Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hòa thượng thích quảng đức với phong trào phật giáo miền nam việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SƯ PHẠM
***********

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
HỊA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC VỚI PHONG TRÀO
PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Hồng Hà Phương

Lớp

: D17LS01

Khoá

: 2017 - 2021

Ngành

: Sư phạm lịch sử

Giảng viên hướng dẫn

: Nguyễn Văn Tiến

Bình Dương, tháng 11/2020



TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SƯ PHẠM
***********

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
HỊA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC VỚI PHONG TRÀO
PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Hồng Hà Phương

Lớp

: D17LS01

Khoá

: 2017 - 2021

Ngành

: Sư phạm lịch sử

Giảng viên hướng dẫn

: Nguyễn Văn Tiến


Bình Dương, tháng 11/2020
i


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan báo cáo tốt nghiệo này là cơng trình nghiên cứu của
bản thân dưới sự hướng dẫn của Th.S Nguyễn Văn Tiến. Các số liệu và nội
dung trong bài báo cáo là trung thực, khách quan dựa trên kết quả nghiên cứu,
phân tích tổng hợp, so sánh và đánh giá từ thực tiễn. Những tài liệu, thông tin
tham khảo đảm bảo đã được công bố, chính thống và được bản thân trích dẫn
theo đúng quy cách hướng dẫn trình bày báo cáo tốt nghiệp của Trường đại
học Thủ Dầu Một
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Bình Dương, ngày 16 tháng 11 năm 2020
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hồng Hà Phương

ii


Lời cảm ơn
Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà khồn gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ của người khác, dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện báo cáo, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
rất lớn từ các cá nhân và tập thể.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành đến Th.S Nguyễn Văn Tiến,
người đã nhiệt tình hướng dẫn tơi trong q trình thực hiện báo cáo, cảm ơn
thầy đã hổ trợ về mặt chuyên môn và động viên tinh thần để tôi hoàn thành
báo cáo này

Xin trân trọng cảm ơn các thầy cơ giảng viên Khoa Sư phạm, đã tận tình
giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi cho
tơi trong suốt q trình học tập, thư viện trường Đại học Thủ Dầu Một đã giúp
đỡ cho tơi trong việc tìm kiếm tài liệu.
Mặc dù cố gắng để thực hiện báo cáo một cách hoàn chỉnh nhất nhưng sẽ
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của q thầy, cơ, để báo cáo được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

iii


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 3
3. Đóng góp của đề tài ................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 4
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8
7. Bố cục đề tài............................................................................................ 8
B. Phần nội dung .......................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG PHONG TRÀO PHẬT
GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM NĂM 1963 ............................................ 9
1.1 BỐI CẢNH TRONG NƯỚC................................................................ 9
1.2 TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM .......................... 13
CHƯƠNG 2. PHONG TRÀO PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM
1963 .......................................................................................................... 21
2.1 PHONG TRÀO PHẬT GIÁO NĂM MIỀN NAM VIỆT NAM NĂM
1963 ....................................................................................................... 21

2.1.1 Chính sách của Ngơ Đình Diệm đối với Phật giáo miền Nam Việt Nam
............................................................................................................... 21
2.1.1.1 Chính sách kỳ thị tơn giáo, tín ngưỡng của chính quyền Ngơ
Đình Diệm .......................................................................................... 21
2.1.1.2 Chính sách đàn áp tơn giáo của chính quyền Ngơ Đình Diệm: 25
2.2 ẢNH HƯỞNG CỦA PHONG TRÀO PHẬT GIÁO NĂM 1963 ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ MIỀN NAM VIỆT NAM ....... 29
2.2.1 Phản ứng của Phật giáo đối với chính quyền Ngơ Đình Diệm .... 32
2.2.2 Vai trị chính trị - xã hội của Phật giáo trong sự sụp đổ củ chế độ
Ngô Đình Diệm ................................................................................... 38
CHƯƠNG 3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ VAI TRỊ CỦA HỊA THƯỢNG
THÍCH QUẢNG ĐỨC VỚI PHONG TRÀO PHẬT GIÁO MIỀN NAM
VIỆT NAM NĂM 1963 ........................................................................... 41
3.1 GIỚI THIỆU VỀ HỊA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC, NHỮNG
ĐĨNG GĨP CHO NỀN PHẬT GIÁO ................................................... 41
3.1.1 Giới thiệu về Hòa thượng Thích Quảng Đức .............................. 41
iv


3.1.2 Đóng góp của Hịa thượng Thích Quảng Đức ............................. 42
3.2 NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG ĐỨC ............................................... 45
3.3 BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG ĐỨC ........ 48
TỔNG KẾT ................................................................................................ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 57
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH................................................................................ vi

v


A. Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc đấu tranh giữ nước
vĩ đại, chống lại các thế lực xâm lược mạnh hơn nhiều lần, thắng lợi cuối
cùng vẫn thuộc về dân tộc Việt Nam. Để giành được thắng lợi là tổng hòa các
yếu tố làm nên sức mạnh của dân tộc của Việt Nam đó là lịng u nước, tinh
thần đấu tranh anh dũng của nhân dân và đường lối lãnh đạo đúng đắn, trong
đó khơng thể khơng nhắc đến những nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ đất nước đặc biệt hơn khi lịch sử dân tộc Việt Nam
luôn gắn liền với Phật giáo. Hịa thượng Thích Quảng Đức là một nhân vật
lịch sử, một vị tăng Việt Nam của thế kỷ XX được xưng tụng và ca ngợi là
một vị Bồ - tát xả bỏ thân mạng để cứu nguy cho dân tộc và đạo pháp cũng
như làm rạng rỡ cho Phật giáo Việt Nam. Người đã tẩm xăng tự thiêu tại ngã
tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, Sài Gòn vào ngày 11 tháng 6
năm 1963 nhằm phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam
Cộng hịa Ngơ Đình Diệm, làm cho Phật tử Việt Nam kính ngưỡng mà cả thế
giới đều ngạc nhiên và kính phục trước hành động đó. Trải qua gần nữa thế
kỷ, tên tuổi của của Ngài đã viết thành sách và khắc trên đá, Phật giáo đồ đã
và đang xây dựng nhiều cơng trình và tượng đài để tưởng niệm đến cơng ơn
của Ngài. Trong suốt q trình hiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật
giáo Việt Nam phải đối diện với những đe dọa và thách thức trầm trọng như
gần bốn mươi năm giữa thế kỷ XX. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu
tác động của những cuộc khủng hoảng lớn, phải đối mặt suốt gần một thập
niên với chính sách đàn áp, tiêu diệt có hệ thống của chính quyền Ngơ Đình
Diệm. Khởi đầu bằng một mùa Phật đản tang thương và kéo dài cho đến mùa
Đông năm 1963, tại miền Nam Việt Nam đã xãy ra một biến cố bi hùng làm
chấn động lương tâm nhân loại và để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử
dân tộc. Biến cố đó là sự sụp đổ của chế độ Ngơ Đình Diệm. Trong suốt 8
1



năm, Phật giáo đã bị kì thị, đàn áp, khống chế, thậm chí bị tiêu diệt trong hầu
hết mọi lĩnh vực sinh hoạt quần chúng cũng như công quyền tại miền Nam.
Từ luật pháp đến chính trị, từ giáo dục đến an ninh, từ kinh tế đến thương
mại, từ nông nghiệp đến xã hội, từ quân đội đến hành chính... và đặc biệt
trong lãnh vực tơn giáo thì chính quyền dùng đủ mọi biện pháp để khống chế
và tiêu diệt đến tận cùng. Mặc những lời kêu than, những lời phản đối khơng
những của Phật giáo đồ mà cịn của đông đảo các thành phần nạn nhân khác
nhân dân miền Nam. Sau những biến cố từ trước đó Phật giáo Việt Nam lại
một lần nữa phải đối diện và giải quyết những thách thức sống cịn của mình.
Lần này, giải pháp là vừa để khẳng định được sự tồn vong trước một sách
lược tiêu diệt có hệ thống ở cấp độ quốc gia. Vào dịp lễ Phật Đản ngày 08
tháng 05 năm 1963, lấy cớ Phật tử treo cờ Phật giáo, anh em Diệm – Nhu với
chính sách của Ngơ Đình Diệm và Ngơ Đình Thục... đã thẳng tay đàn áp Phật
giáo, tôn giáo đồng hành cùng dân tộc từ thời lập nước. Sự kiện 1963 này
được gọi là Pháp nạn Phật giáo 1963 với việc vị pháp thiêu thân của Hịa
thượng Thích Quảng Đức vào ngày 11 tháng 06 năm 1963 là giọt nước tràn ly
của lòng phẫn nộ. Chính vì vậy phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
năm 1963 diễn ra đều khắp các địa phương miền Nam từ bờ nam sông Bến
Hải đến Cà Mau, nhất là ở các đô thị mặc dù quy mô và cường độ khác nhau.
Nhìn chung, phong trào đấu tranh của Phật giáo ở miền Nam Việt Nam năm
1963 đã nhanh chóng thu hút đơng đảo quần chúng tham gia và cuộc đấu
tranh đã nhanh chóng góp phần làm suy yếu chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Các chính sách bất bình đẳng về tôn giáo cùng các hành động đàn áp Phật
giáo trong nước bị dư luận trong nước và thế giới lên án. Nhìn chung phong
trào đấu tranh của Phật giáo ở miền Nam Việt Nam năm 1963 đã thu hút đông
đảo quần chúng tham gia và cuộc đấu tranh đã nhanh chóng góp phần làm suy
yếu chính quyền Ngơ Đình Diệm. Các chính sách bất bình đẳng về tơn giáo
cùng các hành động đàn áp Phật giáo trong nước bị dư luận trong nước và thế
giới lên án . Trên thực tế, ngon lửa của Hịa thượng Thích Quảng Đức có tầm
quan trọng vơ cùng lớn lao trong việc chuyển biến mạnh phong trào Phật giáo

2


miền Nam năm 1963 sang một chuyển biến khác trên cả hai mặt trong nước
và quốc tế. Với lí do trên tơi chọn đề tài “ Hịa thượng Thích Quảng Đức với
phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “ Hịa thượng Thích Quảng Đức với phong trào Phật giáo miền
Nam Việt Nam” phân tích làm rõ bối cảnh của Việt Nam giai đoạn 1963 từ đó
thấy được mục đích của các chính cai trị của chính quyền Ngơ Đình Diệm và
đặc biệt là các chính sách về tơn giáo đặc biệt là chính sách chèn ép các tơn
giáo khác ngồi Cơng giáo điển hình là Phật giáo. Chính vì vậy dẫn đến sự
phẫn nộ trong lòng nhân dân và tăng ni, Phật tử. Để đòi lại những quyền lợi
cho Phật giáo các cuộc đấu tranh đã nổ ra và với tính chất đấu tranh của Phật
giáo là bất bạo động đã diễn ra rất nhiều cuộc biểu tình của học sinh, sinh
viên. Trong số những cuộc đấu tranh đó tiêu biểu nhất là sự kiện Hịa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu có tầm quan trọng lớn lao trong việc làm suy yếu
đi của chính quyền Ngơ Đình Diệm. Những đàn áp, tra tấn và thủ tiêu, những
cuộc bầu cử gian lận, những cuộc giam giữ trái phép đối với mọi thành phần
đối lập đã làm cho quần chúng phẫn nộ.
3. Đóng góp của đề tài
Đối với đề tài “ Hịa thượng Thích Quảng Đức với phong trào Phật giáo
miền Nam Việt Nam” thấy được đóng góp của Phật giáo ở miền Nam:
- Hịa thượng Thích Quảng Đức đấu tranh chống lại chế độ phản động
Ngơ Đình Diệm
- Chống lại chính sách kì thị tơn giáo ở miền Nam Việt Nam. Củng cố
sự đoàn kết của đạo Phật trong phong trào đấu tranh chống lại kì thị tơn giáo
- Góp phần khơng nhỏ làm thất bại của chính quyền Ngơ Đình Diệm,
làm lung lay chính quyền Việt Nam Cộng hòa dẫn đến lật đổ ngày 1 -11 1963, làm cho Mỹ thay đổi chính sách và ngày càng sa lầy ở miền Nam
3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về quá trình đấu
tranh mạnh mẽ của Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 và những đóng
góp của Hịa thượng Thích Quảng Đức với phong trào Phật giáo năm 1963
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên phạm vi các tỉnh miền
Nam xảy ra phong trào đấu tranh của Phật giáo
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu những mốc thời gian như năm 1954, là
năm Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp rút hết quân về nước, miền Bắc
hồn tồn giải phóng, cũng là năm cả dân tộc Việt Nam bước vào cuộc đấu
tranh chống sự can thiệp của Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc và cuộc đấu tranh
của phong trào Phật giáo năm 1963
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có một số cơng trình nghiên cứu về Phong trào Phật giáo miền Nam
Việt Nam 1963 và Hịa thượng Thích Quảng Đức như:
Trương Văn Chung, Nguyễn Cơng Lý, Thích Nhật Từ ( 2013 ), Nhìn
lại phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, Nxb Phương Đông, nội dung
cuốn sách bao gồm: Phần I Từ phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ
XX đến phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc trong phong trào Chấn hưng Phật giáo, tác động từ phong trào Chấn hưng
Phật giáo miền Trung đối với cuộc vận động Phật giáo miền Nam năm 1963 –
Phần II gồm bối cảnh lịch sử, sự kiện, nhân vật, văn học trong phong trào
Phật giáo ở miền Nam năm 1963, nguyên nhân dẫn đến phong trào Phật giáo
năm 1963 ở miền Nam Việt Nam, phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam
1963 nhìn từ hồ sơ lưu trữ Bộ ngoại giao Mỹ, phong trào đấu tranh Phật giáo
miền Nam 1963 từ góc nhìn của người Mỹ, Phật giáo 1963 và Bồ Tát Thích
Quảng Đức nhìn từ thế giới, ngọn lửa Thích Tiêu Diêu tỏa sáng giữa sân chùa
4



Từ Đàm Huế ngày 16-8-1963, phong trào Phật giáo năm 1963 một cách tiếp
cận, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Khơng trong phong trào đấu tranh Phật giáo ở
miền Nam năm 1963, phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 có phải là
ngun nhân cái chết của Ngơ Đình Diệm, phong trào Phật giáo thị xã Quảng
Trị năm 1963, Phật giáo Khánh Hòa với pháp nạn 1963, Cộng đồng quốc tế
với phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, vai trò quần chúng nhân dân
trong phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, chính sách của Mỹ đối với
chính quyền Ngơ Đình Diệm trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963,
phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963 đợt sóng cuối cùng
nhấn chìm chế độ độc tài Ngơ Đình Diệm, lịch sử Phật giáo Việt Nam trong
ngày 11-6-1963 đã bị mạo hóa, Bồ-tát Quảng Đức cuộc đời và hạnh nguyện
nhìn qua các văn bản và khảo cứu, con đường thơ đi đến Lửa từ bi của Vũ
Hoàng Chương, tinh thần vô ngã vị tha của bồ tát Quảng Đức qua lời nguyện
tâm huyết và kệ thiêu thân cúng dường - Phần III Ý nghĩa vai trò và bài học
lịch sử từ phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963: Năm mươi năm nhìn lại
phong trào Phật giáo miền Nam, nguyên nhân và ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát
Thích Quảng Đức, nguyên nhân và ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng
Đức, mục tiêu cơng bằng xã hội nhìn từ cuộc vận động của Phật giáo miền
Nam năm 1963, nhìn lại phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm
1963 những giá trị và ý nghĩa lịch sử, ảnh hưởng của phong trào Phật giáo
đến cục diện chính trị miền Nam, tinh thần dân tộc trong phong trào Phật giáo
năm 1963, bài học lịch sử từ ngọn lửa Thích Quảng Đức, sự kiện Phật Đản
năm 1963 bài học lịch sử, Pháp nạn 1963 suy nghĩ về bất bạo động, từ phong
trào tranh đấu của Phật giáo miền Nam năm 1963, nghĩ về tinh thần nhập thế
của Phật giáo Việt Nam, sức mạnh truyền thống trong phong trào Phật giáo
năm 1963, sáng ngời đức vô úy, phong trào đấu tranh của Phật giáo miền
Nam 1963 đỉnh cao của sự nhập thế, tác động của phong trào đấu tranh Phật
giáo ở miền Nam Việt Nam đến quan hệ Mỹ-Ngơ Đình Diệm, bản chất văn

hóa của cuộc đấu tranh Phật giáo trong pháp nạn 1963, tinh thần bất bạo động
- Phần IV Đồng hành cùng dân tộc đạo pháp và Chủ Nghĩa Xã Hội của Phật
5


giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Cuộc đấu tranh của Phật
giáo miền Nam chống Mỹ Diệm và xu hướng nhập thế trong bối cảnh hiện
nay, Phật giáo với một số vấn đề văn hóa xã hội, Phật giáo TP HCM với việc
cung cấp dịch vụ xã hội cho cộng đồng, vai trò của Phật giáo Đồng Bằng
Sông Cửu Long trên lĩnh vực kinh tế văn hóa xã hội trong thời kỳ đổi mới, sự
tiếp biến Phật giáo trong văn hóa người Việt miền Tây Nam Bộ, đặc trưng của
Phật giáo Việt Nam trong thời đại hội nhập tồn cầu, sau 50 năm nhìn lại
phong trào Phật giáo miền Nam
300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gịn, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Nội dung cuốn sách bao gồm: Phần I Diễn văn khai mạc và lễ bế mạc hội thảo
- Phần II Lịch sử truyền thừa: Điểm lại một số nét sắc thái Phật giáo Nam Bộ
nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gịn-TP.HCM, tổ đình Huê Nghiêm, một vài nét
xưa và nay của Phật giáo Gia Định-Sài Gịn, tổ sư Minh Đăng Quang với chí
nguyện nối truyền Thích Ca chánh pháp, một số nét đặc thù của Phật giáo
Nam Bộ, những ngôi cổ tự đã mất ở Gia Định xưa, đặc điểm của Phật giáo
Hoa tông ở Nam Bộ, nhân kỷ niệm 300 năm Phật giáo Sài Gịn-Gia Định ơn
lại truyền thống Phật giáo Việt Nam - Phần III Những ngôi chùa cổ Phật Gia
Định: Vai trò của chùa Từ Ân trong sự phát triển văn hóa Phật giáo ở Gia
Định, kiến trúc các ngơi chùa xưa và nay, đặc trưng kiến trúc truyền thống
của chùa Nam Bộ, chùa Sùng Đức 300 năm tồn tại và phát triển - Phần IV
Các phong trào Phật giáo: Từ phong trào chấn hưng Phật giáo một số suy nghĩ
về Phật giáo Việt Nam với tiến trình thống nhất dân tộc, đồn sinh viên phật
tử Sài Gịn đấu tranh cho tự do tôn giáo, về phong trào Phật giáo Sài
Gòn 1963, sự phát triển Phật giáo miền Nam từ 1951 trở đi, sinh hoạt buổi
đầu của Ni giới tại Sài Gòn, giai đoạn chấn hưng Phật giáo 1920-1930, hội

Phật học Nam Việt và chùa Xá Lợi - Phần V Văn hóa giáo dục Phật giáo:
Phật giáo với sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại Sài Gòn-TP.HCM, hệ thống
giáo dục Ni giới tại Sài Gòn, ni giới Khất Sĩ một dấu ấn trước dòng thời gian,
sự tu học của Tăng sĩ Phật giáo trong suốt 300 năm hình thành và phát triển
Tp Sài Gòn, phục hưng thiền Trúc Lâm Yên Tử, Phật giáo Nam Tông tại Sài
6


Gòn xưa và nay - Phần VI Phật giáo trong sinh hoạt văn hóa: Phật giáo trong
sinh hoạt văn hóa tại Sài Gòn, kỷ niệm 300 năm Phật giáo Sài Gịn-Gia Định,
hoạt động báo chí Phật giáo trong 300 năm phát triển của Sài Gòn-Gia Định,
một số vấn đề xung quanh di sản chữ Hán trong các chùa ở đất Gia Định xưa,
vài đặc điểm của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, 300 năm nghệ nhân tạo Phật
tượng Gia định-Sài Gịn, Phật giáo cái nhìn của Nho sĩ Nam Bộ, tinh thần
Phật giáo trong sân khấu dân tộc ở Việt Nam và một số nước Đơng Nam Á,
hình bóng tín ngưỡng dân gian trong các tự viện ở vùng Sài Gịn-Gia định,
tình sơng nghĩa biển, vài nhận xét về sự thay đổi khuynh hướng trong nghi lễ
và trong phương pháp tu tập của đạo Phật Việt Nam - Phần VII Các vị cao
tăng trong cuộc vận động chấn hưng Phật giáo: Hòa thượng Khánh Hòa và
cuộc vận động chấn hưng Phật giáo 1921-1933, tổ sư Khánh Anh, một vị cao
tăng truyền đạo ở miền Nam 1900-1973, đời thứ 41, Đạo Bổn Nguyên, ngọn
đuốc sáng hiện thân cho tinh thần hòa hợp thống nhất Phật giáo Việt Nam Phần VIII Phụ Lục: Chùa Cây Mai trong ký ức người xưa, nhớ chùa Khải
Tường, di sản nghệ thuật cổ Phật giáo Sài Gịn-Gia định, nụ cười của tượng
Phật chùa Kim Chương
Ngồi ra, cũng có nhiều cơng trình khác nghiên cứu về vấn đề Phong
trào Phật giáo miền Nam Việt Nam và Hòa thượng Thích Quảng Đức

7



6. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài “ Hòa thượng Thích Quảng Đức với phong trào Phật giáo
miền Nam Việt Nam”, đề tài đã sử dụng một số phương pháp để làm rõ vấn
đề như:
+ Phương pháp lịch sử và logic được đưa vào sử dụng trong đề tài
nghiên cứu nhằm hệ thống, phân tích và xử lý các thơng tin về lịch sử theo
một trình tự liên tục, hợp lí, có tính hệ thống, tạo nên sự liên kết xuyên suốt
trong quá trình đấu tranh của Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
+ Phương pháp thu thập thông tin: Các thông tin, dữ liệu được thu thập
thông qua các giáo trình, sách, cơng trình nghiên cứu khoa học và dữ liệu ở
một số trang web.
+ Ngoài một số phương pháp đã nêu trên đề tài còn sử dụng một số
phương pháp như: phương pháp sưu tầm, nghiên cứu, đọc tài liệu, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát, tổng hợp, quy
nạp, diễn dịch v.v...
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Bối cảnh lịch sử trong phong trào Phật giáo miền Nam Việt
Nam năm 1963
Chương 2. Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963
Chương 3. Ý nghĩa lịch sử và vai trò của Hòa thượng Thích Quảng Đức
với phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963

8


B. Phần nội dung
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG PHONG TRÀO PHẬT
GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM NĂM 1963

1.1 BỐI CẢNH TRONG NƯỚC
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, cùng với sự ra đời của hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa và với sự hùng mạnh về chính trị và qn sự của Liên
Xơ, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở cả Châu Á, châu Phi
và Châu Mỹ Latinh. Nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc giành được độc lập,
từ đó hình thành một lực lượng chính trị quan trọng. Lúc này, một số nước
phát triển ở Tây Âu như Pháp, Anh, Italia,... đều trở nên suy yếu sau chiến
tranh và trở thành con nợ của Mỹ. Ngược lại Mỹ bước ra khỏi cuộc chiến
tranh với sức mạnh vượt trội, trước tình hình đó, nước Mỹ với âm mưu làm bá
chủ thế giới, áp đặt chế độ tư bản chủ nghĩa lên toàn bộ thế giới, đã có những
sự thay đổi quan trọng về chính sách đối ngoại. Mỹ đẩy mạnh cuộc chạy đua
vũ trang để tạo ra một “khả năng to lớn nhằm trả đũa ngay lập tức bằng những
phương tiện và tại những địa diểm do chúng ta lựa chọn. Lợi dụng ưu thế về
quân sự và kinh tế, Mỹ chiếm địa vị lãnh đạo phe đế quốc nhằm chống lại
phong trào cách mạng và phong trào giải phóng của các dân tộc.
Đối với Đông Dương và Việt Nam, từ ngay trước khi nhân dân Việt
Nam tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Mỹ đã nhịm ngó và có
những toan tính có lợi cho Mỹ. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với
những thắng lợi to lớn ở khắp các chiến trường đẩy thực dân Pháp vào thế sa
lầy nghiêm trọng, buộc Pháp phải nhờ sự tiếp sức của Mỹ để đối phó, do đó
càng tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Đơng Dương. Có thể
nói, ở Đông Dương việm trợ của Mỹ thấm đến đâu thì bàn tay của Mỹ cũng
tới đó. Tình thế đã ép buộc Pháp phải chấp nhận điều này, chính cuộc chiến
đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đã đẩy thực dân

9


Pháp và tay sai vào thế bị động và thất bại. Càng thất bại, họ càng phải dựa
vào Mỹ và do đó càng lệ thuộc vào Mỹ.

Một biện pháp quan trọng mà Mỹ thực hiện nhằm từng bước hất cẳng
Pháp là trực tiếp nắm lấy quân đội và chính quyền Sài Gịn, biến các tổ chức
này thành cơng cụ xâm lược của Mỹ. Việc lựa chọn những nhân vật chính trị
và quân sự đứng đầu quân đội và chính quyền Sài Gịn ở Việt Nam đều cần có
sự ủng hộ của Mỹ. Ngay từ tháng 6 – 1948, việc Pháp lựa chọn Bảo Đại làm
người đứng đầu “ Quốc gia Việt Nam” khơng phải hồn tồn thỏa mãn ý
muốn của Mỹ. Q trình gắn bó của Bảo Đại với Pháp từ năm 1932, rồi với
Nhật cũng như những mặt yếu kém của Bảo Đại khiến Mỹ có những lo ngại.
Mỹ vẫn chuẩn bị cho khả năng sẽ đưa con bài do Mỹ ni dưỡng, con bài ấy
chính là Ngơ Đình Diệm, một người nổi tiếng về “chống cộng”, có mâu thuẫn
với Pháp và bề ngoài là “yêu nước”, “chống Pháp”. Cũng bởi vì đã có sẵn
mưu đồ từ trước nên ngày 7 – 7 – 1954, nghĩa là chỉ đúng sau hai tháng sau sự
thất thủ của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ diễn ra làm bàng hoàng cả nước
Pháp, thì Mỹ đã đưa Ngơ Đình Diệm về nước làm Thủ tướng thay thế Bửu
Lộc – hành động được coi là động thái quan trọng mở đầu quá trình can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam. Hình ảnh người lính viễn chinh Pháp cuối cùng rời
khỏi miền Nam Việt Nam là biểu tượng của sự chấm dứt vĩnh viễn những liên
hệ có tính chất thực thực dân Pháp đối với Việt Nam. Nhưng ở miền Nam
Việt Nam lúc đó, người lính Pháp ra đi thì thay thế vào đó là hàng trăm “ cố
vấn” Mỹ đến để huấn luyện chỉ huy quân đội đánh thuê người Việt Nam.
Miền Nam Việt Nam đã thực sự chuyển đổi từ thuộc địa Pháp sang lệ thuộc
Mỹ, theo kiểu “thực dân mơi”. Mỹ từng bước xây dựng một chính quyền lệ
thuộc Mỹ và một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới.
Mục tiêu lâu dài của Mỹ là: Chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, Mỹ muốn lấy
miền Nam Việt Nam làm phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống
Đông Nam Á, đồng thời làm căn cứ để tấn công miền bắc hòng đè bẹp và đẩy
lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ
10



nghĩa khác. Chủ trương của Mỹ trong giai đoạn này là tăng cường số “cố vấn”
và viện trợ Mỹ, xây dựng và củng cố chế độ Ngơ Đình Diệm, lấy đó làm chỗ
dựa để áp đặt củ nghĩa thực dân mới, ra sức nâng đỡ quân đội và chính quyền,
dùng các lực lượng này đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Xa hơn nữa, Mỹ muốn dùng qn đội và chính quyền Sài Gịn làm lực lượng
xung kích quan trọng cho âm mưu xâm lược và nơ dịch của Mỹ ở Đông
Dương. Thực hiện chủ trương trên, Tổng thống Mỹ Aixenhao đã cử Tướng
J.K.Côlin, nguyên Tổng tham mưu trưởng lục quân Mỹ, sang Sài Gòn làm
Đại sứ. Đây là nhân vật vô cùng quan trọng, thay mặt Chính phủ Mỹ điều
hành trực tiếp việc thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Quyền lực của viên đại sứ Mỹ ở Sài Gịn có thể so sánh với các viên toàn
quyền, cao ủy Pháp trước đây ở Việt Nam. Chỉ có điểm khác nhau là nay viên
đại sứ thể hiện quyền lực một cách giấu mặt và khéo léo, tinh vi hơn. Trước
khi đến Sài Gịn, Cơlin đã đưa ra một kế hoạch 6 điều, gồm:
1. Ủng hộ chính quyền Ngơ Đình Diệm. Viện trợ trực tiếp cho chính
quyền Sài Gịn, khơng qua Pháp.
2. Xây dựng lại “qn đội quốc gia” cho Ngơ Đình Diệm gồm 15 vạn
quân do Mỹ huấn luyện và cung cấp vũ khí
3. Tổ chức bầu Quốc hội miền Nam, thực hiện “độc lập” giả hiệu.
4. Thực hiện việc định cư cho số người Bắc di cư và kế hoạch cải cách
điền địa.
5. Thay đổi thuế khóa, giành ưu tiên cho hàng hóa Mỹ xâm nhập miền
Nam Việt Nam.
6. Đào tạo cán bộ hành chính cho chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Đến tháng 3 – 1955, đã có sự xung đột mạnh mẽ giữa Ngơ Đình Diệm
với các giáo phái gọi là “tam liên” ( Cao Đài, Hịa Hảo, Bình Xun), lực
lượng của Ngơ Đình Diệm đánh nhau ác liệt với qn đội Hòa Hảo ở vùng
Hậu Giang và đánh nhau với qn đội Bình Xun ngay tại Sài Gịn. Được
Mỹ hỗ trợ, phần thắng thuộc về Ngơ Đình Diệm. Các qn đội Hòa Hảo và

11


Bình Xuyên tan rã. Lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn được Pháp bí mật đưa
sang Pháp. Cịn lực lượng Cao Đài thì lúc đầu “ án binh bất động”, sau bị Ngơ
Đình Diệm mua chuộc đã phản lại “tam liên”, theo Ngơ Đình Diệm đánh
Bình Xun. Cùng lực lượng Đại Việt ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Phú Yên,
Quốc dân Đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum cũng bị
Ngơ Đình Diệm dùng vũ lực tiêu diệt. Cùng với các hành động đánh phá, tiêu
diệt các lực lượng giáo phái và đảng phái đối lập, chính quyền đã tập trung
toàn bộ binh lực cho việc đánh phá phong trào cách mạng và khủng bố dã
man nhân dân miền Nam. Bởi vì Ngơ Đình Diệm và những người theo ông
biết rằng, đây mới chính là lực lượng mạnh mẽ uy hiếp sự tồn tại củ chính
quyền Sài Gịn, bất chấp các điều khoản của Hiệp định Giơnevo, trong đó
điều 14c quy định: “Không dùng cách trả thù hay phân biệt đối xử nào đối với
cá nhân hoặc tổ chức, vì lý do hoạt động của họ trong chiến tranh và cam kết
những bảo đảm tự do dân chủ của họ”, Ngơ Đình Diệm đã trắng trợn khủng
bố nhân dân miền Nam, nhất là nhân dân ở vùng kháng chiến cũ. Chính quyền
và qn đội sài Gịn khơng từ một thủ đoạn tàn ác nào để trả thù, ám hại
những người kháng chiến cũ và không ghê tay khi xả súng vào những cuộc
biểu tình mừng hịa bình của nhân dân miền Nam, gây ra những vụ tàn sát dã
man làm cho mỗi nơi hàng vài chục thậm chí vài trăm người chết và bị
thương. Sự tàn ác như vậy không thể hiên sức mạnh mà chỉ chứng tỏ nỗi lo sợ
của họ trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ vì tự do dân chủ, vì hịa bình và
thống nhất Tổ quốc của nhân dân miền Nam.
Để làm chỗ dựa cho chính quyền thực dân mới, Mỹ và Ngơ Đình Diệm
đã làm mọi cách để có thể tập hợp và xây dựng lực lượng. Bởi vì được đưa
lên cầm quyền chủ yếu bằng đơ la và vũ khí Mỹ, cơ sở chính trị, xã hội của
Ngơ Đình Diệm lúc đầu rất mỏng manh. Lực lượng đầu tiên mà Mỹ và Ngơ
Đình Diệm tính tốn đến trong việc tìm chỗ dựa này là các giáo dân. Một kế

hoạch nhằm cưỡng ép hàng chục giáo dân miền Bắc di cư vào Nam đã được
Mỹ vạch ra và ra sức thực hiện. Kế hoạch thâm độc này được Mỹ chuẩn bị
ngay từ khi Hội nghị Giơnevo vừa được bắt đầu và Pháp chưa đại bại tại Điện
12


Biên Phủ. Sau đó, ngày 30 tháng 6 năm 1954, Tổng thống Mỹ Aixenhao đã đề
cập đến việc tổ chức cho dân di cư từ Bắc vào Nam nếu một hiệp định đình
chiến được kí kết tại Giơnevo và nước Việt Nam bị chia cắt tạm thời bởi hai
vùng tập kết. Mục tiêu của cuộc di cư vô cùng tốn kém này là Mỹ và Ngơ
Đình Diệm muốn đưa càng nhiều những người Công giáo miền Bắc vào Nam
càng tốt để tạo cho chính quyền một chỗ dựa về chính trị, một nguồn tuyển
mộ qn lính và tay sai. Ngơ Đình Diệm đã có những chính sách ưu đãi đặc
biệt đối với những người Công giáo di cư và cùng với Cơng giáo nói chung.
Do đó Ngơ Đình Diệm đã tạo nên một sự chia cách giữa những người Công
giáo với những người thuộc tôn giáo khác và những người khơng theo tơn
giáo nào. Trong những năm Ngơ Đình Diệm thống trị ở miền Nam tín đồ
Cơng giáo được đưa làm nịng cốt trong chính quyền, qn đội và các đồn
thể, các đảng phái chính trị phản động của Ngơ Đình Diệm hoặc theo Ngơ
Đình Diệm. Khơng những thế, Ngơ Đình Diệm đã cho lập nhiều đội quân vũ
trang mang danh Thiên Chúa giáo hoặc cho một số phần tử chống cộng khoác
áo thầy tu lập những đơn vị vũ trang Công giáo ở địa phương nhằm chống
phá cách mạng, đàn áp, khủng bố nhân dân miền Nam và kì thị các tơn giáo
khác. Các đơn vị vũ trang đóng ở căn cứ Hải Yến, Cà Mau do Phan Lạc Hóa,
một phần tử phản động đội lốt cha cố với các hành động cực kỳ dã man là một
ví dụ điển hình cho các đơn vị vũ trang thuộc loại này. Khơng chỉ lấy Cơng
giáo làm lực lượng nịng cốt trong chính quyền, qn đội, Ngơ Đình Diệm
cịn thiết lập một trật tự chính trị theo kiểu riêng của mình trong đó quyền lực
chủ yếu do gia đình ơng ta nắm giữ.
1.2 TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO MIỀN NAM VIỆT NAM

Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng Đông Nam Châu Á, Bắc
giáp với Trung Hoa, Đông và Nam giáp với Biển Nam Hải, phía Tây giáp với
Lào và Campuchia, tơn giáo chính : Phật giáo ( những tơn giáo nhỏ khác là
Khổng, Lão, Cao Đài, Hịa Hảo, Ky Tơ, Tin Lành... ); thể chế chính trị Cộng
Sản, Lao động (nông 8 ngư nghiệp ): 73 % dân số truyền thông đại chúng 7
triệu máy radio, 3 triệu máu truyền hình, Nhật báo Nhân Dân phát hành
13


200.000 tờ mỗi ngày, thu nhập bình quân đầu người 113 đô la. Việt Nam là
một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á, và là
nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Từ một vị trí địa
lý thuận lợi như thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối
quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, tơn giáo... Vì vậy các tơn giáo lớn,
trong đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta. Ngay khi được
truyền vào, từ thế kỷ đầu, Đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống
của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển trên đất nước,
Đạo Phật đã khơng gặp một trở ngại nào trong việc hịa nhập vào mọi giai
tầng của xã hội Việt Nam. Đạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt Nam tự
nhiên và dễ dàng như nước thấm vào đất. Đạo Phật đã lan tỏa khắp hang cùng
ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất định từ cung
đình cho đến làng xã Việt Nam Đạo lý của Phật giáo Việt Nam cũng đã ăn
sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở thành những giá trị
tinh thần vô giá cho người dân. Trong suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ
qua, Đạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ... và có những đóng góp, những ảnh
hưởng tích cực.
Tuy nhiên giai đoạn này Phật giáo bị chèn ép một cách nặng nề. Quốc
trưởng Bảo Đại bị phế truất từ năm 1955 nhưng Đạo dụ số 10 do ơng ký ngày
6.8.1950 vẫn được chính quyền Ngơ Đình Diệm thi hành theo, bởi vì Đạo dụ

này khơng ràng buộc Công giáo vào thể chế hiệp hội và cho phép kiềm chế
các tơn giáo khác. Ngồi sự chèn ép các tổ chức Phật giáo, chế độ còn khủng
bố những tăng sĩ và cư sĩ đang hoạt động đắc lực tại các chi hội Phật giáo tại
địa phương, ép người phật tử bỏ đạo để theo Cơng giáo. Có người vì sợ mất
công ăn việc làm nên đã phải làm lễ rửa tội theo đạo. Có nhà phải đem bàn
thờ Phật hoặc bàn thờ tổ tiên từ gian nhà giữa vào ở nhà sau để khỏi bị dịm
ngó. Có người cương quyết giữ vững tín tâm đã bị bắt đi “ học tập” dài hạn tại
các trại Cải Huấn. Năm 1963, hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung Phần công
bố hai tập tài liệu ghi chép những vụ vi phạm nhân quyền, kỳ thị tôn giáo và
14


đàn áp phật tử từ năm 1959 đến năm 1963. Theo tài liệu ấy, có mười lăm vụ
bắt buộc tín đồ Phật giáo theo Công giáo, một vụ tra tấn và tù đày tăng sĩ sau
khi đã vu khống cho ơng là “ Việt Cộng”. Tại Bình Định, có bảy vụ bắt buộc
những cư sĩ lãnh đạo Phật giáo địa phương bỏ nhà cửa để đi “dinh điền” trên
cao nguyên, trong khi những người này thuộc các thành phần phú nông, tiểu
tư sản, không phải là người dân thất nghiệp và năm vụ ép buộc theo Công
giáo, ba vụ hăm doạ thủ tiêu, ba vụ bắt bớ, tra tấn và thủ tiêu phật tử, một vụ
chơn sống hai tín đồ Phật giáo chung một cái hầm.
Chính sách kỳ thị Phật giáo của Chính quyền Việt Nam Cộng hịa (
1954 – 1963 ) cũng thể hiện rất đậm nét. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa (
1954 - 1963 ) đã ưu ái cho Thiên Chúa giáo nhiều đặc quyền trong việc trùng
tu, xây dựng Nhà thờ, tượng Chúa. Nổi bật nhất là việc trùng tu và xây dựng
nhà thờ Đức Mẹ La Vang ở Quảng Trị. Trong các ngày lễ Thiên Chúa giáo
Chính quyền Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ) đã tạo điều kiện to lớn cho
việc tổ chức hành lễ, nhất là lễ Giáng sinh hàng năm. Lễ Giáng sinh năm 1958
được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ( 1954 - 1963 ) nâng lên tầm quốc gia.
Điều này được phản ánh tiêu biểu sau: Tại Dinh Độc Lập ( nay Dinh Thống
Nhất ), Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ( 1954 - 1963 ) tổ chức lễ Giáng sinh

với qui mơ lớn. Trong Phiếu trình số 2605 - TTP / VP / NL ngày 26 11-1958,
Sở Nghi lễ đã chuyển đến Đơng lý Văn phịng Phủ Tổng thống chương trình
lễ Giáng sinh:
“ Hồi 23 giờ15 : Tại Dinh Độc Lập , Phó Tổng thống đại diện Tổng
thống và các Bộ trưởng dự lễ này do Lữ đồn Liên binh phịng vệ Tổng thống
phủ tổ chức.
Thơng điệp của Tổng thống . Rước kiệu Chúa vòng quanh Dinh , ...
Trong đêm Chúa Giáng sinh , đài phát thanh có truyền thanh thơng điệp của
Tổng thống gởi đồng bào toàn quốc...”
Ngày 16-2-1959 , Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam kỷ niệm 100
năm thành lập, Hồng y Agagianian, đại diện Giáo hồng đến Sài Gịn chủ tọa
15


buổi lễ và tôn vinh Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lên hàng “ Vương cung Thánh
đường ”. “ Trong những ngày Đức Hồng y có mặt tại Việt Nam với những
buổi lễ ngồi trời , cờ Tịa thánh chen lẫn với cờ quốc gia tung bay trước
công viên Dinh Độc Lập và ở khắp mọi tỉnh , thị tạo nên một khung cảnh náo
nhiệt , rộn rã khắp miền Nam”. Tại Huế, từ ngày Ngơ Đình Thục về nhậm
chức Tổng Giám mục địa phận thì hàng năm “ ngày lễ Giáng sinh được tổ
chức rất tưng bừng . Cờ Công giáo treo dọc đường ăn lan đến cầu Trường
Tiền. Cổng chào dựng lên khắp nơi, nhất là phải tả ngạn sông Hương. Điều
này làm cho quần chúng Phật giáo bất bình. Vì từ xưa những cuộc lễ lớn về
Cơng giáo chỉ tổ chức quy mô bên địa phận Phú Cam mà thôi ”. Về giáo dục,
hệ thống trường tư thục Thiên Chúa giáo từ mầm non đến tiểu học, trung học
và đại học được xây dựng rất sớm. Năm 1958, Ngơ Đình Thục thành lập
trường Đại học Thiên Chúa giáo tại Đà Lạt. Để chuẩn bị, từ cuối năm 1957.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hịa ( 1954 – 1963 ) đã tặng cho trường này đồn
điền Blao. Công văn số 415 – TTP. ĐLM ngày 4-12-1957 của Đổng lý Văn
phịng Phủ Tổng thống gởi Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết : “ Do Công văn

số 1570 - BTC / DC / B ngày 5-8-1957 , ông Bộ trưởng có đề nghị Tổng thống
tặng dữ đồn điền tại Blao , tịch thấu của Lê Văn Viễn , cho trường đại học
sắp thành lập tại Đà Lạt ”.
“ Sự tặng dữ này khi trường đại học nói trên đã hồn thành và có tư
cách pháp nhân để nhận lãnh.
Tơi trân trọng tin để ông Bộ trưởng rõ : Tổng thống chấp nhận đề nghị
trên đây của ông bộ trưởng ”.
“ Chính sách đặc quyền cho Thiên Chúa giáo , kỳ thị Phật giáo của
chính quyền Ngơ Đình Diệm cũng xâm nhập sâu trong lĩnh vực học đường .
Diệm dành cho Giáo hội Thiên Chúa giáo chi phối các trường ( kể cả các
trường không phải Thiên Chúa giáo )”.
Cuộc rước Phật tại Sài Gòn vào dịp Lễ Phật đản ngày 3-5-1960 với sự
tham gia của nhiều tổ chức Phật giáo, gồm Giáo hội Tăng già Nam Việt, Giáo
16


hội Tăng già Bắc Việt, Giáo hội Lục Hòa, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy (
Hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh ), Ni bộ Nam Việt, Hội Tịnh độ cư sĩ, Hội
Phụ nữ Phật tử, Hội Việt Nam Phật giáo, Hội Phật học Nam Việt, Quan Âm
Phổ tế, Hội Lục hòa Theravada, Chùa Phật Bửu, Chùa Quan Âm, Chùa Linh
Quang, chùa Khánh Vân, chùa Phước Hòa, chùa Giác Minh, chùa Xá Lợi.
Ngoài khẩu hiệu như hằng năm “ Mừng ngày Phật đản ”, đặc biệt đoàn rước
Phật trương lên nhiều khẩu hiêu như “Mồng 8 tháng 4 bất diệt” “Phật giáo
đến đâu, từ bi đến đấy”, “ Phật lâm phàm, ma vương thối bước”, “ Đạo Phật,
nguồn sáng vô tận ” , “ Khoa học chỉ xác nhận lời Phật dạy ”, “ Không từ bi ,
không hạnh phúc ”, “ Khơng trí giác , mãi khổ đau”, “ Tin ma quỷ , thêm mê
mờ ”, “ Đức Phật là hiện thân của chân lý ”, “ Vua của các vị vua : Đức
Phật”.
Đối với Phật giáo, Chính phủ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ) tìm
mọi cách gây trở ngại trong việc hành lễ, viện lý do an ninh nhằm ngăn cấm .

Có trường hợp bị phạt vi cảnh vì tụng kinh trong nhà. Khơng chỉ trong nước
mà ngồi nước cũng bị Chính phủ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ) thi
hành chính sách kỳ thị Phật giáo. Các tổ chức Thiên Chúa giáo thoải mái xuất
bản Kinh sách , có cả chương trình Thiên Chúa giáo trên đài phát thanh ...
Ngược lại, Phật giáo bị ép đủ điều, Kinh sách bị kiểm duyệt gay gắt, khơng ra
được một tờ báo có tính quần chúng trong gần 10 năm dưới chế độ Việt Nam
Cộng hịa ( 1954 - 1963 ). Chính quyền Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 )
khơng hủy Đạo dụ số 10 được ban hành năm 1950 dưới thời vua Bảo Đại ký,
lấy đó để hạn chế và chèn ép Phật giáo Việt Nam trong sinh hoạt tín ngưỡng
và truyền bá chánh pháp. Chẳng hạn như Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (
1954 - 1963 ) cho phép thành lập Hội Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam ngày
10-06-1956, nhưng hoạt động theo quy chế các hiệp hội Đạo dụ số 10. Tương
tự, Giáo hội Tăng già Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam nộp đơn xin phép
thành lập Giáo Hội Tăng Già Nguyễn Thủy Việt Nam từ ngày 20-02-1957
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đồng ý phê duyệt hoạt động nhưng vẫn bị Đạo
dụ số 10 hạn chế.
17


Như vậy, Chính phủ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ) có chính sách
ưu đãi đối với Thiên Chúa giáo, kỳ thị Phật giáo miền Nam rất rõ nét, được
thể hiện qua các lĩnh vực tư tưởng - chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi, tốt nhất kể cả vật chất lẫn tinh thần cho Giáo
hội Thiên Chúa giáo Việt Nam hoạt động, phát triển và điều khó lòng chối cãi
được là “ bất chấp mọi điều kiện lịch sử và tâm lý dân tộc, Mỹ - Diệm đã có
nhiều cố gắng theo hướng Cơng giáo hóa nhân dân ta , biến Thiên Chúa giáo
thành quốc giáo ở miền Nam”
Chính người từng ủng hộ Tổng thống Ngơ Đình Diệm một cách nhiệt
thành là thượng Nghị sĩ Mỹ Mansfield , cũng phải thừa nhận trong cuộc tiếp
xúc với Cao Văn Luận ngay khi vừa bùng nổ phong trào Phật giáo miền Nam
năm 1963 , rằng: “ Hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn

các nhân vật trong chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ ông Diệm là một chế
độ độc tài , gia đình trị , Cơng giáo trị ”. Chính Tổng thống Ngơ Đình Diệm
đã có lần nghe Cao Văn Luận nói : “ Ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền , thì
nhà thờ mọc lên khắp nơi , các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã
được tái thiết gần hết , cả những nơi khơng có bao nhiêu giáo dân cũng có
nhà thờ đồ sộ . Số người theo đạo mới cùng gia tăng mau chóng”.
Do vậy, Thiên Chúa giáo ở miền Nam Việt Nam đã phát triển nhanh
chóng dưới thời chế độ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ). Chính sách kỳ thị
Phật giáo miền Nam Việt Nam, ( trong đó có Hệ phái Phật giáo Nam tơng
Kinh ) của Chính phủ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ), tiến hành trong
suốt chín năm thống trị miền Nam, xét trên thực tế là một cuộc tấn cơng quy
mơ, tồn diện vào Phật giáo miền Nam trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. Xét về mục tiêu lâu dài, chính
sách kỳ thị Phật giáo được Chính phủ Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 )
xem như là một trong những biện pháp hiệu quả cao để đẩy lùi lực lượng cách
mạng miền Nam, đẩy lùi kháng chiến , giữ chặt miền Nam trong quỹ đạo của
chủ nghĩa thực dân mới .
18


Chính sách độc tơn Thiên Chúa giáo, kỳ thị Phật giáo của chế độ Việt
Nam Cộng hòa đã gây ra bao nỗi đau thương, khổ nhục, uất hận hoặc nhẹ hơn
là bất mãn đối với nhân dân miền Nam, đối với những người không cùng tôn
giáo với họ Ngô, nhất là đối với tín đồ Phật giáo. Do vậy, dưới chế độ Việt
Nam Cộng hòa ( 1954 - 1963 ), mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp hình
thành và được biểu hiện qua “ bức tranh ” tôn giáo vơ cùng đậm nét. Chính
sách kỳ thị Phật giáo của Chính quyền Việt Nam Cộng hịa ( 1954 - 1963 ) đã
tạo ra Pháp nạn cho Phật giáo Việt Nam, tạo ra nỗi đau bất công, đối kháng
lại lợi ích dân tộc, đối kháng đường lối Đạo pháp và Dân tộc của Phật giáo,
đó chính là ngun nhân sâu xa dẫn đến phong trào Phật giáo ở miền Nam
Việt Nam năm 1963 tranh đấu chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ( 1954 1963 ), buộc Phật giáo miền Nam Việt Nam nhập cuộc chính sự. Chính sách

của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ( 1954 - 1963 ) trên các lĩnh vực từ tư
tưởng - chính trị đến kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục đối với Phật giáo
như đã trình bày, dù chỉ là những nét chấm phá ở trên, nhưng thể hiện đậm
nét chính sách ưu đãi Thiên Chúa giáo, tạo mọi điều kiện tinh thần và vật chất
cho Giáo hội Thiên Chúa giáo hoạt động và phát triển. Ngược lại, Chính phủ
Việt Nam Cộng hòa ( 1954 - 1963 ) thực hiện chính sách kỳ thị Phật giáo một
cách tồn diện và có hệ thống trên tất cả các lĩnh vực, bằng nhiều biện pháp
gian xảo, dã man tàn bạo, từ dụ dỗ, mua chuộc, đến trấn áp tinh thần, ép buộc,
khủng bố một cách quyết liệt, kể cả bắt, giết, thủ tiêu những người khơng
cùng tơn giáo với gia đình Tổng Thống Ngơ Đình Diệm .
Năm 1957, chính quyền ra lệnh loại bỏ ngày Phật Đản ra khỏi số ngày
nghỉ chính thức trong năm. Đây là một địn đánh vào người Phật giáo. Ngày
Phật Đản đối với người phật tử quan trọng khơng khác gì ngày giáng sinh
Noel đối với người Cơng giáo. Hành động này của chính quyền cho thấy một
ý niệm rõ rệt về mức chèn ép và đàn áp của chế độ. Đại hội đồng hội Việt
Nam Phật học họp vào tháng Ba năm 1957 đã sôi nổi thảo luận về sự việc này
và đã đánh bưu điện sau đây cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Namm tại Sài Gịn.
“ Tổng hội đồng lần thứ 25 tồn hội Việt Nam Phật Học gồm có liệt vị chứng
19


×