Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Bệnh động kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.89 KB, 23 trang )

BỆNH ĐỘNG KINH

TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục đích nghiên cứu: Động kinh là bệnh lý thần kinh mãn tính
thường gặp. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy văn hóa, kiến thức, thái độ và
nhận thức của người dân về động kinh ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị. Mục đích
nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá sự hiểu biết, kiến thức, quan niệm sai lệch, và
thái độ đối với bệnh động kinh ở cộng đồng các quận trung tâm thành phố Hồ Chí
Minh.
Phương pháp: 480 đối tượng được chọn ngẫu nhiên để tiến hành phỏng vấn “mặt đối
mặt” về bệnh động kinh.
Kết quả: có 91,2% đối tượng đã từng nghe nói về bệnh động kinh; 29,3% có quen
biết người bệnh động kinh; 80,6% đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh;
22,9% nghĩ rằng bệnh động kinh là do di truyền; 62,4% ủng hộ đặt vật cứng vào
miệng đề ngăn người bệnh cắn lưỡi khi gặp họ lên cơn động kinh. Một phần ba ý kiến
cho rằng người bệnh động kinh không nên lập gia đình và sinh con; 7,8% không cho
phép con mình chơi với trẻ bệnh động kinh; 43,2% phản đối con kết hôn với người
bệnh động kinh. Có 16,9% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên làm việc và
35,6% sẽ sa thải người bệnh động kinh nếu lên cơn khi đang làm việc mà không khai
báo trước.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vẫn còn những thái độ hạn chế đối với
việc kết hôn, sinh con và việc làm của người bệnh động kinh. Thái độ trên xuất phát
từ sự thiếu hụt kiến thức về nguyên nhân và khả năng điều trị bệnh động kinh. Những
chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng cung cấp kiến thức về động kinh, cải thiện
tình trạng phân biệt đối xử và những quan niệm sai lệch về người bệnh động kinh là
rất cần thiết.
ABSTRACT
PUBLIC KNOWLEDGE AND ATTITUDES TOWARD EPILEPSY
IN CENTRAL DISTRICTS OF HO CHI MINH CITY
Le Ly Ha Lien, Tran Diep Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of
No 1 - 2009: 172 - 179


Background and purpose: Epilepsy is one of the most common neurological
diseases worldwide. Many studies have shown that cultural and social awareness of,
attitudes toward, and knowledge about epilepsy can have an impact on the acceptance
of treatment. The aim of this study is to characterize the familiarity with, knowledge
of, misunderstandings, and attitudes toward epilepsy among the Ho Chi Minh central
districts population.
Methods: four hundred and eighty people were randomly selected for face-to-face
interviews regarding epilepsy.
Results: Of the subjects surveyed; 91.2% had heard of epilepsy; 29.3% knew
someone with epilepsy, 80.6% had witnessed an epileptic seizure; 22.9% believed
that epilepsy is inheritable; 62.4% indicated that putting an object into the patient’s
mouth to prevent tongue biting during a seizure is appropriate. One third thought that
the epileptic patients couldn’t be married and have children; 7.8% would not allow
their children play with others having epilepsy; 43.2% would object to having their
children marry a person with epilepsy. 16.9% believed that epileptic patients
shouldn’t work; and 35.6% would terminate the employment contract after an
epileptic seizure in an employee with unreported epilepsy.
Conclusion: Our study revealed that there were still negative attitudes regarding the
marriage, childbearing, and employment of persons with epilepsy, which might result
from lacking of knowledge about cause and treatment of epilepsy. Public health
education would be needed in order to improve knowledge about epilepsy, and to
ameliorate the social discrimination and misconceptions against epileptic patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một bệnh lý thần kinh thường gặp nhất, theo WHO trên thế giới hiện có
khoảng 50 triệu người mắc bệnh động kinh. Nhiều nghiên cứu trên thế giới về kiến
thức, thái độ và thực hành của người dân cho thấy sự thiếu hụt những kiến thức cơ
bản về bệnh động kinh, quan niệm sai lệch và tình trạng phân biệt đối xử với người
bệnh động kinh vẫn còn tồn tại, chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị
cũng như cuộc sống của người bệnh động kinh.
Tại Việt Nam, hiện chỉ có hai nghiên cứu đã thực hiện tại Nhân Chính- Hà Nội và Ba

Vì- Hà Tây, kết quả vẫn còn nhiều định kiến đối với người bệnh động kinh. Tuy
nhiên, hai nghiên cứu này không thể đại diện cho nhận thức của người dân Việt Nam
về bệnh động kinh vì vậy việc tiến hành nghiên cứu ở các vùng miền khác của đất
nước rất cần thiết. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Kiến thức và thái độ của người
dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ các kiến thức, thái độ và những quan niệm sai lệch
của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh, mối
liên quan giữa kiến thức, thái độ với những đặc điểm dân số- xã hội như giới tính,
tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân.
Có 480 đối tượng đã tham gia nghiên cứu. Trong 5 quận trung tâm thành phố Hồ Chí
Minh, chọn ngẫu nhiên 2 quận là quận 3 và quận Phú Nhuận. Từ danh sách hộ gia
đình được cung cấp bởi chính quyền địa phương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 1 người
trong gia đình trên 18 tuổi và tiến hành phỏng vấn. Những đối tượng bệnh động kinh,
gia đình có người bệnh động kinh, mất trí, câm điếc, tâm thần được loại khỏi nghiên
cứu. Trường hợp đối tượng chưa từng nghe nói đến bệnh động kinh thì kết thúc
phỏng vấn nhưng mẫu vẫn được đưa vào lô nghiên cứu.
Chúng tôi chọn phương pháp phỏng vấn trực tiếp dưới hình thức “mặt đối mặt” dựa
vào bộ câu hỏi soạn trước. Các câu hỏi được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và
ngược lại để đảm bảo tính chính xác trong chuyển ngữ. Phỏng vấn do tác giả và 20
cộng tác viên là sinh viên khoa Xã Hội Học, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và
Nhân Văn thành phố Hồ Chí Minh thực hiện.
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata
10.0 theo phương pháp thống kê mô tả ở mức tin cậy 95%. Phép kiểm Chi bình
phương hoặc Fisher’s exact để kiểm định mối liên quan giữa một số yếu tố dân số- xã
hội với các câu trả lời về kiến thức, thái độ về bệnh/người bệnh động kinh. Những câu
trả lời chung chung như “không rõ”, “không biết” sẽ được loại khỏi phần phân tích.
Đối với những câu trả lời có mối liên quan, tiến hành phân tích đa biến bằng phương
pháp hồi qui logistic để xác định yếu tố liên quan độc lập.
KẾT QUẢ

Trong 480 đối tượng được phỏng vấn, tỷ lệ nam/nữ = 1/1,44, nhóm tuổi 18-44 tuổi là
51,1%, 62,5% người có trình độ học vấn trung học, phân bố nghề nghiệp (lao động trí
óc, lao động chân tay và không đi làm) tương đương nhau, 76,9% đối tượng đã lập
gia đình.
Hiểu biết về bệnh động kinh
Tỷ lệ nghe nói về bệnh động kinh và chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh cao
(91,2% và 80,6%). Tỷ lệ quen biết với người bệnh động kinh thấp hơn (29,3%).
Người có trình độ học vấn cao “nghe nói về bệnh động kinh” nhiều hơn người có
trình độ học vấn thấp (X
2
, p< 0,05).
Bảng 1: Hiểu biết về bệnh động kinh
Kết quả Câu 1 Câu 2 Câu 3

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)
Tổng
cộng
91,2 9,8 29,3 70,7 19,4 80,6
Giới


Nữ 90,1 9,9 30,9 69,1 78,1 21,9
Nam 90,4 9,6 26,9 73,1 84,3 15,7
Nhóm
tuổi

18-44 93,1 6,9 24,1 75,9 78,1 21,9
45-64 87,7 12,3 37,8 62,2 83,5 16,5
> 65 85,4 14,6 24,4 75,6 82,9 17,1
Học vấn

Tiểu học 80 20 34,4 65,6 87,5 12,5
Trung
học
89,3 10,7 30,6 69,4 80,9 19,1
Trên
trung
học
95 5 25,6 74,4 78,2 21,8
Nghề
nghiệp

LĐ trí
óc
91,3 5,7 22,4 77,6 80 20
LĐ chân
tay
89 11 33,8 66,2 79,2 20,8
Không
đi làm
86,8 13,2 33,3 66,7 82,6 17,4

Hôn
nhân

Độc
thân
90,1 9,9 31 69 75 25
Đã kết
hôn
90,2 9,8 28,8 71,2 82,2 17,8

Câu 1: Ông/ Bà có từng nghe nói về bệnh động kinh không?
Câu 2: Ông/ Bà có quen biết ai là người bị động kinh không?
Câu 3: Ông/ Bà đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh chưa?
Kiến thức về động kinh
Về nguyên nhân, do di truyền 22,9%. Người có trình độ học vấn cao biết đến nguyên
nhân di truyền cao hơn người có trình độ học vấn thấp (X
2,
p< 0,05). Có đến 95,8%
chọn co giật và sùi bọt mép là biểu hiện chính của bệnh. Chỉ 0,97% nghĩ động kinh là
bệnh truyền nhiễm.
Có 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc và 49,4% cho
biết ngoài thuốc còn có cách khác có thể điều trị bệnh động kinh, tuy nhiên phần lớn
(53,2%) không biết, châm cứu (7,8%), thuốc nam (3,2%), đông y, vật lý trị liệu,…
Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62,4% đồng ý chèn vật cứng vào miệng để
ngăn người bệnh cắn lưỡi. Những đối tượng trẻ tuổi ủng hộ phương pháp trên cao hơn
đối tượng lớn tuổi (X
2,
p< 0,05), 77,4% kiến thức trên có được từ kinh nghiệm truyền
miệng, 11,1% từ sách báo, truyền hình và 4,8% từ sự hướng dẫn của nhân viên y tế.
Bảng 2: Kiến thức về bệnh động kinh

Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)
Tổng 43,456,6 22,9 77,1 95,8 4,2 99,03 0,97 61,4 38,6 50,6 49,4 62,4 37,6

Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)

(%)
Không
(%)
cộng

Giới

Nữ 41,258,8 22,4 77,6 94,5 5,5 0,4 99,6 64,7 35,3 52,2 47,8 63,5 36,5
Nam 46,653,4 23,6 76,4 97,7 2,3 1,7 98,3 56,5 43,5 48,3 51,7 60,7 39,3
Nhóm
tuổi

18-44 46,553,5 21,9 78,1 96,5 3,5 1,3 98,7 63,5 36,5 51,3 48,7 67,5 32,5
45-64 38,461,6 23,2 76,8 93,9 6,1 0 100 58,6 41,4 51,2 48,8 59,8 40,2
> 65 46,353,7 26,8 73,2 100 0 2,4 97,6 60,7 39,3 43,9 56,1 43,9 56,1
Học vấn

Tiểu
học
34,465,6 3,1 96,9 90,6 9,4 0 100 50 50 40,6 59,4 50 50
Trung
học
41 59 20,9 79,1 96,3 3,7 1,1 98,9 64,6 35,4 52,9 47,1 61,6 38,4

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×