Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tài liệu Tiểu luận " Vai trò của Ngân hàng Trung ương" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.11 KB, 23 trang )

Tiểu luận " Vai trò của Ngân hàng
Trung ương"
MỤC LỤC
Phần I. Đặt vấn đề
1.1. Lý do nghiên cứu
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Phần II. Cơ sở lý luận về ngân hàng trung ương.
Phần III. Vai trò của ngân hàng trung ương.
Phần IV. Kết luận.
Phần I. Đặt vấn đề.
1.1. Lý do nghiên cứu.
Nếu như trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường nói chung là tiền đề của quá
trình sản xuất kinh doanh thì trong nền kinh tế thị trường giai đoạn phát triển cao
của của kinh tế hàng hóa, tiền tệ - vốn ngày càng trở nên quan trọng. Cùng với sự
phát triển cao của nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính cũng đang ngày càng
sôi động, kinh tế phát triển kéo theo nhu cầu thường xuyên và to lớn về nguồn tài
chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
xã hội. Hay nói một cách khác thì sự phát triển của kinh tế thị trường là xuất hiện
các chủ thể cần nguồn tài chính. Chủ thể trước tiên là các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, Nhà Nước, các hộ gia đình… Kinh tế ngày càng phát triển thì
quan hệ cung cầu nguồn tài chính lại càng tăng, các hoạt động về mua bán các giấy
tờ có giá cũng phát triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu
nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính.
Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế của nước ta đã đang hội nhập cùng
với kinh tế thế giới: hàng hóa lưu thông theo sân chơi quốc tế, nền kinh tế mở cửa
co nhiều sự đầu tư từ nước ngoài vào trong nước cùng với đó là sự biến động của
thị trường tài chính thế giới gây ra những ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước,
đặt ra biết bao nhiêu thử thách làm thế nào để chúng ta ổn định, phát triển “hội
nhập nhưng không hòa tan”? Để đất nước phát triển, tài chính ổn định thì vai trò
của ngân hàng trung ương rất quan trọng. Chính vì vậy, tôi lựa chọn chuyên đề:
“tìm hiểu vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương trong giai đoạn


hiện nay”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận về ngân hàng trung ương.
• Tìm hiểu vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương thể hiện như thế
nào để trả lời cho câu hỏi:
1) Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương là gì?
2) Vai trò đó được thể hiện như thế nào?
• Đánh giá về vai trò của ngân hàng nhà nước Việt Nam và các biện phát
kiến nghị giúp phát triển và nâng cao vai trò của ngân hàng trung ương
Việt Nam
Phần II. Cơ sở lý luận về ngân hàng trung ương.
2.1. Khái quát quá trình ra đời của ngân hàng trung ương
Quá trình hình thành ngân hàng trung ương ở các nước khác nhau ; là một quá
trình lâu dài và thường là đa dạng. Đó là do ở mỗi nước có những điều kiện, đặc
thù về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội. tuy nhiên về mặt tổng quan, chúng ta có
thể khái quát quá trình ra đời của ngân hàng trung ương qua 2 giai đoạn:
 Giai đoạn 1: Giai đoạn ra đời ngân hàng phát hành độc quyền.
Từ cuối thế kỷ 17 trở về trước, hoạt động ngân hàng mang 2 đặc trưng lớn:
Các ngân hàng hoạt động độc lập, chưa tạo ra một hệ thống, không ràng phụ
thuộc lẫn nhau.
Mỗi ngân hàng đều có chức năng hoạt động gần giống như nhau, đó là: nhận
ký thác, cho vay, chiết khấu thương phiếu, phát hành giấy bạc vào lưu thông và
thực hiện các dịch vụ tiền tệ như đổi tiền, chuyển ngân, thanh toán…
Đến thế kỷ 18, do sản xuất phát triển, lưu thông hàng hoá được mở rộng cả
về quy mô lẫn phạm vi, đòi hỏi lưu thông tín dụng cũng phải có phạm vi rộng để
đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Muốn vậy, kỳ hiếu
ngân hàng phát hành ra phải có uy tín. Thế là diễn ra quá trình cạnh tranh giữa các
ngân hàng về nghiệp phát hành tiền. Bên cạnh đó, Nhà nước của các quốc gia cũng
nhận ra rằng, việc có nhiều ngân hàng cùng thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền
trong một nền kinh tế dễ làm cho lưu thông tiền tệ hỗn loạn, cản trở quá trình phát

triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Lúc này, Nhà nước của các quốc gia bắt
đầu can thiệp vào hoạt động ngân hàng, bằng cách ban hành các đạo luật, mà theo
đó, chỉ cho phép một số ngân hàng thoả mãn được những tiêu chuẩn quy định
được phát hành tiền vào lưu thông. Kết quả của các quá trình cạnh tranh giữa các
ngân hàng về nghiệp vụ phát hành tiền và sự can thiệp của Nhà nước làm cho các
ngân hàng được chia làm 2 loại:
• Ngân hàng trung gian: Là loại ngân hàng không được phép phát hành giấy bạc
ngân hàng, mà chỉ được phép giao dịch với công chúng, thực hành kinh doanh
tiền tệ thuần tuý.
• Ngân hàng phát hành: Đây là các ngân hàng lớn, có uy tín, tài chính vững mạnh,
được phéơ phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông. Ngân hàng phát hành
giảm dần và đi đến không được thực hiện các nghiệp vụ và chức năng vốn có
của ngân hàng thương mại. Tức là không giao dịch với công chúng, mà chỉ giao
dịch với các ngân hàng trung gian.
Nói chung, dọc theo các thời điểm từ giữa thế kỷ 18 đến thế kỷ 19- đầu thế
kỷ 20, ở hầu hết các nước, các chính phủ đều lần lượt giới hạn của các ngân hàng
về một số ít ngân hàng và cuối cùng là chỉ về một ngân hàng.
 Giai đoạn 2: Giai đoạn ngân hàng phát hành độc quyền thành ngân hàng
trung ương.
Việc phát hành giấy bạc ngân hàng đã tập trung vào một ngân hàng duy nhất
– ngân hàng phát hành độc quyền, nhưng ngân hàng phát hành độc quyền vẫn
thuộc sở hữu tư nhân. Điều này thực sự nguy hiểm, vì không có gì đảm bảo rằng
những tư nhân này sẽ không đưa ra những chính sách có hại cho quốc gia, cho nền
kinh tế khi mà quyền lợi cá nhân của họ bị đe doạ hoặc là mâu thuẫn với lợi ích từ
quốc gia. Nói một cách khác, việc ngân hàng phát hành độc quyền vẫn thuộc sở
hữu tư nhân sẽ không cho phép nhà nước có thể can thiệp một cách thường xuyên
và kịp thời vào hoạt động kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã để lại nhiều bài học quý
giá về vấn đề phát hành tiền, vấn đề quản lý tiền tệ và tác động của các chính sách
tiền tệ đến các động thái của các nền kinh tế vĩ mô như sự tăng trưởng và sự suy

thoái, thất nghiệp, ổn định giá cả và lạm phát… Lúc này, Nhà nước của các quốc
gia nhìn thấy được vai trò cực kỳ to lớn của ngân hàng phát hành độc quyền, nên
thực sự muốn thâu tóm nó để nắm lấy một phương diện cơ bản của kinh tế thị
trường, đó là tiền tệ, hòng giải quyết những bất ổn của nền kinh tế. Giải pháp cho
vấn đề này là các nước lần lượt quốc hữu hoá ngân hàng phát hành độc quyền.
Trong thời kỳ này, khái niệm “Ngân hàng trung ương” đã ra đời thay thế
cho khái niệm “ngân hàng phát hành độc quyền”. Đây không chỉ thay đổi thuần
tuý về tên gọi, mà còn bao trùm sự thay đổi cả về chức năng hoạt động. Nếu ngân
hàng phát hành độc quyền có chức năng độc quyền phát quản lý nhà nước hành
giấy bạc vào lưu thông, thì ngân hàng trung ương, ngoài chức năng đó còn có chức
năng về hoạt động tiền tệ- tín dụng- ngân hàng.
Như vậy, có thể nói sự ra đời của ngân hàng trung ương xuất phát từ sự đòi
hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hoá, cùng với yêu cầu của Nhà nước trong điều
tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ chính sách tiền tệ.
Ở Việt Nam, trong nhiều thế kỷ trước vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu,
thương mại kém phát triển, do đó hoạt động kinh doanh tiền tệ ra đời muộn màng
(thế kỷ 19). Ngân hàng Đông Dương là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam (1875),
xuất hiện cùng với sự đô hộ của thực dân Pháp. Cách mạng tháng Tám- 1945
thành công, chính phủ đã giao cho bộ tài chính phát hành tiền, gọi là tiền tài chính.
Năm 1947,theo sắc lệnh số 14/SL ngày 3/2/1947 của chính phủ , tổ chức tín dụng
đầu tiên của nước ta được thành lập là Nha Tín Dụng trực thuộc bộ tài chính, nhằm
phục vụ cho vay phát triển sản xuất. Ngày 6/5/1951, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số
14/SL thành lập Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam (sau này đổi tên thành Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam). Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ra đời giữ vai trò độc
quyền phát hành giấy bạc ngân hàng, đồng thời kiêm nhiệm luôn các chức năng
của ngân hàng thương mại. hệ thống ngân hàng lúc này là mô hình ngân hàng 1
cấp:
Từ khi có nghị định 53/HĐBT(26/3/1988) và đặc biệt là hai pháp lệnh ngân
hàng(37 và 38) ngày 23/05/1990 (có hiệu lực ngày 1/10/1990). Lúc này hệ thống
ngân hàng Việt Nam mới được phân định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ của cấp

quản lý vĩ mô và cấp kinh doanh. Hệ thống ngân hàng là mô hình cấp 2:
Theo đó, Ngân Hàng Nhà Nước đóng vai trò ngân hàng trung ương, có chức năng
Ngân hàng Nhà
Nước Việt Nam
Ngân hàng đầu tư
Ngân hàng ngoại
thương
Quỹ tiết kiệm
Các
chi
nhánh
Ngân hàng trung ương
Quỹ
tín
dụng
nhân
dân
Công
ty
tài
chính
Ngân
hàng
chính
sách xã
hội
Ngân
hàng
thương
mại

quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ - tín dụng- ngân hàng, là cơ quan duy nhất
phát hành giấy bạc ngân hàng duy nhất ở nước ta.
2.2. Bản chất của ngân hàng trung ương
Là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước độc quyền phát hành giấy bạc nhà
nước, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tài chính- tín dụng- ngân hàng, không giao
dịch với công chúng, chỉ giao dịch với kho bạc và các ngân hàng trung gian.
2.3. Hoạt động của ngân hàng trung ương.
 Mục đích hoạt động: Cung ứng tiền tệ, điều hoà hệ thống tiền tệ và quản lý
ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng cấp 2 nhằm tăng trưởng kinh tế, tăng việc
làm và kiểm soát lạm phát.
 Đặc điểm hoạt động: Là một định chế hỗn hợp giữa các doanh nghiệp và
quản lý hành chính, trong đó kinh doanh chỉ là phương tiện để thực hiện mục
tiêu quản lý, không vì mục tiêu lợi nhuận.
 Hệ thống tổ chức ngân hàng trung ương: có 2 mô hình là:
• Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ:
• Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của ngân hàng
trung ương, đặc biệt là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền
tệ. Tiêu biểu cho mô hình này là hệ thống Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ
và Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Đức.
• Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ:
Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với ngân hàng trung ương thông qua việc
bổ nhiệm của bộ máy quản trị và điều hành ngân hàng trung ương, thậm chí
chính phủ còn trực tiếp can thiệp vào việc xây dựng và thực thi chính sách
tiền tệ. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước ví dụ như : Nhật Bản, Anh.
Phần III. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương
trong giai đoạn hiện nay.

×