nước theo chính sách lạm phát mục tiêu với
TURNOVER ≥ 0,26, lạm phát trung bình giảm 55% (trung vị giảm 20%), trong khi đối
với những nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu thì từ lạm phát trung bình
giảm 22% (trung vị giảm 5%). Vì vậy, các quốc gia có TURNOVER cao/CBI thấp có
sự sụt giảm trong lạm phát liên quan đến chế độ tiền tệ lớn hơn những quốc giá có CBI
10


cao. Thứ hai, nếu giữ CBI không đổi, các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu cải
thiện nhiều hơn so với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu. Thứ ba, ở
những quốc giá có CBI thấp, sự chênh lệch mức cải thiện qua thời gian giữa các nước
theo chính sách lạm phát mục tiêu và các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu
thì lớn hơn. Về yếu tố lạm phát trung bình, bằng chứng đầu tiên này đưa ra giả thuyết là
IT làm giảm lạm phát nhiều hơn ở các quốc gia có CBI thấp kể cả trong những chế độ
tiền tệ khác nhau.
Lưu ý biến thâm hụt ngân sách (deficit) có một diễn biến tương tự như biến
TURNOVER. Cụ thể, cả TURNOVER và thâm hụt ngân sách đều không đổi hoặc chỉ
tăng nhẹ đối với các quốc gia có CBI cao, khơng phụ thuộc vào việc thực hiện IT hay
không. Với các nước có CBI thấp, có sự sụt giảm trong thâm hụt ngân sách cho cả các
nước theo chính sách lạm phát mục tiêu và các nước khơng theo chính sách lạm phát

mục tiêu, nhưng mức giảm trung bình cho các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu
(từ thâm hụt 3,2% lên thặng dư 0,1%) thì lớn hơn một cách đáng kể so với mức giảm
đối với các nước không theo chính sách lạm phát mục tiêu (từ thâm hụt 1,1% lên thặng
dư 0,8%). Điều này phù hợp với giả thuyết là việc thực hiện IT thúc đẩy chính phủ ở
các quốc gia có CBI thấp tăng tính kỷ luật về tài chính, giảm nhu cầu tài trợ cho thâm
hụt ngân sách thông qua việc phát hành tiền, và giảm tỷ lệ lạm phát trung bình. Thêm
vào đó, TURNOVER sụt giảm ở các quốc gia có CBI thấp theo sau việc thực hiện IT
nhưng tăng nhẹ ở các quốc gia có CBI cao. Trong phần 4, chúng tôi đề xuất việc hạ
thấp thâm hụt ngân sách và cải thiện mức độ của CBI như là một kênh quan trọng thơng
qua đó việc thực hiện IT sẽ thành công trong việc lạm phát giảm ở các quốc gia có CBI
thấp.
Với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có TURNOVER thấp/CBI cao,
sự biến động lạm phát trung bình giảm 3% (trung vị giảm 1%) sau khi thực hiện IT,
trong khi với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu thì biến động trung
bình giảm 4% (trung vị giảm 2%). Với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có
TURNOVER ≥ 0,26, sự biến động lạm phát trung bình giảm đến mức 19% (trung vị
giảm 3%), trong khi với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu nó giảm tới
7% (trung vị giảm 2%). Với mức lạm phát trung bình, các quốc gia có TURNOVER
cao/CBI thấp trải qua sự sụt giảm mạnh hơn trong biến động lạm phát so với các nước
11


có CBI cao khơng kể áp dụng chế độ tiền tệ nào. Thứ hai, đối với các nước có
TURNOVER thấp, các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu cải thiện hơn
một chút so với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu, trong khi đối với các quốc
gia có turnover cao thì ngược lại. Vì vậy, IT có ảnh hưởng tốt hơn, liên quan tới các hệ
thống tiền tệ khác, ở các quốc gia có CBI thấp.
Đối với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có TURNOVER thấp /CBI
cao, tốc độ tăng trưởng trung bình tăng 1% (trung vị tăng 1,2%) sau khi thực hiện IT,
trong khi đối với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu thì tăng trưởng

trung bình tăng đến 1,2% (trung vị tăng 1%). Đối với các nước theo chính sách lạm
phát mục tiêu có TURNOVER ≥ 0,26, tốc độ tăng trưởng trung bình tăng tới 0,6%
(trung vị tăng 1,4%), trong khi đối với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục
tiêu trung bình tăng đến điểm 0,4% (trung vị tăng 1,4%). Vì vậy, kết quả ban đầu chỉ ra
rằng cả các quốc theo chính sách lạm phát mục tiêu và các quốc gia khơng theo chính
sách lạm phát mục tiêu đều có sự tăng lên tương tự nhau trong tốc độ tăng trưởng, và sự
cải thiện không khác biệt nhiều với các mức độ của CBI.
Cuối cùng, đối với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có TURNOVER
thấp/CBI cao, sự biến động tốc độ tăng trưởng trung bình giảm 1,3% (trung vị giảm
0,8%), trong khi với các nước khơng theo chính sách lạm phát mục tiêu trung bình giảm
1,8% (trung vị giảm 1,1%). Với các nước theo chính sách lạm phát mục tiêu có turnover
cao, sự biến động tốc độ tăng trưởng trung bình giảm 1,2% (trung vị giảm 1,6%), trong
khi với các nước không theo chính sách lạm phát mục tiêu trung bình giảm 0,5% (trung
vị giảm 0,65%). Do đó, ở các quốc gia có turnover thấp, các nước khơng theo chính
sách lạm phát mục tiêu cải thiện đôi chút so với các nước theo chính sách lạm phát mục
tiêu, trong khi đối với các nước có TURNOVER cao thì ngược lại. Vì vậy, bằng chứng
ban đầu gợi ra rằng IT tác động tốt hơn, trong mối tương quan với các chính sách khác
nhau, ở các quốc gia có CBI thấp.
Bảng 4 trình bày tương quan mẫu cho tổng mẫu, các nước phát triển và các nền
kinh tế mới nổi. IT có tương quan âm với lạm phát trung bình thấp, mức biến động lạm
phát, và sự biến động tốc độ tăng trưởng cho cả nền kinh tế phát triển và mới nổi. Nó
cũng tương quan âm với tốc độ phát triển trung bình trong tổng mẫu và các nền kinh tế
mới nổi nhưng tương quan dương đối với các nền kinh tế phát triển. Như đã được kỳ
12


vọng, tương quan với LEGAL và TURNOVER sẽ ngược nhau. Hơn nữa, lạm phát và
sự biến động của lạm phát tương quan âm với LEGAL cho cả hai nhóm, trong khi
chúng tương quan dương với TURNOVER đối với các nền kinh tế mới nổi, như đã
được dự đoán. Tuy nhiên, với các nước phát triển, tương quan lạm phát và mức biến

động của lạm phát với TURNOVER tương quan âm khác với dự đốn. Theo
Cukierman, et al. (1992), TURNOVER khơng phải là thước đo tốt cho CBI ở các nước
phát triển, trong khi LEGAL thì lại khơng phải là thước đo CBI phù hợp ở các nước
mới nổi. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần kết quả.
3. Kết quả
Bảng 5 trình bày kết quả ước lượng phương trình (1) mà khơng có CBI như một
sự so sánh với những kết quả trước đó. Tuy nhiên, chúng tơi giới hạn mẫu chỉ là các
quốc gia có dữ liệu CBI 8. Trong ước lượng GMM chuẩn của chúng tôi, chúng tôi xem
biến IT và CBI cùng với các biến phụ thuộc điều chỉnh như các biến hồi quy độc lập đã
được xác định trước đó (mặc dù khơng hồn tồn ngoại sinh). Như vậy, chúng tơi giả
sử rằng lạm phát hiện tại không ảnh hưởng đến việc thực hiện IT mặc dù lạm phát quá
khứ có thể ảnh hưởng. Trong phần 3.2, chúng tôi thử nghiệm xem biến IT và CBI là nội
sinh9. Biến giả HIGHINF được xem như là biến nội sinh trong tất cả các hồi quy.
Kết quả chỉ ra rằng IT, trong mối liên hệ với các chính sách tiền tệ khác, mức
giảm lạm phát trung bình trong tổng mẫu là 1,7%, ở các nước phát triển là 0,34%
(nhưng khơng có ý nghĩa), ở các nền kinh tế mới nổi là 2,0% (P- value = 0,11). Kết quả
cho cả các nước phát triển và các nền kinh tế mới nổi phù hợp với hầu hết các nghiên
cứu trước đây. Trong khi IT được kỳ vọng là sẽ giảm biến động của lạm phát (Cecchetti
và Ehrmann, 2002) cột 4-6 trong bảng chỉ ra rằng IT khơng có một ảnh hưởng đáng kể
nào. Kết quả cho các nền kinh tế mới nổi này phù hợp với nghiên cứu của Brito and
Bystedt (2010) nhưng không phù hợp với nghiên cứu của Lin và Ye (2009) và Batini và

8 Ví dụ, kết quả đối với các nước mới nổi rất giống với kết quả cột 5 bảng 3 và 4 trong nghiên cứu của Brito và
Bystedt (2010). Khác biệt duy nhất là có hai quốc gia trong mẫu của họ khơng có dữ liệu về TURNOVER. Hơn
nữa, những quốc gia có dữ liệu về TURNOVER khơng có đủ dữ liệu cho tồn bộ thời gian lấy mẫu, do đó mất
khác nhiều quan sát.
9 Thống kê tổng hợp trong bảng 2 cho thấy rằng những quốc gia có lạm phát cao hơn thì áp dụng IT hơn, có thể
dẫn đến khả năng tác động ngược lại, có thể có điều chỉnh. Do đó, chúng tơi xem IT như một biến xác định
(hoặc một biến nội sinh để kiểm tra độ mạnh) thay vì một biến ngoại sinh.


13


Laxton( 2007), người đã chỉ ra rằng IT làm giảm biến động lạm phát. Ảnh hưởng không
đáng kể của các nước phát triển là phù hợp với Ball (2010).
Trong bảng phía dưới, IT làm giảm tốc độ tăng trưởng trung bình trong tổng
mẫu và các nền kinh tế mới nổi nhưng làm tăng tốc độ tăng trưởng cho các nước phát
triển. Kết quả cho nền kinh tế mới nổi phù hợp với nghiên cứu của Brito và Bystedt
(2010), nhưng kết quả cho các nước phát triển tương phản với nghiên cứu của Ball
(2011), người đã tìm ra rằng khơng có ảnh hưởng đối với các nước phát triển. Cột 4-6
trong bảng chỉ ra rằng IT có tác động tiêu cực nhưng ảnh hưởng không đáng kể lên biến
động tăng trưởng của tổng mẫu (P-value = 0,14), và cho nền kinh tế mới nổi( P- value =
0,24), nhưng có tác động tích cực và ảnh hưởng khơng đáng kể đối với các nước phát
triển. Kết quả cho các nền kinh tế mới nổi giống với nghiên cứu của Brito and Bystedt
(2010) ), Batini and Laxton (2007), and Gonỗalves and Salles (2008), họ đã chỉ ra rằng
IT có tác động tiêu cực và có ảnh hưởng đáng kể. Kết quả cho các nước phát triển phù
hợp với nghiên cứu của Ball (2010), Người đã chỉ ra là có tác động tích cực nhưng
tương quan không đáng kể. Cuối cùng biến lạm phát cao HIGHINFL tương quan dương
với lạm phát trung bình, biến động lạm phát, biến động tăng trưởng nhưng tương quan
âm với tốc độ tăng trưởng. Đối với các nước phát triển, biến này được bỏ quả vì chỉ có
một nước trải qua thời kỳ với lạm phát cao.
Bảng 6 trình bày kết quả từ phương trình hồi quy (1) với biến độc lập là lạm phát
trung bình, và đã bao hàm CBI và tương tác của nó với IT. Chúng tôi cung cấp kết quả
cho tổng mẫu, các nước phát triển và các nước mới nổi, chúng tôi sử dụng LEGAL
hoặc TURNOVER như là đơn vị đo lường cho CBI. Để kiểm tra sự ảnh hưởng của IT,
chúng tôi dùng hệ số của IT và IT*CBI. Với tổng mẫu trong tính tốn (1) thì kết quả
ngụ ý rằng IT khơng có ảnh hưởng đến lạm phát trong mơi trường pháp lý độc lập. Tuy
nhiên, với tổng mẫu trong tính tốn (2), hệ số của IT*TURNOVER là tiêu cực và có ý
nghĩa, ngụ ý rằng IT có ảnh hưởng nhiều hơn trong việc giảm lạm phát ở những nước
mà có TURNOVER cao hơn. Cụ thể, ảnh hưởng của IT đến lạm phát là 36,3% chênh

lệch giữa các quốc gia có TURNOVER cao với các quốc gia có TURNOVER thấp, kể
cả bằng nhau 10. Tính tốn thêm cho thấy rằng tác động của IT là tiêu cực đáng kể
nhưng chỉ đối với các nước TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0,26, và hơi lớn hơn mức
10 Khi TURNOVER bằng 0, ảnh hưởng của IT là tích cực và hầu như đáng kể tại mức ý nghĩa 10%

14


trung bình của tổng mẫu. Dự đốn mức độ động đến lạm phát trung bình khi
TURNOVER bằng 0,26 là khoảng -3,0 tỷ lệ phần trăm điểm. Hiệu ứng này tăng khi
TURNOVER tăng đến tối đa -29,9% cho một quốc gia với TURNOVER bằng một. Do
đó, ảnh hưởng của IT lên lạm phát trung bình trong tổng mẫu phụ thuộc vào mức độ
của CBI. Hiệu ứng này là bằng chứng, tuy nhiên, chỉ khi chúng tôi sử dụng biến
TURNOVER là thước đo. Chúng tơi sẽ giải thích ngay tại sao phải như vậy trong trường hợp này.
Đối với các nước phát triển, IT khơng có một tác động đáng kể cho tất cả các giá
trị của LEGAL trong cột (3) và TURNOVER trong cột (4). Đối với nền kinh tế mới nổi
trong đặc điểm kỹ thuật (5), IT không tác động đáng kể đến lạm phát với bất kỳ giá trị
của LEGAL. Thêm vào đó, hệ số của IT*LEGAL thì khơng đáng kể, ngụ ý rằng tất cả
cân bằng, pháp lý độc lập không làm thay đổi tác động của IT đối với lạm phát. Kết quả
trong đặc điểm kỹ thuật (6), tuy nhiên, hàm ý rằng tác động của IT khác 57% ở các
nước với mức cao nhất của TURNOVER cân xứng với những nước có mức thấp nhất,
tất cả là bằng nhau (chúng tôi thảo luận về các hệ số lớn này và sự hiện diện của giá trị
ngoại lai tại Mục 3.1). Cụ thể, hiệu quả của IT là có ý nghĩa tích cực ở cấp độ 10% cho
giai đoạn với TURNOVER ít hơn hoặc bằng 0,06 (bốn quốc gia và 11 quan sát). Ngược
lại, hiệu quả là tiêu cực đáng kể ở mức 10% khi TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0,26
(25 quốc gia và 114 quan sát), là mức trung bình đối với các nền kinh tế mới nổi. Đối
với các quan sát với TURNOVER ở giữa 0,06 và 0,26 (34 quốc gia, 175 quan sát), IT
không có ảnh hưởng đáng kể. Điều này được mơ tả trong Hình 1, trong đó trình bày các
hiệu ứng biên của IT trên lạm phát trong các nền kinh tế mới nổi cho các giá trị khác
nhau của TURNOVER và khoảng tin cậy 90%.

Tóm lại, kết quả trong đặc điểm kỹ thuật (6) hàm ý rằng, IT, nhìn chung, khơng
có ảnh hưởng đáng kể khi TURNOVER ít hơn 0,26 nhưng đóng một vai trị quan trọng
trong việc giảm lạm phát liên quan đến chế độ tiền tệ cho một số lượng lớn các nền
kinh tế mới nổi vói TURNOVER trên 0,26. Quy mơ của các dự đốn tác động về lạm
phát khi TURNOVER bằng 0,26 là -4,6%. Hiệu ứng này phát triển khi TURNOVER
tăng đến tối đa là 46,6 điểm phần trăm khi TURNOVER tương đương với một.
Cuối cùng, chính các hệ số của LEGAL là không đáng kể trong cả ba mẫu.
Chính các hệ số TURNOVER có dấu hiệu dự đốn tích cực và có ý nghĩa quan trọng
trong toàn mẫu và đối với các nền kinh tế đang nổi lên, ngụ ý rằng thấp CBI có liên
15


quan với lạm phát cao hơn. Lưu ý, tuy nhiên, đối với tổng mẫu và nền kinh tế mới nổi,
các hệ số của TURNOVER và IT*TURNOVER tương đương về độ lớn nhưng có dấu
hiệu ngược lại. Điều này chỉ ra rằng IT là có thể trung hịa tác động của CBI thấp lên
lạm phát.
Như đã đề cập ở trên, chúng tơi tìm thấy bằng chứng cho thấy IT làm giảm lạm
phát liên quan đến các chế độ khác trong tổng mẫu khi chúng ta sử dụng TURNOVER
như là một biến CBI của chúng ta, nhưng không tương tự khi chúng ta sử dụng
LEGAL. LEGAL khơng có tác dụng đối với các nước phát triển, mà dường như không
được hưởng lợi từ IT. Nó cũng khơng hiệu quả cho nền kinh tế mới nổi, mặc dù có rất
nhiều lợi ích từ IT, có lẽ vì các đo lường pháp lý độc lập khơng chính xác ở các nước
mới nổi (Cukierman, et al.1992). Trong khi đó, TURNOVER có tác dụng mạnh mẽ
trong nền kinh tế mới nổi, nhưng tác động nhỏ và yếu hơn trong tổng mẫu (mặc dù vẫn
còn đáng kể). Sự sụt giảm trong tầm quan trọng và ý nghĩa với tổng mẫu có thể được
giải thích bởi thực tế rằng một số các nước phát triển có tỷ lệ TURNOVER cao hơn so
với các nước đang phát triển, nhưng vẫn khơng chịu những tác động mang lại lợi ích
của IT. Cukierman, et al. (1992) lập luận rằng biện pháp này là ít nhấn mạnh CBI đối
với các nước phát triển hơn so với các biện pháp pháp lý. Trong các tổng mẫu, hiệu quả
của TURNOVER, mặc dù yếu hơn, nhưng vẫn còn đáng kể. Lý do là các nước phát

triển có tỷ lệ TURNOVER thấp hơn trên các tác động vừa và nhỏ của IT hơn so với các
nền kinh tế mới nổi, trong khi các nền kinh tế đang nổi lên với tỷ lệ TURNOVER cao
bị giảm lớn hơn về lạm phát so với những nền kinh tế với tỷ lệ TURNOVER thấp11.
Bảng 7 trình bày kết quả từ dự tốn của phương trình (1) với biến động lạm phát
như là biến phụ thuộc. Bất kể giá trị của LEGAL hay TURNOVER, tác động của IT là
không đáng kể trong tổng mẫu và cho các nền kinh tế mới nổi. Đối với nền kinh tế phát
triển, tuy nhiên, IT làm tăng đáng kể biến động lạm phát cho LEGAL lớn hơn hoặc
bằng 0,51 (tăng nhẹ trên trung bình 0,42) (CBI). Phạm vi của các tác động dự đoán trên
biến động lạm phát khoảng từ 0,9 điểm phần trăm (LEGAL bằng 0,51) đến 3,7
(LEGAL tương đương với 1,0). Vì vậy, IT trong chỉ số CBI cao ở các nền kinh tế phát
triển dẫn đến một sự gia tăng tương đối trong biến động lạm phát so sánh với sự xuống
11 Sự giải thích này tương tự như Cukierman,et al. (1992) đã đưa ra giải thích tại sao TURNOVER có ý nghĩa
trong việc giải thích lạm phát trung bình ở các nước phát triển và cho tổng mẫu mặc dù nó khơng có ý nghĩa cho
tất cả các nước cơng nghiệp.

16


thấp chỉ số CBI của các quốc gia. Khơng có tác động trong các nền kinh tế phát triển
cho tất cả các giá trị của TURNOVER.
Bảng 8 trình bày các kết quả từ dự tốn của phương trình (1) với tốc độ tăng
trưởng trung bình như là biến phụ thuộc. Trong tổng mẫu, IT có liên quan với mức tăng
trưởng thấp hơn trong chỉ số CBI các quốc gia khi chúng ta sử dụng TURNOVER như
là biện pháp đo lường CBI. Cụ thể, IT khơng có hiệu lực cho tất cả các giá trị của
LEGAL nhưng có một ảnh hưởng tiêu cực đáng kể cho TURNOVER lớn hơn 0,21. Ở
các nền kinh tế phát triển, tác động của IT là tích cực và đáng kể cho LEGAL giữa 0,22
và 0,46, với sự tăng trưởng từ 1,5 đến 1,0 điểm phần trăm. Hiệu ứng này là không đáng
kể cho tất cả các giá trị của TURNOVER. Đối với nền kinh tế đang nổi lên, tác động
của IT là không đáng kể cho tất cả giá trị của LEGAL. Tuy nhiên, hiệu quả là đáng kể
tiêu cực đối với TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0,13. Hiệu ứng này dao động từ -0,9%

khi TURNOVER bằng 0,13 đến – 4,3 điểm phần trăm khi TURNOVER tương đương
với một. Vì vậy một số lượng lớn các nền kinh tế phát triển với CBI thấp được hưởng
mức tăng trưởng cao tương đối hơn so với các chế độ khác như là kết quả của IT, trong
khi một số lượng lớn các nền kinh tế mới nổi với chỉ số CBI thấp thì bị tăng trưởng
thấp hơn. Lưu ý rằng lạm phát danh nghĩa cao vẫn được bao gồm trong dự toán để so
sánh dễ dàng hơn so với các bài nghiên cứu trước rằng đã bao gồm biến này và bởi vì
lạm phát cao có thể tác động tăng trưởng thực tế.
Bảng 9 trình bày các kết quả từ dự tốn của phương trình (1) với sự biến động
tăng trưởng như là biến phụ thuộc. Đối với tổng mẫu, IT có một tác động nhỏ nhưng ý
nghĩa tiêu cực cho mỗi giá trị thấp của TURNOVER. Đối với nền kinh tế phát triển, IT
có tác động nhỏ nhưng có ý nghĩa tích cực đối với giá trị trung gian của LEGAL. Đối
với các nền kinh tế mới nổi, khơng có tác dụng bất kể LEGAL hay TURNOVER
3.1 Lạm phát trong nền kinh tế mới nổi (chi tiết hơn)
Các hệ số lớn của IT, TURNOVER và IT*TURNOVER trong cột (6) của Bảng
6 gợi ý rằng các quan sát lạm phát cao có thể ảnh hưởng trong việc thúc đẩy các kết
quả, mặc dù bao gồm cả lạm phát danh nghĩa cao. Trong nội dung bên dưới, chúng tôi
giới hạn sự chú ý đến TURNOVER như là một biện pháp đo lường CBI , như đã đề cập
ở phần trên, chúng tơi khơng tìm thấy bằng chứng cho thấy IT tác động đến lạm phát
bằng cách sử dụng LEGAL, một chỉ số khơng phản ánh chính xác CBI cho các nền kinh
17


tế mới nổi. Trong bảng 10, chúng tơi trình bày kết quả bỏ qua quan sát với lạm phát lớn
hơn 100% hoặc 40%. Bỏ qua lạm phát lớn hơn 100% (40%) kết quả là một sự sụt giảm
23 (56) biến quan sát. Nhìn chung, kết quả là tương tự nhưng ít đáng kể hơn so với
những báo cáo trong Bảng 5 và 6. Đặc biệt, trong cột (1), nơi chúng tơi hạn chế lạm
phát ít hơn 100%, hệ số của IT*TURNOVER là khơng đáng kể, mặc dù chúng ta vẫn
cịn tìm thấy rằng tác động tổng thể của IT là tiêu cực và đáng kể cho TURNOVER lớn
hơn hoặc bằng 0,25. Phạm vi của các tác động dự đoán về lạm phát khi TURNOVER
bằng với 0,25 là -1,4%. Tác động này phát triển khi TURNOVER tăng tối đa của -8,6%

khi TURNOVER tương đương với một.
Khi chúng tôi hạn chế lạm phát dưới 40% trong cột (2), hệ số IT* TURNOVER
lại là tiêu cực nhưng không đáng kể. Hơn nữa, tác động của IT là nhỏ và không đáng kể
cho tất cả các giá trị của TURNOVER. Điều này gợi ý rằng các quan sát lạm phát cao
đã có ảnh hưởng trong việc thúc đẩy kết quả. Điều này không gây ngạc nhiên rằng
chúng tơi tìm thấy trong tiêu chuẩn của chúng tôi sự hồi quy ảnh hưởng mạnh nhất của
IT tới các nước có CBI thấp và có tỷ lệ lạm phát cao trước khi IT thông qua. Như đã
thảo luận sau đó, những tỷ lệ lạm phát cao là rất có thể là kết quả của thâm hụt tài
chính, xảy ra trong các môi trường CBI thấp. Loại bỏ giả thiết này dẫn tới loại bỏ từ
mẫu quan sát, trong đó IT là hiệu quả nhất.
3.2 Thử nghiệm độ mạnh
Chúng tôi tiến hành một số thử nghiệm để kiểm tra sự chắc chắn của các kết quả
của chúng tôi. Bảng 6-10, chúng tôi xem IT như là định trước. Có khả năng có mối
quan hệ nhân quả đảo ngược từ hiệu suất kinh tế vĩ mô yếu như lạm phát cao đến sự
chấp nhận IT. Ngoài ra, việc bỏ qua biến có thể ảnh hưởng đến cả hiệu suất kinh tế vĩ
mô lẫn sự chấp nhận IT. Tương tự, hiệu suất kinh tế vĩ mơ có thể thay đổi CBI, hoặc
thứ ba, bỏ qua biến có thể tác động cả hai chỉ số CBI và hiệu suất kinh tế vĩ mô. Một
thử nghiệm về sự chắc chắn đầu tiên, chúng tơi ước tính lại mơ hình xem xét IT và cả
hai chỉ số IT và CBI nội sinh. Các bảng có sẵn theo yêu cầu. Đối với lạm phát trung
bình, kết quả là gần như giống hệt nhau Bảng 6. Đối với biến động lạm phát, sự khác
biệt duy nhất là đối với nền kinh tế phát triển, IT khơng có tác dụng bất kể giá trị của
LEGAL. Đối với tăng trưởng trung bình, các kết quả khác nhau trong đó IT có ảnh
hưởng tiêu cực đáng kể cho các giá trị thấp của LEGAL. Cho sự tăng trưởng biến động,
18


kết quả là hầu như giống hệt nhau. Như vậy, đối với hầu hết các phần, kết quả là rất
giống nhau dẫn tới có tính nội sinh có thể có của IT hoặc cả IT và CBI.
Thứ hai, giảm lạm phát và TURNOVER tương quan tích cực. Mặc dù chúng tôi
xem giảm lạm phát như biến hồi quy độc lập, chúng ta bỏ qua thời hạn tương tác IT*

INFLt-1 trong điểm chuẩn hồi quy. Điều này có thể gây ra một sự thiên vị giảm dự toán
hệ số IT*TURNOVER, kể từ chấp nhận IT thì có thể đưa đến hiệu quả hơn trong việc
làm giảm lạm phát khi tỷ lệ lạm phát ở mức cao (tức là hệ số của IT*INFLt-1 là tiêu
cực). Do đó chúng tơi xem IT*INFLt-1 như là một sự bổ sung biến hồi quy độc lập. Kết
quả trong hồi quy lạm phát vẫn không thay đổi.
Thứ ba, chúng ta sử dụng ngày tháng bắt đầu một cách linh hoạt cho IT từ
Goncalves và Salles (2008), hơi khác nhau từ Batini và Laxton (2007), tức là chỉ phân
loại một quốc gia trên cơ sở chấp nhận IT sau khi liệt kê đầy đủ sự phụ thuộc của các
mục tiêu khác với mục tiêu lạm phát (Mishkin, 2000). Kết quả là hầu như giống hệt
nhau. Cuối cùng, chúng tơi tìm thấy kết quả tương tự khi chúng ta loại trừ các biến giả
cho tỷ lệ lạm phát cao.
4. Các kênh trung gian
Trong phần này, chúng tôi nghiên cứu các kênh mà qua đó CBI thấp ở các nền
kinh tế mới nổi đã gia tăng tính hiệu quả của IT tương đối so với những chế độ tiền tệ
khác. Chúng tôi cũng giới hạn sự quan tâm đến lạm phát chỉ ở mức trung bình trong
phần này. Chúng tơi cho rằng CBI thấp hàm ý rằng có những yếu tố nào đó làm cho
chính sách tiền tệ hiệu quả hơn đã bị bỏ qua. Bởi vì việc áp dụng IT có thể thúc đẩy sự
phát triển của một số các yếu tố này (Batini và Laxton, 2007, Friedman và Ötker-Robe,
2009; Mishkin, 1999), giúp chúng có nhiều cải thiện hơn trong mơi trường CBI thấp. Vì
vậy, IT có thể có tác động lớn hơn khi CBI thấp được xem là một kết quả từ hiệu ứng
cải thiện.12
Trước tiên, IT có thể thúc đẩy CBI trở nên tốt hơn. Đặc biệt, bằng cách nhấn
mạnh khả năng của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát lạm phát trong dài hạn
12 Hầu hết các kênh chúng tơi xem xét ở đây có thể trực tiếp bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng IT và mức độ của
CBI. Tuy nhiên, cần lưu ý, có kênh sẽ khơng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi IT. Ví dụ, nếu CBI ảnh hưởng đến biến
X, đó là không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi IT nhưng làm cho IT hiệu quả hơn trong việc giảm lạm phát, do đó X
vẫn là một kênh mà thơng qua đó CBI làm thay đổi hiệu quả IT. Ngược lại, nếu IT làm giảm lạm phát thông qua
các biến Y nhưng CBI khơng có ảnh hưởng lên Y, trong khi đó Y là một kênh mà thơng qua đó IT làm giảm lạm
phát, nó khơng phải là một kênh thơng qua đó CBI giúp IT hiệu quả, đó cũng là trọng tâm của bài nghiên cứu
này.


19


và khơng có khả năng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng dài hạn, IT có thể giảm áp lực
chính trị lên các ngân hàng trung ương để theo đuổi chính sách mở rộng (Mishkin,
1999). Như vậy, IT có thể làm giảm sự phụ thuộc của ngân hàng trung ương - central
bank governor turnover. Tương tự như vậy, trong một số trường hợp, legal autonomyluật tự trị đã được công nhận khi IT được áp dụng đồng thời (Batini và Laxton, 2007).
Ví dụ, ở nhiều nước áp dụng IT đã thơng qua đạo luật cho các ngân hàng trung ương có
thẩm quyền tự thiết lập lãi suất (Freedman, và Ötker-Robe, 2010). Chúng tôi cho rằng
phạm vi cải thiện CBI sẽ lớn hơn khi CBI ban đầu là thấp, CBI thấp có thể cho phép IT
có tác động lớn hơn lên hiệu quả của chính sách tiền tệ - monetary policy performance.
Thật vậy, theo kết quả từ thống kê tổng hợp trong bảng 3, TURNOVER trung bình
giảm từ 0,47 xuống 0,39 ở các nước có CBI thấp và áp dụng IT, trong khi đó khơng có
thay đổi lớn ở các quốc gia cịn lại. Mơ hình hồi qui của chúng tơi đã tính tốn cho kênh
này thơng qua biến thể hiện sự tương tác IT*CBI. Tuy nhiên, chúng tôi không thể tách
biệt ảnh hưởng của kênh này để xác định độ lớn của nó.
Thứ hai, cũng giống như CBI, là tầm quan trọng của kỷ luật tài chính, góp phần vào độ
tin cậy của bất kỳ khn khổ chính sách tiền tệ nào, do sẽ giảm việc tài trợ thâm hụt
ngân sách bằng cách tạo thêm tiền. Một lần nữa, IT có thể đem đến tác động tích cực
trong lĩnh vực này, cùng với sự hỗ trợ cho sự vững mạnh tài khóa bởi vì sự mâu thuẫn
giữa mục tiêu lạm phát thấp và tài khóa thiếu tính kỷ luật (IMF, 2006). Tương tự như
vậy, liên quan đến việc các chính phủ thiết lập các tỷ lệ lạm phát có thể giúp chính sách
tài khóa thắt chặt hơn (Mishkin, 2000). CBI thấp có thể cung cấp một mơi trường để tài
chính cơng có thể vượt khỏi sự kiểm sốt vì nó dễ dàng dựa vào việc tạo tiền hơn. Một
lần nữa, lợi ích của IT dường như lớn hơn đáng kể khi CBI là thấp. Quan điểm này
được hỗ trợ bởi thống kê tổng hợp từ bảng 3, những nước có CBI thấp trải qua sự giảm
mạnh trong thâm hụt ngân sách của họ sau khi áp dụng IT. Khi chúng tôi hồi qui thâm
hụt ngân sách (% của GDP) với chính nó và với IT, hệ số của IT*TURNOVER trở nên
nhỏ hơn và không đáng kể.(p-giá trị = 0,34). Điều này cho thấy rằng thâm hụt ngân

sách thấp hơn là một kênh mà thơng qua đó IT có khả năng làm giảm lạm phát tốt hơn ở
các nước có CBI thấp.
Thứ ba, khả năng đơ la hóa gia tăng sẽ làm thay đổi việc truyền tải chính sách
tiền tệ và tạo ra những khó khăn trong việc thực hiện IT (Mishkin, 2003). Cụ thể như,
20


việc giảm lãi suất nhằm để kích thích tổng cầu có thể có tác dụng ngược lại nếu nó làm
giảm tỷ giá hối đối. Cả IT và CBI có thể ảnh hưởng đến mức độ đơ la hóa vì độ tin cậy
của chính sách tiền tệ có thể làm giảm nhu cầu tài trợ bằng các khoản vay đô la (IMF,
2006). Vì vậy, trong phạm vi CBI thấp sẽ làm gia tăng khả năng đơ la hóa, từ đó khi áp
dụng IT có thể dẫn đến khả năng đơ la hóa bị giảm lớn hơn. Để quản lý khả năng đơ la
hóa, chúng tơi đã tính tiền gửi ngoại tệ như một phần của tổng số tiền gửi trong hệ
thống ngân hàng trong nước. Hệ số tương quan giữa biến này với TURNOVER là 0,14,
cho thấy một liên kết giữa hai biến. Tuy nhiên, kết quả của biến này và tương tác giữa
nó với IT khơng làm thay đổi kết quả, cho thấy rằng đây không phải là một kênh thơng
qua đó CBI ảnh hưởng đến hiệu quả của IT.
Thứ tư, thị trường tài chính khơng hồn thiện ảnh hưởng đến sự thành công của
IT bằng cách hạn chế khả năng của ngân hàng trung ương tác động đến lãi suất do phải
đối mặt với hộ gia đình và cơng ty (IMF, 2006). Vì lý do này, trong một số trường hợp,
việc thực hiện IT phải được đi kèm với các qui định thận trọng và những giám sát đến
sự lành mạnh của mạnh hệ thống tài chính. Về mức độ của những cải cách tài chính thì
thường xảy ra nhiều hơn ở các quốc gia có IT, IT có thể thành công nhiều hơn so với
các chế độ khác, đặc biệt là khi hệ thống tài chính ban đầu chưa phát triển. Hơn nữa,
CBI lớn hơn có thể thúc đẩy phát triển hệ thống tài chính bằng cách duy trì lạm phát
thấp và ổn định. Chúng tơi sử dụng tỷ lệ giữa tổng giá trị giao dịch các cổ phiếu (tương
quan với TURNOVER = -0,13) với tổng giá trị vốn hóa thị trường của cổ phiếu (như
một phần của GDP) (tương quan với TURNOVER = -0,17) để kiểm soát sự phát triển
hệ thống tài chính. Một lần nữa, các kết quả vẫn không thay đổi, cho thấy rằng đây
không phải là một kênh mà thơng qua đó, CBI ảnh hưởng đến hiệu quả của IT.

Thứ năm, CBI thấp có thể hàm ý sự tín nhiệm đối với ngân hàng trung ương là
yếu kém và lạm phát kỳ vọng sẽ không được giữ ổn định, điều này cho thấy rằng IT có
thể có một tác động lớn (Bernanke et al, 1999;. Mishkin, 1999; Svensson, 1997), nếu
một ngân hàng trung ương đã có đủ độ tin cậy, nó có thể khơng yêu cầu thêm độ tin cậy
và đảm bảo đạt được lạm phát kỳ vọng khi đã áp dụng với IT (Ball, 2010; Goncalves và
Salles, 2008). Một lần nữa, chúng tôi mong đợi vào một hiệu ứng mạnh mẽ của IT ở
các nước mà khơng có các ngân hàng trung ương độc lập. Chúng tôi sử dụng lạm phát
điều chỉnh để tính tốn mức độ tin cậy của ngân hàng và lạm phát kỳ vọng. Vì vậy, để
21


kiểm sốt kênh trung gian này, chúng tơi tính IT*INFLt-1. Như nêu tại mục 3.2, kết quả
gần như giống hệt nhau sau khi bao gồm biến này. Điều này cho thấy rằng đây khơng
phải là một kênh thơng qua đó CBI ảnh hưởng đến hiệu quả của IT, mặc dù làm lạm
phát điều chỉnh có thể là một đo lường khơng hồn hảo cho sự tín nhiệm về ngân hàng
trung ương và lạm phát mong đợi.
4.1 Các kênh tiềm năng khác
Có một số các kênh tiềm năng mà chúng ta không thể định lượng do thiếu dữ
liệu. Lưu ý rằng chúng tơi đã xem xét cẩn thận liệu CBI có thực sự có một ảnh hưởng
quan hệ nhân quả với các biến này để mà CBI ảnh hưởng đến hiệu quả của IT thông
qua các kênh cụ thể này. Trong trường hợp đó, việc khơng bao gồm các biến này trong
mơ hình hồi quy sẽ khơng bỏ qua thiên vị thay đổi, chúng tơi chỉ đơn thuần là khơng có
khả năng định lượng riêng độ lớn của các kênh đặc biệt này. Ngược lại, trong trường
hợp CBI tương quan với các biến này, khơng có gì là đặc biệt khi CBI thấp. Nếu các
biến này làm thay đổi hiệu quả của IT, việc loại trừ những biến này sẽ dẫn đến bỏ qua
thiên vị trong ước tính IT*CBI.
Đầu tiên, có bằng chứng cho rằng IT có một sự liên kết với những cải tiến nhanh
chóng trong kỹ thuật cơ sở hạ tầng, trong đó đề cập đến khả năng của ngân hàng trung
ương đưa ra dự báo cũng như việc có sẵn các dữ liệu (Batini và Laxton, 2007) 13 Một lần
nữa, IT do đó có thể có hiệu quả hơn khi cơ sở hạ tầng ban đầu không phù hợp. Mở rộng

hơn, chúng tôi xem xét mối tương quan giữa CBI với một cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu, với
mong đợi một tác động lớn hơn của IT ở các nước có CBI thấp, ngay cả khi mối quan hệ
nhân quả với kênh này có thể khơng tồn tại. Thật khơng may, chúng tơi khơng có dữ liệu
về kỹ thuật cơ sở hạ tầng để kiểm soát mối tương quan này.
Thứ hai, có quan điểm cho rằng IT sẽ cải thiện thông tin liên lạc của ngân hàng
trung ương, minh bạch, và có trách nhiệm giải trình hơn (Mishkin và Schmidt-Hebbel,
năm 2001) và có thể có tác động lớn hơn khi những yếu tố này khơng có từ lúc đầu. Tất
nhiên CBI có thể tương quan với các đặc điểm này. Một lần nữa, hạn chế dữ liệu ngăn
cản chúng tơi kiểm sốt các mối tương quan tiềm năng. Tuy nhiên, một lý luận cho rằng
có thể CBI thấp có thể làm suy yếu những yếu tố này, đặc biệt là trách nhiệm và do đó,

13 Ví dụ, ngân hàng trung ương phải có khả năng dự báo và mơ hình lạm phát.

22


điều này có thể thực sự là một kênh trung gian để CBI thấp tác động lên sự cải thiện
hiệu quả của IT.
Cuối cùng, có một số điều kiện kinh tế đã được lập luận là có ảnh hưởng đến
thành công của IT (Batini và Laxton, 2007). Chúng bao gồm mức độ mở cửa thương
mại, bãi bỏ hoàn toàn về giá, và độ nhạy thấp đối với giá cả hàng hóa và tỷ giá hối đối
(IMF, 2006). Tuy nhiên, khơng chắc rằng IT có thể tác động tới các biến này. Tương tự
vậy, CBI cũng khơng chắc có tác động. Tuy nhiên, nếu CBI có tương quan với các yếu
tố này, chúng ta có thể nhầm lẫn về ảnh hưởng của chúng lên hiệu quả của IT với CBI.
Chúng tôi chỉ có thể có được dữ liệu về mức độ mở cửa thương mại (hệ số tương quan
đơn giản giữa thương mại/GDP và TURNOVER là -0,09). Khi chúng tôi kiểm sốt
thương mại/GDP và tương tác của nó với IT, chúng ta tìm thấy kết quả rất giống nhau,
cho thấy rằng mức độ độc lập của các ngân hàng trung ương không chịu sự tác động
của mức độ mở cửa thương mại.
5. Kết luận

Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi trong nghiên cứu này là để mở rộng việc phân tích
những lợi ích của IT. Nghiên cứu gần đây có xu hướng tìm thêm bằng chứng mới hơn
liên quan đến những nền kinh tế có IT thấp hơn mức lạm phát, mặc dù kết quả không
phải là kết luận. Chúng tôi đã thêm vào lý thuyết bằng cách phân tích vai trò của CBI
tác động lên mức độ hiệu quả của IT ở các nền kinh tế mới nổi. Về lý thuyết, ảnh
hưởng của CBI là không rõ ràng. CBI thấp có thể tăng cường tác động của IT như là
một kết quả của hiệu ứng cải thiện, tức là IT có thể mang lại tình hình tài chính tốt hơn
hoặc những thay đổi về tổ chức ở quốc gia có CBI thấp, cải thiện đáng kể những điều
kiện kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nếu CBI lại là điều kiện tiên quyết cho thành công IT
hoặc thúc đẩy các điều kiện tiên quyết khác, thì CBI thấp sẽ hạn chế tác động có lợi của
IT. Chúng tơi tìm thấy lợi ích lớn hơn của IT ở các nước có CBI thấp nhưng khơng có
tác dụng đáng kể ở các quốc gia có CBI cao, điều này cho thấy tác dụng cải thiện đáng
kể hơn. Kết quả của chúng tôi cũng cung cấp phần nào một lời giải thích cho tác động
ẩn của IT được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đó mà khơng phân biệt các tác động
của IT dựa trên CBI.
Thứ hai, chúng tôi cố gắng xác định các kênh mà qua đó IT làm giảm lạm phát ở
các quốc gia có CBI thấp. Chúng tơi tìm thấy bằng chứng cho rằng IT có hiệu quả bằng
23


cách thúc đẩy kỷ luật tài chính và tăng cường mức độ độc lập của các ngân hàng trung
ương, đã có nhiều cải thiện hơn ở các quốc gia có CBI thấp.
Bảng 1: Tóm tắ t thố ng kê.

Ghi chú:
1. Trừ khi có ghi chú khác, tất cả các dữ liệu được tính trung bình trong giai đoạn 3 năm. Tỷ lệ
tăng trưởng được thể hiện dưới dạng phần trăm. Giai đoạn mẫu là từ năm 1980 đến năm 2006.
2. Định nghĩa: IT = lạm phát mục tiêu giả. LEGAL = đo lường tính pháp lý của CBI (một số
mỗi thập kỷ với con số cao hơn cho thấy độc lập hơn), TURNOVER = số thay đổi trung bình
trong các thống đốc ngân hàng trung ương mỗi năm trong mỗi thập niên (một số mỗi thập kỷ

với con số cao hơn cho thấy nhỏ hơn CBI).

24


Bảng 2: Tóm tắt thơng tin thống kê theo loại hình quốc gia(phát triể n với các nề n kinh tế mới
nổi) và chế độ tiền tệ.

Hai quốc gia: Phần Lan và Tây Ban Nha đã từ bỏ chính sách lạm phát mục tiêu từ khi họ sử
dụng đồng tiền chung Châu Âu năm 1999.

25


×