Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thứcXác định mục tiêu 10 năm sau của bạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.6 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Mơn học: Triết học Mác – Lênin
Học kỳ II (2019-2020)

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Quan hệ vật chất và ý thức ? Mục tiêu của bản thân bạn 10 năm sau là gì ? Xác
định cơ sở và yêu cầu cần có trên hai phương diện khách quan và chủ quan
trong xây dựng kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu này

Sinh viên: Trần Thị Thu Hiền
Mã số sinh viên: K194101381
Lớp: K19410
Trường: Đại Học Kinh Tế-Luật
Giảng viên: Nguyễn Thị Hồng Hoa

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 25 tháng 05 năm 2020
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU


Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Tại sao có thể
khẳng định như vậy? Trong tác phẩm Lutvich Phoi-ơ-bắc và sự cáo buộc chung của
triết học cổ điển Đức, Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt
là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” (Các mác và Ăngghen toàn tập, T21, NXB CTQG, 1995, trang 403). Thật vậy, thứ nhất, mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại nảy sinh cùng với sự ra đời của triết học và nó tồn tại trong mọi
trường phái triết học, dù là nhà triết học duy vật hay nhà triết học duy tâm đều phải
bàn đến mối quan hệ này, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Thứ hai, suy cho cùng, tất cả
các hiện tượng xảy ra trong thế giới đều có thể quy về một trong hai mảng lớn đó là
vật chất hoặc ý thức, triết học với tư cách lí luận chung nhất về thế giới không thể


không đề cập, giải quyết quan hệ giữa chúng. Cuối cùng, vấn đề quan hệ giữa ý thức
và vật chất được coi là vấn đề cơ bản hay tối cao của triết học vì việc giải quyết vấn
đề này là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học, bao gồm tự nhiên, văn
hóa, xã hội, nhận thức, tư duy… thậm chí cả những vấn đề khơng thuần túy triết học
như chính trị, đạo đức, …
Vậy nhiệm vụ của chúng ta là gì? Đó là phải nắm rõ mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức để từ đó, vận dụng được vốn hiểu biết của mình vào thực tế khách quan, góp
phần xây dựng và cải tạo thế giới khách quan. Với tư cách sinh viên trường Đại học
Kinh tế-Luật, bản thân em nhận thấy rằng, việc nghiên cứu chủ đề cơ bản này của triết
học là việc làm vơ cùng có ý nghĩa, đây sẽ đóng vai trị là cơ sở lí luận để bản thân em
định hướng cũng như xây dựng kế hoạch, mục tiêu cho chính mình. Đó cũng chính là
lí do để em chọn đề tài này. Dưới đây là toàn bộ những vấn đề liên quan đến đề tài,
song, bài làm chắc chắn cịn rất nhiều thiếu sót, mong cô thông cảm và chỉnh sửa
giúp, em xin chân thành cảm ơn ạ!

PHẦN 2: NỘI DUNG
2


QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử bao gồm
A.

I.

trong đó tồn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy tâm trong
việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Nói đến mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, CNDT cho rằng ý thức tinh thần có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên,
của vật chất; ý thức tinh thần quyết định vật chất và bản chất của tồn tại này là ý thưc,

tinh thần.
1. Quan điểm của CNDT chủ quan trong mối quan hệ vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cảm giác, ý thức con người là cái có trước, cái
quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ
là những phức hợp của cảm giác. Do đó, những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan không tránh khỏi dẫn tới cái gọi là chủ nghĩa duy ngã tức là chủ nghĩa xuất phát
từ cái tôi cá nhân. Một trong những triết gia tiêu biểu cho quan điểm này là George
Berkeley, ông cho rằng cái thực là nhận thức, có nghĩa là một thứ gì đó chỉ tồn tại khi
nó đang được nhận thức (nhìn thấy, sờ thấy…) bởi một chủ thể. Lấy ví dụ như việc
con người có thể cảm nhận được màu sắc, âm thanh của tự nhiên, theo quan điểm của
CNDT chủ quan chẳng qua là do cảm giác của mỗi người, hồn tồn khơng phải do
vật chất tác động vào mà là do ý thức của chính con người.
Có thể kể đến câu nói của triết gia nổi tiếng người Đức E. Kant rằng “nét đẹp của
người phụ nữ không nằm trên đôi má hồng của cô ấy mà nằm trong đơi mắt của kẻ si
tình”. Ơng tun bố: “Khơng có khoa học về cái đẹp mà chỉ có phán đốn về cái
đẹp” Với ơng cái đẹp khơng có khái niệm, nó gắn với cảm xúc của từng người về đối
tượng và như vậy nó khơng xác định. Điều này là không thể phủ nhận bởi quan điểm
về cái đẹp là khác nhau phụ thuộc sở thích và gu(gout) của mỗi người. Tuy nhiên, khi
một người phụ nữ “đẹp” trong mắt nhiều người thì cái đẹp ở đây lại trở thành chân lí,
nó khơng cịn là cái chủ quan nữa mà trở thành sự thật khách quan, là cái quyết định
nhận thức của con người. Điều này cho thấy một mặt hạn chế của chủ nghĩa duy tâm
chủ quan trong việc nhìn nhận, đánh giá về thế giới.
2.

Quan điểm của CNDT khách quan trong mối quan hệ vật chất và ý thức
3


Chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng, ý thức ý niệm là cái có trước thế giới
vật chất, nó độc lập và bên ngồi ý thức của con người đồng thời nó quyết định sự tồn

tại của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong xã
hội đều là hiện thân của “ý niệm”. Điển hình trong hệ thống triết học duy tâm khách
quan là quan niệm của hai nhà triết học PLaton và Hegel, trong đó, Platon thì đưa ra
quan niệm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biết và thế giới ý niệm. Theo ông,
thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, khơng đúng đắn vì các sự vật ln
thay đổi, khơng ngừng sinh ra và mất đi. Còn thế giới ý niệm là thế giới của đúng đắn,
chân thực. Thế giới ý niệm “sinh ra” thế giới cảm biết và các sự vật cảm biết chỉ là cái
bóng của ý niệm chẳng hạn như cái cây, ngôi nhà, màu sắc…mà ta thường thấy là do
suy nghĩ siêu tự nhiên về chúng hay khi ta thấy các vật bằng nhau là vì ta đã có ý
niệm sẵn trong đầu về sự bằng nhau v…v. Trong khi đó, theo quan điểm của Hegel,
trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình, Hegel khơng chỉ trình bày
những phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng, các phạm trù như chất, lượng,
phủ định, mâu thuẫn,… mà cịn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và
ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”, những quy luật vận
động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Hạn chế lớn nhất của
Hegel là tính chất duy tâm, thần bí khi ông coi mọi sự vật, hiện tượng đều là hiện thân
của “ý niệm tuyệt đối” nhưng điều tích cực mà ông đã đạt được trong khi các nhà triết
gia Tây Âu thời kì đó chưa làm được đó là đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất
của một phép biện chứng một cách cụ thể hóa dưới dạng các ngun lí, các quy luật,
các phạm trù. Hay nói cách khác, đây là một tiền đề quan trọng đối với nền triết học
duy vật biện chứng sau này.
Lấy ví dụ cho quan điểm của CNDT khách quan, có thể kể đến ở phương Tây, những
người theo CNDT khách quan thường cho rằng sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại do một ý
thức khách quan là thượng đế hay ở phương Đơng, nhiều người thần thánh hóa các
hình tượng siêu nhiên, thờ cúng thần linh, xem thần linh là đấng tạo ra vật chất, điều
khiển các hoạt động của con người. Ông bà ta xưa nay vẫn thường có câu “cha mẹ
sinh con, trời sinh tính”, “giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời” ý muốn khẳng định tính
4



cách, nhận thức của con người là do có sự sắp đặt của bề trên, khơng vì điều kiện hay
hồn cảnh mà thay đổi được. Đây là một quan điểm mang tính duy tâm, thiếu khoa
học của nhiều người Việt Nam nói riêng và những người theo CNDT khách quan nói
chung.
3.

Ý nghĩa phương pháp luận

Như vậy, có thể thấy rằng, về mặt nhận thức, CNDT khách quan hay chủ quan tuy có
biểu hiện khác nhau nhưng lại giống nhau về cơ bản, bằng cách này hay cách khác
đều phủ nhận nguồn gốc khách quan của thế giới tự nhiên, của vật chất và đều cường
điệu vai trò của nhân tố chủ quan, duy ý chí tức là khẳng định ý thức, tinh thần sáng
tạo ra thế giới. Thực chất của điểm này là sự tuyệt đối hóa vai trị của ý thức, tinh thần
mà theo Lê-nin, triết học trường phái này là một sự phát triển, thổi phồng bơm to,
phiến diện, thái quá của một trong những mặt, khía cạnh của nhận thức thành một cái
tuyệt đối tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa. Ở điểm này, CNDT
gần gũi với tôn giáo. Hơn thế nữa, về mặt thực tiễn, đây còn là nguồn gốc xã hội cho
sự hình thành và phát triển các giai cấp đối lập nhau về lợi ích, là sự phân cơng giữa
lao động trí óc và lao động chân tay. Sau khi tách khỏi tầng lớp lao động chân tay, lao
động trí óc có vị trí tương đối trong xã hội, trở thành những đặc quyền của giai cấp
thống trị. Vì thế những nhà tư tưởng của giai cấp đó thường khinh miệt lao động chân
tay và ngộ nhận rằng chính lao động trí óc quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Sai lầm lệch lạc trên đây của CNDT dẫn đến việc bị thế lực phản động lợi dụng
sơ hở để khai thác nhằm biện hộ, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, nói đi nói lại, vẫn phải khẳng định vai trị của CNDT là tiền đề trong việc
hình thành quan điểm triết học khách quan, khoa học về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, từ đó giải thích rõ ràng hơn sự tồn tại của thế giới quan và của nhận thức.
II.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử, bao gồm
trong đó tồn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy vật trong
việc giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và khẳng định vật chất là tính thứ nhất,
ý thức - tinh thần là tính thứ hai, bản chất của tồn tại này là vật chất. Khẳng định điều
5


đó cũng là thừa nhận và minh chứng rằng, suy đến cùng bản chất và cơ sở của mọi tồn
tại trong tự nhiên, xã hội chính là vật chất, ý thức chỉ là sự phản ánh của thế giới vật
chất.
1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác về quan hệ giữa vật chất và ý
thức
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ
đại, tồn tại cả ở triết học Phương Đông và Phương Tây. Chủ nghĩa duy vật chất phác
khẳng định vật chất là tính thứ nhất quyết định sự tồn tại của ý thức nhưng lại đồng
nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và coi đó là thực thể đầu tiên, là bản
nguyên của vũ trụ. Nhận thức này mang nặng tính trực quan, nên những kết luận của
họ về thế giới vật chất cịn mang tính ngây thơ, cảm tính.
Lấy ví dụ, ở Phương Tây: Ta-let cho rằng bản nguyên của tồn tại này chính là nước,
Heraclit lại cho rằng đó là lửa, ơng cịn đưa ra khái niệm “logos” nhằm khẳng định
quy luật“mọi thứ đều chảy” (“không ai tắm hai lần trên một dịng sơng”) thể hiện sự
chuyển hóa, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, song quan điểm đó của
Heraclit vẫn chỉ mang tính tự phát, bẩm sinh …hay ở phương Đông, trong triết học
Trung Quốc, có thuyết ngũ hành coi năm yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những
yếu tố khởi nguyên cấu tạo mọi vật, thuyết âm-dương thì cho rằng có hai lực lượng
âm dương đối lập nhau nhưng lại gắn bó, cố kết với nhau, là nguồn cơn của mọi sự
sinh thành, biến hóa; Kinh Dịch Trung Quốc cịn có quan niệm về tính biến đổi
thường xuyên của vũ trụ v..v. Một ví dụ khác xét về phương diện tơn giáo, chẳng hạn
như triết học Phật giáo có đưa ra quan niệm về vơ ngã, vơ thường, nhân dun…
Tuy cịn nhiều hạn chế nhưng CNDV thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó lấy bản

thân vật chất của tự nhiên để giải thích cho giới tự nhiên, nó khơng cầu viện thần linh
hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới.
2.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong mối quan hệ giữa vật chất

và ý thức
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật,
thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 và đỉnh cao là vào thế kỉ
6


17-18. Đây là thời kì khoa học thực nghiệm và cơ học cổ điển đạt được những thành
tựu lớn và nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học, do đó đặc điểm nổi bật nhất của
triết học thời kì này là phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Phương pháp này
xem xét thế giới như một bộ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo ra nó ln ở
trạng thái biệt lập, tĩnh tại, khơng vận động, khơng biến đổi, cịn nếu có biến đổi đi
chăng nữa thì chỉ đơn thuần là sự tăng, giảm về lượng do những ngun nhân bên
ngồi gây ra. Có thể thấy, chủ nghĩa duy vật siêu hình chưa phản ánh đúng hiện thực
trong mối quan hệ phổ biến của vật chất và ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa yếu tố vật
chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức cũng như phủ nhận tính độc lập tương đối và
tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn, tức là chưa nhận thấy
được sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất và dẫn đến rơi vào tình trạng thụ
động, ỷ lại, không đem đến hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Tuy vậy, chủ
nghĩa duy vật siêu hình đã có công rất lớn trong việc chống lại thế giới quan duy tâm
tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển từ thời kì trung cổ sang phục hưng ở các
nước Tây Âu. Ph. Anghen đã từng vạch rõ sự hạn chế của phương pháp siêu hình là
“chỉ nhìn thấy sự vật mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn
thấy sự vật ấy mà khơng thấy sự tiêu vong, phát sinh của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy trạng thái tĩnh cảu những sự vật ấy mà quên đi sự vận động của những sự vật ấy,

chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng” (“C. Mark, Anghen tồn tập, tập 20, trang37,
NXB Chính trị quốc gia”).
Trong thực tế cũng vậy, khi nhìn nhận một sự vật hiện tưởng bằng cảm quan siêu
hình, tức là chỉ xem xét nó trên một khía cạnh, cơ lập nó với hiện thực khách quan sẽ
dẫn đến những đánh giá sai lệch về bản chất của sự vật, hiện tượng; đơn giản như việc
năm ơng thầy bói mù trong truyện ngụ ngôn Việt Nam, mỗi người khi chỉ sờ vào một
bộ phận của con voi mà đã cho rằng đó là toàn bộ cơ thể của con voi là tư duy phiến
diện, chủ quan, không phản ánh đúng hiện thực. Đó là một trong những hạn chế lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật siêu hình mà sau này chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời
đã giúp nó hồn thiện.

7


3.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong mối quan hệ giữa vật

chất và ý thức
Khái quát lại, lịch sử của triết học từ thời kì cổ đại cho đến nay luôn là lịch sử đấu
tranh không ngừng nghỉ giữa các trường phái triết học, sự đấu tranh về hệ tư tưởng,
khuynh hướng khác nhau đều hướng đến việc giải quyết một trong những vấn đề cơ
bản của triết học: giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào?
Tuy nhiên quan điểm về chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa Mác
đều bộc lộ những hạn chế nhất định về mối quan hệ của vật chất và ý thức như: tuyệt
đối hóa vai trị của hoặc là vật chất hoặc là ý thức và đặc biệt không thấy mối quan hệ
biện chứng giữa chúng, tức là không thấy được sự tác động, ảnh hưởng qua lại của vật
chất và ý thức. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng-ghen xây
dựng sau đó được Lê-nin phát triển đã gạt bỏ các quan niệm duy tâm, thần bí, chủ
quan để đưa ra các quan điểm khoa học của mình về vật chất và ý thức cũng như mối

quan hệ giữa chúng. Vậy, mối liên hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện như thế
nào trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
3.1 . Thứ nhất, ta đề cập đến vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Theo Lê-nin, “vật chất” là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản
ánh lại, không lệ thuộc vào cảm giác. Như vậy, ông đã đặt vật chất trong mối tương
quan đối lập với ý thức, hiểu vật chất là tất cả những gì tác động vào giác quan của
con người tạo nên cảm giác, và cảm giác là sự phản ánh của ý thức, để thơng qua đó
khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
3.1.1

Vật chất quyết định nguồn gốc (sự hình thành) của ý thức

Cơ sở lí luận của khẳng định này chính là khoa học và phép biện chứng khoa học,
khoa học hiện đại đã chứng minh rằng giới tự nhiên có trước con người, con người có
ý thức trên trái đất này chỉ mới cách đây vài triệu năm, còn trái đất, hệ mặt trời đã có
cách đây vài tỉ năm. Hơn nữa, xét về nguồn gốc tự nhiên của ý thức, mặc dù cơ quan
phản ánh của ý thức là bộ óc người nhưng nếu không có sự tác động của các sự vật
hiện tượng bên ngồi thì bộ não người cũng khơng có đối tượng để phản ánh. Lấy một
8


ví dụ, nếu một người chưa bao giờ nhìn thấy, ăn thử quả chanh thì làm sao biết vị
chua của chanh càng khơng có phản ứng gì khi nghe nói về “chanh”, nhưng ngược lại
một người khi đã biết rõ về quả chanh thì chỉ cần nghe nhắc đến từ “chanh” thơi đã có
phản ứng nuốt nước bọt. Ví dụ trên chứng tỏ rằng, nếu khơng có sự tác động của vị
chua của chanh vào lưỡi và khiến não người hình thành phản xạ có điều kiện để phản
ứng với thơng tin trên thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện con người ta có ý thức về trái
chanh và phản ánh nhận thức đó bẳng hành động nuốt nước bọt cả! Chính vì lí do đó
mà ý thức chính là sự phản ánh một cách năng động sáng tạo thế giới khách quan hay

thế giới vật chất. Mặt khác, nếu xét về nguồn gốc xã hội của ý thức, có hai yếu tố
quan trọng là lao động và ngôn ngữ: Thông qua lao động con người buộc phải sử
dụng công cụ sản xuất để tác động vào thế giới nhằm tạo ra các của cải vật chất, giúp
con người sinh tồn và phát triển, đồng thời làm cho giới tự nhiên bộc lộ ra thuộc tính,
kết cấu, bản chất, quy luật của nó và từ đó con người có những nhận thức cụ thể hơn
về giới tự nhiên nhằm phục vụ mục đích, q trình cải tạo thế giới, giống như Ăngghen đã từng nói rằng “trí tuệ con người phát triển song song với việc cải biến tự
nhiên”. Nhờ lao động, con người nảy sinh ra ngơn ngữ, góp phần hình thành nên các
mối quan hệ xã hội. Khi nghiên cứu về con người, Mác có một quan điểm rất hay,
Mác đã khẳng định “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa các
mối quan hệ xã hội”. Do đó, nói tóm lại, vật chất phải có trước để quyết định, cịn ý
thức là cái có sau, là cái phản ánh vật chất. Nói tóm lại, điều đó cho thấy, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, là tiền đề cho sự hình thành của ý thức!
3.1.2

Vật chất quyết định bản chất của ý thức

Ý thức chính là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật chất và ý thức đều là hiện
thực, tức là đều tồn tại nhưng có sự đối lập: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái
được phản ánh, có nghĩa là vật chất độc lập với ý thức, quy định ý thức còn ý thức lại
chịu sự chi phối của vật chất, lấy cái hiện thực khách quan làm tiền đề và không phải
là một hiện tượng vật chất. Hơn thế nữa, ý thức còn mang bản chất của lịch sử-xã hội,
tính lịch sử-xã hội của ý thức thể hiện ở nguồn gốc hình thành và phương thức vận
9


động, phát triển của nó trong mối quan hệ chặt chẽ với thực tiễn, khơng tách rời thực
tiễn. Do đó, Mác đã khẳng định rằng: “Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã
hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”. So sánh quan điểm này với
chủ nghĩa duy tâm, cả CNDT chủ quan hay khách quan đều khẳng định ý thức không

phản ánh thế giới khách quan mà nó là do chính ý thức sinh ra, sự phát triển của khoa
học tự nhiên đã bác bỏ quan điểm sai lầm này; còn đối với chủ nghĩa duy vật trước
Mác với tư duy siêu hình lại đem đồng nhất vật chất với ý thức, coi ý thức cũng chỉ là
một dạng vật chất, não người tiết ra ý thức cũng như gan tiết ra mật vậy! Những tư
tưởng sai lệch trên đã bị bác bỏ bởi CNDV biện chứng, khẳng định bản chất của ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan và là hình ảnh chủ quan
của nó thơng qua sự cải biến của bộ óc người. Từ đó cũng nhằm khẳng định vai trị
quyết định của vật chất đối với bản chất của ý thức! Lấy một ví dụ đơn giản như cùng
nhìn vào một bức tranh nhưng không phải ai cũng khen đẹp và ngược lại, khơng phải
ai cũng chê xấu. Tính “đẹp” của bức tranh được phản ánh vào trí óc của mỗi người là
khác nhau vì nó bị chính tư duy của mỗi người cải biến đi, không ai giống ai, rất linh
hoạt và năng động, tạo ra sự đa dạng của cái khách quan, tức là bức tranh mà khái
quát lên là vật chất.
3.1.3

Vật chất quyết định nội dung của ý thức

Có thể nói, vật chất quyết định nội dung của ý thức hay nói cách khác, vật chất như
thế nào thì ý thức như thế ấy. Khẳng định cho điều này, C. Mác đã từng nói “Ý thức
chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến
trong đó”. Thật vậy, bản chất của ý thức là phản ánh nên ý thức chắc chắn sẽ mang
thông tin và chứa đựng những nội dung, đặc điểm của thế giới vật chất.
Và một điều chắc chắn rằng, con người dù có óc sáng tạo hay giàu sức tưởng tưởng
đến đâu đi chăng nữa thì cũng khơng thể thoát li khỏi đời sống vật chất, con người lại
càng không thể tự nghĩ ra những thứ không thuộc thế giới vật chất, do vậy toàn bộ nội
dung của ý thức đều do điều kiện vật chất quyết định.
Dân gian ta thường có câu:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
10



Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
hay
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.”
Đó là nhận thức rất thông thường về thời tiết, ngày tháng…đã được ông bà ta đúc kết
thành những kinh nghiệm giúp con người trong công việc sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là nghề trồng lúa nước. Tuy nhiên, để hình thành nên những kinh nghiệm đó,
khơng phải ngày một ngày hai mà là một qúa trình tổng hợp của những quan sát trực
tiếp các hiện tượng xảy ra trong thế giới có tính khách quan.
Đặc biệt, một dẫn chứng khác cho luận điểm trên đó chính là nếu xét trên cấp độ tư
tưởng, lí luận, có thể thấy, phong trào cơng nhân chính là tiền để thực tiễn để khái
qt cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác, và là cơ sở để hình thành nên hệ tư tưởng khoa
học tiến bộ, dẫn đường cho phong trào đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột tàn bạo của
giai cấp cơng nhân-vơ sản trên tồn thế giới, trong đó có Việt Nam ta.
3.1.4

Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, vật chất quyết định mọi sự biến đổi của ý
thức, hay nói cách khác, khi vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng thay đổi
theo. Bởi, ý thức là sự phản ánh của vật chất, chịu sự chi phối của vật chất về nội
dung. Đương nhiên, sự thay đổi này cũng có rất nhiều mức độ: thay đổi tồn bộ hay
thay đổi từng bộ phận, thay đổi nhanh hay chậm là cịn tùy thuộc vào điều kiện, hồn
cảnh nhất định, nhưng, sớm hay muộn đều chắc chắn sẽ thay đổi. Khi nói đến việc vật
chất làm biến đổi mọi nội dung của ý thức, ta có thể lấy một dẫn chứng điển hình đó
là truyền thống u nước của dân tộc ta từ thời chiến đấu trên chiến trường chống lại
mọi kẻ thù xâm lược cho đến ngày hôm nay, khi đất nước ta đang phải đối diện với
một kẻ thù chung của thế giới đó là đại dịch Covid-19: Trước đây, đứng trước những
kẻ thù hung hãn, lớn hơn ta về mọi mặt, toàn dân ta vẫn một lịng đồn kết, anh dũng,

thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ, làm tay
sai cho bọn ngoại xâm. Ngày nay, đất nước hịa bình, điều kiện vật chất ngày một cải
thiện, chiến tranh bom đạn đã lùi xa, thì ngay lúc này, Việt Nam nói riêng và tồn thế
11


giới nói chung lại phải gồng mình chống lại dịch bệnh quái ác, đã và đang dần cướp
đi sinh mạng của cả trăm nghìn người, làm suy thối cả nền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong bối cảnh như vậy, tình yêu nước của nhân dân ta lại một lần nữa được thể hiện
rõ qua hình ảnh những chiến sĩ áo trắng, những y bác sĩ và nhân viên y tế ngày đêm lo
lắng, mất ăn mất ngủ chữa trị cho bệnh nhân; hình ảnh của những chú cơng an, bộ đội
ngày đêm túc trực ở khu cách li, bảo vệ cộng đồng; hình ảnh của Đảng, Chính Phủ
làm việc không ngừng nghỉ, bận rộn, sốt sắng đưa ra các biện pháp chống dịch kịp
thời đến người dân; hay việc xây những cây ATM phát gạo miễn phí cho người nghèo,
những tấm gương người tốt việc tốt sẵn sàng miễn phí tiền th nhà cho cơng nhân,
người lao động, …Tất cả những nghĩa cử cao đẹp đó chính là biểu hiện của tình đồn
kết, của lịng u nước sâu sắc. Có thể thấy, ở mỗi thời kì khác nhau, trong điều kiện
và hồn cảnh khác nhau, tình u nước, ý thức dân tộc cũng có những biểu hiện khác
nhau song đều rất đáng được trân trọng, gìn giữ và phát huy. Tin chắc rằng, chỉ cần cả
nước đồng lịng thì bất cứ khó khăn nào cũng vượt qua, thành cơng nào cũng có thể
đạt được!
3.2 Vai trị của ý thức có thể tác động trở lại vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức không hồn tồn thụ động
mà nó có tính độc lập tương đối, có thể tác động, ảnh hưởng tới vật chất. Lê-nin đã
từng nói: “Ý thức con người khơng phải chỉ để phản ánh thế giới khách quan mà còn
để cải tạo thế giới khách quan”. Nói như vậy bởi vì bản chất của ý thức là phản ánh
vật chất một cách năng động, sáng tạo, ý thức ở đây là ý thức của con người và chỉ có
con người mới có ý thức cho nên khi nói đến vai trị của ý thức đối với vật chất tức là
muốn đề cập đến vai trị của con người thơng qua hoạt động thực tiễn!
3.2.1 Sự tác động của ý thức lên vật chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố

Thứ nhất, ý thức tác động lên vật chất phụ thuộc vào mức độ phản ánh của ý thức. Sẽ
là tích cực nếu trình độ phản ánh của ý thức cao, thể hiện những nhận thức, đánh giá
đúng đắn, tiến bộ về thực tại và sẽ là tiêu cực nếu trình độ nhận thức kém, phản ánh
sai sự thật, thể hiện cái nhìn thiển cận, thiếu xác thực về thực tại. Ví dụ, cùng một vấn
đề nhưng người khôn ngoan và thông minh sẽ giải quyết theo cách khác còn những
12


người vội vàng, bốc đồng, thiếu kiến thức sẽ giải quyết theo một cách khác, giống
như việc một bức tranh đẹp, một bản nhạc hay, một triết lí đúng đắn khơng thể đưa
cho một con người khơng có con mắt nghệ thuật và tư duy sáng tạo mà phải được
thẩm định bởi những tâm hồn nghệ thuật, yêu cái đẹp thì mới đưa ra những nhận xét
khách quan nhất về sự vật.
Thứ hai, sự tác động của ý thức lên vật chất còn phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của
ý thức vào quần chúng. Trong diễn biến phức tạp của Covid-19, ai ai cũng lo sợ rằng
mình nhiễm bệnh, mình phải cách li nhưng để tồn xã hội đẩy lùi được dịch bệnh thì
địi hỏi cần phải có ý thức chung của toàn xã hội. Yêu nước lúc này phải nói là “ai ở
đâu thì đứng n ở đó” và để làm được điều đó, nhận thức phải được thâm nhập thật
sâu, thật rộng vào cộng đồng, vào từng cá nhân, từng thành phần của xã hội!
Thứ ba, nó phụ thuộc vào điều kiện con người thực hiện hoạt động thực tiễn dưới sự
chỉ đạo của ý thức. Điều đó có nghĩa là, xét cho đến cùng, điều kiện vật chất vẫn
quyết định ý thức của con người. Không có nền tảng là điều kiện vật chất thì ý thức có
tốt đến đâu vẫn khơng thể đưa vào đời sống thực tế. Ví dụ như một người có tốt đến
đâu, có muốn làm từ thiện giúp đỡ mọi người đến đâu mà chính bản thân mình cịn
chưa lo được cuộc sống của chính mình thì mong muốn đó mãi chỉ là cái hư ảo, cái
không thể đạt được!
3.2.2 Ý thức tác động trở lại thế giới vật chất nhưng thường biến đổi chậm hơn so
với thế giới vật chất
Bản thân ý thức là cái phản ánh vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Trong khi thế giới vật chất thay đổi với tốc độ nhanh thì ý thức là cái phản ánh nên

thường không bắt kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, một số hình thái của ý thức xã hội
thường có tính bảo thủ, khó thay đổi như những tư tưởng về tơn giáo, những quan
niệm về chuẩn mực đạo đức, những tập tục xa xưa, …và đồng thời, ý thức thường gắn
liền với lợi ích của những nhóm, những tập đồn người, những giai cấp nhất định
trong xã hội, vì vậy mà chúng trở thành công cụ để các lực lượng phản tiến bộ dùng
để truyền bá nhằm chống đối các lực lượng tiến bộ. Đó chính là những ngun nhân
khiến cho ý thức thường khó thay đổi hơn hoặc chậm hơn so với vật chất. Lấy ví dụ,
13


xã hội Việt Nam ngày nay vẫn tồn tại quan điểm trọng nam khinh nữ. Nguồn gốc của
tư tưởng này là do tàn dư của xã hội cũ, xã hội phương đông với phương thức sản
xuất thuần tay chân, người đàn ơng đóng vai trị chính trong lao động sản xuất. Có thể
thấy, hệ tư tưởng truyền thống, đặc biệt là hệ tư tưởng nho giáo còn đọng lại với việc
đề cao vai trị của con trai, gia đình khơng sinh được con trai là mang tội bất hiếu với
ông bà tổ tiên, chính điều này dẫn đến việc xã hội dù đã có nhiều thay đổi theo hướng
ngày càng tiến bộ nhưng đâu đó người phụ nữ khơng được đề cao trong nhiều cơ quan
tổ chức, bị bạo hành. Đẩy lùi tư duy lạc hậu này là vô cùng khó khăn nếu khơng có sự
hợp tác của tất cả mọi người, của các tổ chức bởi vì chúng ta cần phải nhận thức rõ
một điều “người ta là hoa đất”, cuộc sống là vô nghĩa và sớm lụi tàn nếu thiếu phụ
nữ, phụ nữ cần được tôn trọng, hạnh phúc và được làm chủ cuộc sống của chính bản
thân mình!
3.2.3

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động

thực tiễn
Bản thân ý thức khơng bao giờ có thể tác động trực tiếp đến vật chất mà nó chỉ có thể
gây ảnh hưởng lên vật chất qua một khâu trung gian, đó chính là hoạt động thực tiễn
của con người. C. Mác đã từng khẳng định: “…lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ

bằng lực lượng vật chất nhưng lí luận cũng sẽ biến thành lực lượng vật chất một khi
nó thâm nhập vào quần chúng…” (C. Mác và Ăng-ghen toàn tập, NXB CTQG, Tập 1,
năm 1995). Điều đó chứng tỏ rằng, sự tác động của ý thức đối vật chất phải thông qua
hoạt động thực tiễn và phải được bắt đầu từ khâu nhận thức cho tới quy luật khách
quan. Ý thức một khi đã thâm nhập vào đời sống thì sẽ trở thành cơ sở cho sự sáng tạo
trong quá trình cải biến xã hội, cho con người những hiểu biết về các quy luật kinh tế,
chính trị và các quy luật vận động khác để phục vụ đời sống của chính bản thân mình.
Cụ thể, mọi cơng trình khoa học dù có xuất sắc đến mấy mà chỉ để trên bàn giấy thì
cũng khơng bao giờ phát huy được tính hiệu quả của nó, và nó chỉ trở nên có ý nghĩa
khi được đem vào vận dụng trong đời sống sản xuất, giúp đỡ con người trong các hoạt
động hàng ngày; con đường cách mạng của ta có tiến bộ và ưu việt đến mấy nhưng
khơng có người làm, khơng có người theo, khơng có người nhận ra sự đúng đắn của
14


nó thì dù Bác Hồ của chúng ta có tun truyền, kêu gọi đến nhường nào thì cũng chỉ
là vơ nghĩa! ...
3.2.4 Ý thức hướng dẫn, chỉ đạo con người trong hoạt động thực tiễn
Ý thức bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau, đó là tri thức, tình cảm, ý chí, tiềm
thức, hồi bão, nhu cầu, ước mơ, …Cho nên, khi ta nói ý thức hướng dẫn con người
trong hoạt động thực tiễn tức là nhằm giải thích cho việc ý thức trang bị cho con
người những tri thức về thực tại khách quan, giúp con người xác định được mục tiêu,
phương hướng, công cụ để đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, sẽ rơi vào chủ
nghĩa duy tâm nếu chúng ta khuếch đại quá mức vai trò của ý thức, nâng tác dụng của
ý thức lên tới mức nói rằng có những trường hợp ý thức quyết định vật chất. Tư duy
đó là sai lầm vì ý thức khơng bao giờ quyết định vật chất, nó chỉ có thể quyết định
hành động của chúng ta đúng hay sai với những quy lật của hiên thực khách quan.
Còn trong toàn bộ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì bao giờ và bất cứ lúc nào
vật chất cũng quyết định ý thức cả!
Nói đến đây, sẽ có nhiều thắc mắc: Liệu có mâu thuẫn và rơi vào chủ nghĩa duy tâm

hay khơng khi nhiều người nói “cơng tác tư tưởng đóng vai trị quyết định, quan
trọng hàng đầu trong mọi đường lối, chính sách”. Giải thích cho vấn đề này, cố tổng
bí thư Lê Duẩn đã khẳng định rằng “nói cơng tác tư tưởng đi đầu, nghĩa là khi con
người làm việc gì thì cũng phải có ý thức về việc đó, phải có lí luận về việc đó, phải
có quan điểm và lập trường về vấn đề đó”. Cùng một vấn đề nhưng người đứng trên
lập trường này thì vận dụng lí luận theo kiểu này, đi đến kết luận này; người trên lập
trường khác vận dụng lí luận theo kiểu khác và dẫn tới kết luận khác…Như vậy, tư
tưởng phải phục tùng các quy luật khách quan nhưng đồng thời nó cũng phải chủ
động. Hai cái đó khơng mâu thuẫn mà thống nhất với nhau. Sự phát triển của lịch sử
là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa những nhân tố khách quan và nhân tố
chủ quan, nếu ta cường điệu tác dụng của tư tưởng, cho tư tưởng là vạn năng, tách tư
tưởng ra khỏi thực tế khách quan thì dễ rơi vào duy tâm, ngược lại, nếu ta không thấy
được tính chủ dộng của tư tưởng cho tư tưởng lệ thuộc hồn tồn vào hiện thực thì sẽ
rơi vào chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Lấy ví dụ, nếu khơng có đường lối
15


lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Bác Hồ, Dân tộc Việt Nam sẽ khó mà
đánh đổ được hai kẻ thù mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như Lê-nin đã
từng nói: “Khơng có lí luận cách mạng thì cũng khơng có phong trào cách mạng”
hay thực tế hiện nay cho thấy, đối với các bạn sinh viên, do ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid-19 mà không thể đến trường, phải học online qua máy tính, điện thoại, nếu lấy
lí do điều kiện cơ sở vật chất khó khăn để giải thích cho việc lười biếng, khơng tập
trung cho việc học tập thì hồn tồn khơng đúng vì khó khăn là khó khăn chung, việc
bản thân mình có thể thu nhận kiến thức hay khơng là phụ thuộc rất lớn vào chính ý
thức, tư duy của mỗi người. Nếu biết cố gắng, có ý thức cao trong học tập thay vì chỉ
học cho có, học qua loa để điểm danh thì hồn tồn có thể có những kết quả tốt như
mong đợi. Như vậy có thể thấy, điều kiện khách quan là nhân tố quyết định đến nhận
thức nhưng chính nhận thức cũng phải có tính chủ động để phù hợp, thích nghi với
từng điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn!

3.2.5 Ý thức tác động lại vật chất theo hai xu hướng: tích cực và tiêu cực
Về mặt tích cực, một khi ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, nó sẽ góp
phần thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển đông thời khi đó, con người cũng sẽ
hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về bản chất quy luật quy luật vận động của thế giới vật
chất để từ đó định hướng được hành động cho chính bản thân mình trong qua trình
sản xuất và cải tạo xã hội. Minh chứng cho điều này, có thể lấy ví dụ về nền kinh tế
Việt Nam: từ nhận thức đúng đắn về thực tại nền kinh tế của đất nước những năm sau
khi vừa giành độc lập (1975-1986), đó là nền kinh tế tập trung bao cấp trì trệ, thiếu
linh hoạt, tự cung tự cấp khiến cho nhiều mặt của đất nước, xã hội đi xuống, đời sống
nhân dân khổ cực thì Đảng và nhà nước ta, sau khi tiến hành đại hội 6 đã quyết định
đổi mới đất nước, thực hiện chính sách kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu với các
nước bên ngoài và thành tựu là sau hơn 30 năm, đất nước ngày càng phát triển, đời
sống nhân dân ngày một cải thiện và nâng cao. Đó là một quyết định vơ cùng sáng
suốt của Đảng ta, có thể thấy, từ việc ý thức, nhận thức được sự cần thiết của cơng
cuộc đổi mới, Việt Nam đã và đang có những chính sách hiệu quả để thúc đẩy phát
triển kinh tế, tiến đến hoàn thành mục tiêu đi lên Xã hội chủ nghĩa.
16


Về mặt tiêu cực, ý thức một khi bị điều hướng một cách lệch lạc, không phản ánh
đúng hiện thực khách quan có thể sẽ kìm hãm con người trong hoạt động thực tiễn,
cản trở bước tiến của xã hội loài người. Một thực trạng cho thấy, một bộ phận sinh
viên hiện nay, do sống xa gia đình, chưa có nhiều kinh nghiệm sống, chưa ý thức
được hành động của chính mình nên dễ dàng bị kẻ xấu lợi dụng, bỏ bê học tập, đua
địi theo những thứ viển vơng, khiến bản thân sa sút và quên đi những ước mơ, hoài
bão mà bản thân đã đặt ra khi bước vào cánh cửa đại học, quên đi những người thân
yêu nhất như cha mẹ, ông bà, thầy cô - những con người tâm huyết, luôn tin tưởng,
động viên chúng ta trong học tập, gửi gắm cho chúng ta những mục tiêu tươi sáng,
mong chúng ta trưởng thành, quên đi nhiệm vụ của sinh viên là phải ra sức thi đua
học tập, tích lũy những kỹ năng, kinh nghiệm để bước vào đời, trở thành con người có

ích cho đất nước và xã hội,…Những trường hợp trên thể hiện cho sự sai lầm về nhận
thức, là những biểu hiện thật đáng phê phán, chê trách!
Tựu trung lại, sự tác động của ý thức tới vật chất cũng có hai mặt của nó, sẽ là tích
cực và có xu hướng cải tạo thế giới vật chất nếu ta có ý thức tốt tức là có nhận thức,
suy nghĩ, hồi bão, ước mơ, lí tưởng sống tốt. Và sẽ là tiêu cực nếu nó tác động ngược
lại quy luật thế giới vật chất, làm kìm hãm sự tiến bộ của thế giới khách quan, khiến
cho con người đưa ra những quan điểm sai lầm, lệch lạc và sớm muộn cũng dẫn tới
thất bại! Như vậy, với vai trò là yếu tố quan trọng bậc nhất của thế giới, con người
phải sáng suốt, tự ý thức được việc mình làm để tránh đi ngược với thực tại và đánh
mất những cơ hội để thành cơng!
3.2.6 Xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay
Thật vậy, trên cơ sở những cái có trước, ý thức có khả năng tạo ra những tri thức mới
về sự vật, có thể tượng tưởng ra cái khơng có trong thục tế, có thể tiên đốn, dự báo
tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lí thuyết
khoa học trừu tượng có tính khái qt rất cao, đó là tri thức khoa học. Đứng trước thế
kỉ 21 - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi
sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt
17


ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả thế giới
đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật
Khoa học-Công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức
mà không qua kinh tế cơng nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là
phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt
động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực nào đó.
Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào
trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội, trở thành tiền đề, cơ sở cho mọi sự
tiến bộ của xã hội loài người.

4.

Ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo chủ
nghĩa duy vật

Tựu trung lại, xem xét trên góc độ khách quan, ta thấy được những hạn chế nhất định
của chủ ngĩa duy vật chất phác và siêu hình đồng thời thấy được sự tiến bộ vượt trội
của chủ nghĩa duy vật biện chứng khi giải thích về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Từ lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chúng ta nhận ra rằng: Trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn, luôn luôn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
khách quan và hành động tuân theo quy luật khách quan tức là luôn luôn phải xem xét
điều kiện vật chất hiện có, dựa vào điều kiện vật chất để xác định mục tiêu, phương
hướng cảu hành động. Nếu làm trái quy luật, ta chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại đồng
thời mọi quan niệm, chủ trương, chính sách, cơ chế, thể chế nếu không xuất phát từ
thực tế khách quan thì ngay lập tức sẽ bị rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Mặt khác,
một khi đã xem xét điều kiện thực tế thì phải xem xét một cách cụ thể, tỉ mỉ, không
qua loa, đại khái để khi vận dụng vào công việc và đời sống sẽ gây ra những hiểu biết
không đầy đủ dẫn đến hoạt động mất đi tính hiệu quả thậm chí là thất bại. Ông bà ta
vẫn có câu “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” hay “trăm nghe không bằng mắt
thấy”, đừng cưỡi ngựa xem hoa, làm gì cũng cần phải cẩn thận, chắc chắn thì mới
mong đạt được thành quả. Đồng thời, cũng phải biết phát huy tính năng động chủ
quan tức là phát huy vai trị tích cực của ý thức, vai trò của nhân tố con người. Bản
thân ý thức nó khơng thay đổi được hiện thực mà phải thông qua hoạt động thực tiễn
18


của con người thì mới góp phần cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Hơn thế nữa, cần phải
chống căn bệnh chủ quan, duy ý chí, lấy ý kiến chủ quan làm điểm xuất phát thì con
người mới khơng bị thất bại, không bị mắc kẹt đằng sau sự phát triển của thế giới vật
chất!

III.
1.

Bài học rút ra từ mối quan hệ vật chất và ý thức
Đối với sinh viên hiện nay
Ln ln nỗ lực, cố gắng hồn thiện bản thân. Không bao giờ được phép chịu

đầu hàng trước những khó khăn vất vả, cũng như khơng bao giờ phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế của gia đình vì điều kiện sống sẽ quyết định nhân cách, lối sống của con
người và rèn luyện cho mình tinh thần bền vững trước những thay đổi của xã hội. Để
thực hiện được điều đó, sinh viên phải khơng ngừng học tập, nghiên cứu. Học ở thầy
cô, học ở bạn bè, học trong sách vở, học qua mạng và quan trọng hơn hết là phải tự
học, tự ý thức, không dựa hơi người khác, bản thân phải độc lập, tự chủ thì thành cơng
mới thực sự là của chính mình. Hơn nữa, sinh viên cần biết tiếp thu có chọn lọc những
tiến bộ về văn hóa, kinh tế, xã hội nhưng khơng được đánh mất bản sắc của chính
mình vì bản sắc là thứ tạo nên sự khác biệt, tạo nên chất riêng của mỗi người. Mặt
khác, sinh viên xây dựng cho mình một tác phong cơng nghiệp tức là phải nhanh
nhẹn, thức thời, nhạy bén nhưng không đồng nghĩa với hành động máy móc, khơng có
chính kiến, hãy ln đưa ra quan điểm cá nhân để được góp ý và hồn thiện. Học đi
đôi với hành, sinh viên là thế hệ trẻ, là tương lai của đất nước, vì vậy, là một sinh
viên, ta cần phải năng động hơn nữa, sáng tạo hơn nữa để góp phần xây dựng tương
lai cho chính mình và cho đất nước
2. Đối với bản thân
Nhận thức được vai trò của yếu tố khách quan, bản thân em nhận ra rằng, bản thân
mình cần tham gia nhiều hoạt động xã hội bổ ích hơn nữa bên cạnh việc học tập để
tích lũy kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc và những kỹ năng cần thiết phục vụ
tương lai sau này. Thêm vào đó, em thấy chính mình phải loại bỏ những suy nghĩ chủ
quan, tiêu cực, sống và học tập hết khả năng, khơng phí thời gian vào những trị vơ bổ
đồng thời biết ý thức xây dựng, lối sống có văn hóa, cộng đồng lành mạnh, xã hội văn
minh.

19


3.

Đối với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước

Với những chính sách phát triển thích hợp chúng ta đã được một số bước tiến quan
trọng ,bình thường hố quan hệ Việt -Mĩ ,là thành viên của khối Asean ,đặc biệt 1998
nước ta đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái
Bình Dương)… Từ chỗ bị bao vây cấm vận đến nay nước ta đã quan hệ ngoại giao
với 167 nước ,quan hệ thương mại với 120 nước ,phát triển quan hệ tốt đẹp với các
nước láng giềng .Đó là ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững mơi trường hồ bình ổn
định ,là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới là công
cuộc khó khăn, địi hỏi đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lịng tin, quyết tâm
khắc phục khó khăn, đơng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế
biến đổi từng ngày từng giờ và đặc biệt là toàn dân phải cùng hành động, cùng cố
gắng thì con đường đi đến sự phát triển mới được rút ngắn lại. Em tin chắc rằng, với
truyền thống yêu nước sâu săc cùng tinh thần đoàn kết bề vững, Việt Nam sẽ làm
được, sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành định hướng đất nước Xã hội
chủ nghĩa phát triển.
B.

MỤC TIÊU 10 NĂM SAU VÀ CƠ SỞ KHÁCH QUAN-CHỦ QUAN ĐỂ

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHO BẢN THÂN
I.
Mục tiêu của bản thân 10 năm sau
Dựa vaò những điều kiện khách quan và chủ quan, bản thân em tự đặt ra cho mình
một mục tiêu đó chính là 10 năm nữa, em sẽ có một cơng việc và cuộc sống ổn định

tại chính q hương mình, đó là Nghệ An. Thứ nhất, thế nào là ổn định: Đối với chính
bản thân em, khái niệm ổn định có nghĩa là mình tự chủ được cuộc sống bao gồm các
vấn đề về tài chính, gia đình và các mối quan hệ xã hội khác. Sẽ không phải dựa dẫm
hay phụ thuộc vào bố mẹ hoặc bất cứ người nào cả mà chính mình phải xây dựng cho
mình một sự nghiệp riêng, một vị trí nhất định cơng việc. Em khơng mong ước trở
thành doanh nhân giàu có, càng khơng mong ước trở thành người quyền cao chức
trọng khiến mọi người phải ghen tỵ vì đối với bản thân em, có một vị trí nhất định
trong chính ngành nghề của mình là khi được làm đúng việc, làm hết mình để được
mọi người công nhận và như thế là đã quá thành công cho những nỗ lực cũng như cố
20


gắng của bản thân. Để làm được điều đó chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì tương
lai là điều không thể biết trước, những biến cố bất ngờ trong cuộc sống hồn tồn có
thể làm thay đổi mục tiêu của con người. Thứ hai là về công việc mà em chọn, bản
thân học ngành Marketing là ngành rất thú vị, cần nhiều sự sáng tạo, linh hoạt trong
từng hồn cảnh vì đây là ngành có tiềm năng rất lớn trong xã hội hiện nay, ngành địi
hỏi chính mình phải thực sự am hiểu thị trường, sản phẩm và khách hàng. Mười năm
nữa, tin chắc một điều rằng, khi Việt Nam là một nước công nghiệp hiện đại, tiên tiến
thì ở bất cứ đâu, bất cứ ngành nghề nào cũng có thể trở thành mục tiêu về lâu về dài
để theo đuổi. Có thể bây giờ em chưa hiểu hết về ngành nghề của mình nhưng hy
vọng sau bốn năm được đào tạo tại đại học Kinh Tế-Luật, trường sẽ trang bị những
kiến thức, kỹ năng để bản thân có thể làm việc đúng sở trường, chun mơn, tự phát
huy được những khả năng của mình, góp phần nhỏ bé cho sự phát triển của quê
hương, đất nước. Thứ ba, lí do tại sao em lựa chọn Nghệ An thay vì Thành phố Hồ
Chí Minh hay bất kì một thành phố phát triển nào khác như Hà Nội, Đà Nẵng, Cần
Thơ, … đơn giản là vì em muốn được góp một phần nhỏ cho mảnh đất nơi đã sinh ra,
ni dưỡng mình. Thực tế cho thấy là dù có đi đâu, làm gì thì sau cùng, ai cũng muốn
được trở về quê hương, trở về nơi mà mình đã ra đi để lập nghiệp, làm ăn bươn chải,
vậy thì tại sao khơng đặt cho mình mục tiêu đó là tạo dựng sự nghiệp ngay trên chính

q hương vì ở đâu thì cũng là trên đất Việt Nam, làm giàu cho quê hương cũng chính
là làm giàu cho đất nước.Hơn nữa, quan điểm của em là không để cơ hội tự tìm đến
mà phải biết tạo ra cơ hội thì khi đó thành cơng mới thực sự trọn vẹn, cũng như việc
biến Nghệ An trở thành cơ hội để thành cơng và khơng mong tìm kiếm thành cơng tại
nơi mà đã có sẵn quá nhiều cơ hội như Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh…nó sẽ đóng vai
trị là những nơi giúp mình trau dồi kinh nghiệm, kỹ năng, kiến thức để hiện thực hóa
mục tiêu ban đầu! Cuối cùng, kế hoach để em thực hiện mục tiêu trên là cố gắng hồn
thành chương trình học nhanh và hiệu quả nhất có thể để sớm được vận dụng những
kiến thức mình đã học vào thực tế, vào nghề mà mình đã theo đuổi. Đồng thời, em sẽ
lựa chọn TP Hồ Chí Minh là nơi để bắt đầu, là nơi sẽ giúp ích rất nhiều trong việc trau
dồi những kỹ năng, kinh nghiệm, bản lĩnh để làm chủ được lựa chọn, quyết định sau
21


này vì đây là trung tâm kinh tế-văn hóa lớn nhất của cả nước, là thành phố với rất
nhiều dạng khách hàng tiềm năng. Và sau cùng, khi đã tích lũy đủ kinh nghiệm và
kiến thức, em sẽ mang những thứ mà mình có được về phục vụ, đóng góp cho q
hương mình. Nghe khơng thì rất dễ nhưng thực ra lại không hề đơn giản, ban đầu chắc
chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là việc mình phải tự tìm kiếm cơ
hội để thành công, phải nghiên cứu lại thị trường, khách hàng, … nhưng em tin chắc
rằng, chỉ cần tin tưởng vào bản thân mình, tin vào những gì mình đã được dạy qua
II.

-

trang sách, trang đời thì mọi chuyện đêu có thể thành công!
Cơ sở, yêu cầu khách quan và chủ quan để xây dựng kế hoạch thực hiện mục
tiêu
1. Cơ sở khách quan
Yếu tố xã hội: những năm trở lại đây, thực hiện chính sách nhằm phát triển nền kinh

tế tri thức hiện đại, Nghệ An bắt đầu lựa chọn cách tiếp cận mới, phù hợp với xu thế
của đất nước đó là “đột phá phát triển”: Phát triển kinh tế theo định hướng công nghệ
cao trên cơ sở phát huy tiềm năng về nhân lực-trí tuệ, ưu tiên phát triển đơ thị, định
hướng trong vịng 10 năm tới sẽ biến thành phố Vinh trở thành trung tâm kinh tế khu
vực Bắc Trung Bộ theo đúng nghĩa đồng thời là một đô thị thông minh, trung tâm đào
tạo nhân lực chất lượng cao đẳng cấp khu vực và quốc tế, tiềm năng đó chính là cơ sở
để bản thân em có động lực để thực hiện ước mơ, mục tiêu của chính mình! Khơng
chỉ có vậy, Nghệ An đã và đang thực hiện chính sách thu hút nhân tài nhằm bổ sung
nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh, điều đó có nghĩa là một khi mình thực sự giỏi
về kiến thức, nhuần nhuyễn về kỹ năng thì khơng có lí do gì để mình đánh mất những

-

cơ hội, sự hỗ trợ tốt nhất từ tình nhà!
Đặc thù nghề nghiệp: Ngành mà bản thân em đang theo đuổi là Marketing, nghề mà
hiện nay đang thu hút rất nhiều người trẻ. Đem những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất, thể
hiện vai trò trong việc định hướng nhu cầu của khách hàng là đặc thù Marketing.
Trong viễn cảnh 10 năm nữa, chắc chắn, khơng có bất cứ doanh nghiệp, cơng ty nào
là khơng cần bộ phận Marketing để giúp họ định hướng nhu cầu của khách hàng, mặt
khác, với tình hình đơ thị hóa chóng mặt như hiện nay thì bất cứ đâu cũng là cơ hội tốt

22


để mình thể hiện khả năng, chỉ cần có đam mê, nhiệt huyết, tận tụy với nghề thì khơng
-

sớm thì muộn, chắc chắn sẽ thành cơng, thậm chí cịn vượt ngồi mong đợi.
Gia đình: Gia đình là một trong những yếu tố quan trọng nhất để em có mục tiêu như
vậy. Sinh ra trong một gia đình thuần nơng, bố mẹ quanh năm vất vả bên ruộng vườn

nhưng vẫn luôn luôn đặt niềm tin vào con cái, vẫn gắng sức vất vả tảo tần lo cho mấy
chị em ăn học đầy đủ, bản thân em tự nhận thấy mình từ trước đến nay chưa giúp gì
được cho bố mẹ, thậm chí cịn thường xun làm bố mẹ phải buồn, thực sự là rất đáng
trách, không thể chấp nhận được. Là con cả, bản thân em ý thức được rằng, mình sẽ là
người đi đầu, là người phải đỡ đần bố mẹ chăm sóc các em, mình phải thành cơng.
Mà nếu muốn thành công, nếu muốn được gần bố mẹ và các em thì phải nỗ lực nhiều
hơn nữa, khắt khe với chính mình hơn nữa, nghiêm túc hơn nữa trong học tập và rèn
luyện. Đó chính là lí do thơi thúc em phải tăng tốc, phải vươn lên thật mạnh mẽ để

-

thành cơng trên con đường mình đã chon!
Các yếu tố khác: Một yếu tố nữa có thể kể đến đó là văn hóa và con người xứ Nghệ.
Mỗi vùng có một nền văn hóa khác nhau, điều đó tạo nên sự đa dạng phong phú cho
đất Việt, người miền Nam dễ thương, xởi lởi; người miền Bắc lịch lãm, tinh tế, người
miền Trung thật thà, chất phác nhưng không hiểu vì lí do gì, mỗi lần nghe người
Nghệ-Tĩnh nói chuyện, em lại thấy rất thân thuộc và thích thú. Có thể chỉ mới là sinh
viên năm nhất nên vẫn chưa thể quen với lối sống của người thành phố nhưng mỗi lần
nhớ về quê hương, em lại cảm thấy rất xúc động và muốn trở về thật nhanh. Không có
nhiều trang thiết bị hiện đại, khơng có nhiều trung tâm giải trí, con người cũng khơng
náo nhiệt nhưng cái chất “q” vẫn ln là thứ mà chính em khơng thể nào ngừng
nhớ, khơng thể nào ngừng suy nghĩ. Có lẽ, việc bản thân quá quen và quá hiểu tính
cách của một người sẽ khiến mình làm việc dễ dàng hơn, trao đổi thoải mái hơn, tiếp

-

cận vấn đề cũng sẽ nhẹ nhàng hơn!
2. Cơ sở chủ quan
Nhận thức: Thứ nhất theo quan điểm của em thì trong vịng mươi năm nữa, đất nước
đã đạt đến một sự phát triển mới về kinh tế, văn hóa, khoa học thì ở ddaaau, làm gì

miễn là đủ tự tin, đủ kiên nhẫn, cố gắng thì đều có thể thành cơng. Thứ hai, cuộc sống
càng q đầy đủ, giàu có thì bản thân lại vơ tình đánh mất đi những khoảng thời gian
23


đáng nhớ bên những người mình yêu quý, trân trọng cho nên đó là lí do em chỉ mong
có một cuộc sống ổn định, đủ sức lo cho bản thân, gia đình và khơng khiến mình bị
cuốn vào vịng xốy của đồng tiền, danh vọng để tận hưởng những khoảnh khắc hạnh
phúc nhất bên bạn bè, người thân. Cuộc sống này chỉ có một, đến khi sắp đánh mất
một thứ gì đó mới biết u, biết q thì đã q muộn, vì vậy, em ln suy nghĩ rằng,
mình phải sống sao cho xứng đáng, sống khơng lãng phí bất kì khoảnh khắc nào để
-

làm những gì mình thích và bên cạnh những người thân yêu nhất!
Tính cách: Em tự nhận mình là một người sống hướng nội, xu hướng của cuộc đời em
là tìm kiếm những gì vốn thân thuộc, gần gũi với mình. Đó là một trong những lí do
em chọn Nghệ An, chọn được trở về bên gia đình và người thân, được cống hiến cho
mảnh đất đã sinh ra mình. Nhiều người vẫn cho rằng với tính cách này mà lại học Mar
keting thì chắc khó mà thành cơng. Ít nói, khá rụt rè là những điều mà mọi người vẫn
thường thấy ở em. Nhưng quan trọng là em thích cơng việc này, và một khi quyết tâm
làm việc gì, em phải làm cho kì được. Để đạt được mục tiêu, em khơng ngại khó
khăn, khơng ngại đưa ra quan điểm, không thể biết trước rằng liệu bản thân em có
thành cơng với ngành này hay khơng nhưng một điều tin chắc rằng, em sẵn sàng chấp
nhận thử thách để đạt được mục tiêu và sẽ không khiến mọi người xung quanh phải

-

thất vọng vì lựa chọn của mình.
Năng lực: Một cách chủ quan, khó có thể đánh giá năng lực của chính bản thân mình
nhưng có một điều em có thể thấy ở mình đó là có tinh thần chung, tức là một khi đã

được giao nhiệm vụ thì sẽ cố gắng hồn thành nhiệm vụ tốt nhất có thể. Khơng phải
tự khen mình nhưng đó có lẽ là một năng lực có ích cho cơng việc địi hỏi phải có sự
hợp tác cao như marketing.
Kết luận: Tất cả những gì em nêu ở trên hồn tồn là sự thật, đó là mục tiêu cả đời của
bản thân em. Khơng hứa trước được điều gì nhưng em sẽ cố gắng gấp ngàn lần để
hoàn thành mục tiêu sớm nhất có thể. Trước đó, em sẽ chăm chỉ hơn, nỗ lực hơn trong
học tập và rèn luyện để có kết quả cao, khơng phụ lịng bố mẹ, thầy cô. Đồng thời, em
sẽ khắc phục những hạn chế của bản thân, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để
nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử và làm việc, sống hòa đồng hơn với mọi
24


người để tạo dựng nên nhiều mối quan hệ trong xã hội và học tập được thêm nhiều
kiến thức thực tế bổ ích phục vụ cơng việc và q trình chinh phục ước mơ của đời
mình!

PHẦN 3: TỔNG KẾT
Nói đi vẫn phải nói lại, một lần nữa chúng ta cần phải thừa nhận mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thơng qua mối
quan hệ đó, chúng ta cần phải chủ động vận dụng chúng vào thực tế khách quan, áp
dụng vào đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người. Có như vậy, lí luận triết học
trên đây mới thực sự có ý nghĩa, mới chứng tỏ được vai trị của nó trong việc định
hướng, xây dựng mục tiêu cá nhân cũng như sự phát triển của thế giới. Lý thuyết một
khi được vận dụng tích cực và có hiệu quả sẽ khơng cịn là lí thuyết sng, làm được
điều đó thực sự khơng hề dễ. Nó đòi hỏi con người phải nắm được căn nguyên của
25


×