Đảng với phong trào thanh niên miền Nam
giai đoạn 1965-1975
Nguyễn Thanh Hóa
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Lịch sử
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Mã số: 60.22.56
Người hướng dẫn: PGS.TS Hồ Khang
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo đối với phong trào thanh niên và những
diễn biến chính của phong trào thanh niên miền Nam những năm 1965-1975. Phân tích
và làm rõ các đặc điểm của phong trào thanh niên miền Nam những năm 1965-1975. Rút
ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam của Đảng.
Keywords. Đảng Cộng sản Việt Nam; Phong trào thanh niên; Miền Nam Việt Nam; Lịch
sử Đảng; Đường lối lãnh đạo
Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đi cùng chiều dài lịch sử dân tộc, các thế hệ trẻ Việt Nam luôn thể hiện được vai
trò của mình trong mọi nhiệm vụ, nhất là chống ngoại xâm. Kể từ khi có Đảng, vai trò và
nhiệt huyết trong thanh niên càng được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn, chính họ là
những người đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, làm nên truyền thống đấu tranh
bất khuất của dân tộc. Hồ Chủ tịch đương thời rất đề cao vai trò của thanh niên, Người đã
ví họ như mùa xuân của dân tộc, là tương lai của đất nước. Trải qua mấy cuộc chiến
tranh giải phóng giành độc lập dân tộc, chống Pháp và chống Mỹ, người thanh niên đã
thể hiện được vai trò cách mạng của mình.
Từ những năm 20 (thế kỷ XX), thanh niên chính là những người lãnh nhận
nhiệm vụ của lịch sử, là người tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, là những
hạt nhân đầu tiên để góp phần thành lập nên một chính Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, phong trào thanh niên chính là lực lượng
đi đầu trong các cuộc đấu tranh cách mạng, giành chính quyền trong cuộc Cách mạng
tháng Tám. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp, thanh
niên chính là đội quân chiến đấu dũng cảm để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững và
củng cố chính quyền cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, thanh niên hăng hái đi theo
tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã anh dũng đứng lên chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc. Hàng vạn thanh niên đã lên đường “Nam tiến” để chiến đấu, 1,3 triệu
thanh niên đã tòng quân và trên 80 vạn thanh niên đã tham gia tự vệ, du kích, hàng
chục vạn hăng hái gia nhập đội thanh niên xung phong công tác và hàng triệu lượt
thanh niên đã xung phong đi dân công phục vụ tiền tuyến.
Năm 1954, sau khi hòa bình được lập lại, thanh niên chính là lực lượng xung kích
trong công cuộc bảo vệ và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh để giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Nam - Bắc phân chia hai miền, mỗi miền có một nhiệm vụ
cách mạng cụ thể, nhưng tựu chung lại vẫn là thống nhất đất nước về một mối. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam càng được chứng minh
một cách rõ ràng hơn. Ở lĩnh vực nào của bất cứ trận tuyến nào, người thanh niên cũng
hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc.
Nhìn nhận và đánh giá công lao của thế hệ trẻ Việt Nam là một việc làm hết sức ý
nghĩa và khó khăn. Trong bối cảnh của cuộc chiến đấu ác liệt giữa hai trận tuyến, kẻ thù
cách mạng đã coi thanh niên là một đối tượng cần lôi kéo và thu phục, nhằm mưu toan
cho những mục tiêu lâu dài. Do vậy, nhiệm vụ khó khăn hơn cả là phải giáo dục cho
thanh niên nhìn nhận rõ bản chất của kẻ thù, không ngừng bồi dưỡng truyền thống dân
tộc, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Động viên thanh niên xung phong trên các trận
tuyến cách mạng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó. Những công
việc đó phải tiến hành một cách song song, đồng thời và liên tục. Đảng đã luôn giành cho
thế hệ trẻ một sự quan tâm đặc biệt, xác định nhiệm vụ chính trị, mục tiêu của công tác
vận động thanh niên cũng là nhiệm vụ của cách mạng.
Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thanh
niên lại chính là những người đảm nhận vai trò tiên phong. Họ có sức trẻ, sự nhiệt huyết,
đi đầu trong lĩnh vực tiếp nhận nền khoa học công nghệ mới, tiến mạnh trên con đường
kinh tế tri thức mới. Đất nước tiến nhanh hay chậm cũng là nhờ một phần ở vai trò của
thế hệ trẻ.
Nhìn nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào thanh niên trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, từ đó thấy được những bài học kinh nghiệm, thành tựu, hạn chế
để có thể động viên hơn nữa sức mạnh của thế hệ trẻ hiện nay trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với mong muốn như vậy, chúng tôi chọn vấn đề:
“Đảng với phong trào thanh niên miền Nam giai đoạn 1965- 1975” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
- Nhóm sách chuyên đề, sách tham khảo về lịch sử phong trào thanh niên nói chung và
phong trào thanh niên các tỉnh ở miền Nam.
Nổi bật trong số này là các cuốn sách viết về lịch sử phong trào thanh niên qua các
thời kỳ, từ năm 1925 đến năm 2005, cụ thể như: Sơ thảo lịch sử Đoàn và phong trào
thanh niên Việt Nam 1925- 1995 (1996), Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Văn Tùng (cb),
Phương Trang, Hồng Thanh, Nguyễn Bính (1990), 40 năm thanh niên xung phong 1950-
1990, Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Văn Tùng (cb), Hoàng Phương Trang, Nguyễn Bính
(1999), Lịch sử Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt
Nam 1925- 1998, Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam (2006),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
Các tài liệu này đã trình bày được các sự kiện chính của Đoàn Thanh niên và
phong trào thanh niên qua các giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên hạn chế là còn quá chú trọng
đi vào các sự kiện mà chưa khái quát được các bài học, kinh nghiệm của phong trào
thanh niên cũng như chưa làm rõ được tầm ảnh hưởng của Đảng trong việc lãnh đạo các
thế hệ thanh niên.
Nhóm các tài liệu về phong trào thanh niên ở các tỉnh, thành phố miền Nam như:
Thành đoàn Huế (1989), Những sự kiện lịch sử trong phong trào đấu tranh đô thị của
thanh niên, sinh viên, học sinh Huế 1954-1975, Huế, 1989; Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh tỉnh Bình Thuận (1997), Tuổi trẻ Bình Thuận- 45 năm một chặng đường
lịch sử vẻ vang 1930-1975, Bình Thuận 10/1997; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Tiền Giang (1996), Lịch sử Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Tiền Giang,
Tiền Giang tháng 5/1996; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Định
(2001), Lịch sử Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh
Bình Định (1930-1975), Bình Định tháng 3/2001;… Các tài liệu này đã đóng góp một
phần quan trọng về các cứ liệu lịch sử cụ thể ở từng địa phương với những sự kiện khá
chi tiết. Tuy nhiên điểm hạn chế là tài liệu còn mang tính cục bộ của địa phương, chưa
đặt phong trào thanh niên trong sự phát triển chung của cách mạng miền Nam, cách
mạng cả nước, không có sự nổi bật đậm nét trong vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các
tầng lớp thanh niên.
- Nhóm các bài viết đăng trên báo, tạp chí chuyên ngành
Cụ thể như: Đoàn Thanh niên Lao động là đội quân xung kích của cách mạng (1969),
Tạp chí Thanh niên, số 1; Đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên mới là nhiệm vụ cơ bản
của công tác thanh vận (1969), Tạp chí Thanh niên, số 9; Vũ Quang, Mấy kinh nghiệm
về công tác thanh vận của Đảng ta (1970), Tạp chí Thanh niên, số 10; Vũ Quang, Thế hệ
thanh niên Hồ Chí Minh quyết tâm rèn luyện phấn đấu để xứng đáng là đội quân xung
kích cách mạng và đội hậu bị tin cậy của Đảng ta, Tạp chí Thanh niên, số 2;
Các tài liệu này đã khái quát một cách khá cơ bản về vai trò và tầm quan trọng của thanh
niên, các kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên. Tuy nhiên những khái quát
này chưa gắn với các quá trình đấu tranh cụ thể của người thanh niên, hơn nữa, chỉ đề
cập tới các kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động thanh niên cả nước
chứ chưa đi sâu vào các phong trào thanh niên ở miền Nam, đặc biệt là những năm chống
Mỹ cứu nước.
- Nhóm các tài liệu luận văn, khóa luận tốt nghiệp như:
Đảng lãnh đạo công tác thanh niên trong kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ,
Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Minh Thắng, Khoa Sử- ĐHKHXH& NV; Phong trào
“Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước 1964-1973,
Khóa luận tốt nghiệp của Lê Văn Tuân, Khoa Sử- ĐHKHXH& NV; Trung ương Cục
miền Nam chỉ đạo cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam Việt Nam 1961-
1975: Qua nguồn văn kiện đang lưu trữ tại kho lưu trữ Trung ương Đảng. V-L2-00713,
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hải Vân, Trường ĐHKHXH& NV.
Các tài liệu này đã cung cấp một phần sử liệu quan trọng về sự lãnh đạo của Trung ương
Cục miền Nam đối với cuộc đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam giai đoạn 1961-1975, đã
khai thác một cách khá chi tiết thông qua các nguồn văn kiện lưu trữ của Trung ương
Đảng.
Nói tóm lại, các nhóm tài liệu nói trên đều có những ưu điểm như: trình bày về
lịch sử phong trào thanh niên qua các giai đoạn lịch sử, khái quát một số các kinh nghiệm
lãnh đạo đối với phong trào thanh niên của Đảng. Tuy nhiên các tài liệu đó hoặc quá
chung chung, hoặc quá nặng về tính sự kiện ngày tháng, chưa chú trọng kết hợp tới việc
làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trong các phong trào cụ thể, hoặc chưa đưa ra được những
nhận xét một cách xác đáng về đặc điểm của phong trào thanh niên miền Nam.
Những năm 1965-1975 là thời gian ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, làm rõ vai trò của thanh niên trong cuộc cách mạng này chính là góp một phần
quan trọng trong công tác nghiên cứu lịch sử, làm rõ được vai trò lãnh đạo cũng như các
kinh nghiệm vận động thanh niên của Đảng. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Đảng với phong
trào thanh niên miền Nam giai đoạn 1965- 1975” là có cơ sở khoa học và không sợ bị
trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một cách toàn diện và khách quan quan điểm của Đảng về vai trò,
nhiệm vụ của thanh niên miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1975.
- Làm sáng tỏ những kinh nghiệm vận động thanh niên nói chung và kinh nghiệm
lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam nói riêng của Đảng trong thời kỳ này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo đối với phong trào thanh niên và những diễn
biến chính của phong trào thanh niên miền Nam những năm 1965-1975.
- Rút ra các đặc điểm của phong trào thanh niên miền Nam những năm 1965-
1975.
- Rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam của Đảng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào thanh niên miền Nam từ năm 1965 đến
năm 1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian là miền Nam: vùng tạm chiến, vùng tranh chấp và vùng tự do.
- Thời gian: Từ năm 1965 đến năm 1975.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Cơ sở lý luận: là các nguyên tắc và nhận thức luận Mác - xít, cụ thể là phương
pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng về cách mạng vô sản
và cách mạng giải phóng dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài được đề cập, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp lịch sử, phương pháp logic, mô tả, đối chiếu, so sánh.
5.3. Nguồn tư liệu
- Văn kiện Đảng, Văn kiện Đoàn, chỉ thị, nghị quyết về phong trào thanh niên.
- Những sưu tập về văn kiện, các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác vận động
thanh niên: Văn kiện Đảng về công tác thanh niên (1974), tập 1, Nxb Thanh Niên, Hà
Nội; Văn kiện Đảng về công tác thanh niên (1974), tập 2, Nxb Thanh Niên; Đảng Lao
động Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương (1968), Nghị quyết của Ban bí thư Trung
ương Đảng về công tác vận động thanh niên (lưu hành nội bộ), Nxb Thanh Niên, Hà
Nội; Văn kiện Đoàn, tập 1 (từ năm 1961 đến năm 1968), Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Ban
Chấp hành Trung ương Đoàn (1976), Văn kiện Đoàn, tập 2 (từ năm 1969 đến năm 1976),
Nxb Thanh Niên, Hà Nội;
- Các tác phẩm Mac-Lenin, Hồ Chí Minh viết về vai trò của thanh niên: Lênin nói về
nhiệm vụ của Đoàn thanh niên (trích diễn văn của Lenin tại Đại hội lần thứ ba Đoàn
thanh niên Cộng sản Nga ngày 2/10/1920) (1970), Tạp chí TN, số 4; Lênin (1987),
Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Nxb Sự Thật, Hà Nội; Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập
tự do vì chủ nghĩa xã hội thanh niên ta hăng hái tiến lên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Hồ
Chí Minh (1973), Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội; Hồ Chí Minh
(1978), Về vai trò và nhiệm vụ của thanh niên, Nxb Sự Thật, Hà Nội;…
6. Về bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
kết cấp thành 3 chương chính:
Chương 1: ĐẢNG VỚI PHONG TRÀO THANH NIÊN
NHỮNG NĂM 1965-1968
1.1. Tình hình miền Nam và chủ trương đối với phong trào thanh niên của Đảng
1.1.1. Tình hình miền Nam và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với phong trào thanh niên
miền Nam
- Thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ.
- Tăng cường quân đội viễn chinh, trang thiết bị chiến tranh vào miền Nam Việt Nam
1.1.2. Chủ trương đối với phong trào thanh niên miền Nam của Đảng
- Cần tăng cường giáo dục cho thanh niên nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, bản chất
và âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và tay sai.
- Cần tăng cường việc bồi dưỡng toàn diện cho đoàn viên và thanh niên về văn hoá, khoa
học, kỹ thuật và quản lý kinh tế.
- Bồi dưỡng cho đoàn viên thanh niên về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết
chiến quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược, tinh thần phấn đấu hy sinh vì lợi ích của dân
tộc, của giai cấp.
- Tăng cường hơn nữa khối đoàn kết trong thanh niên. Cần tích cực phát triển tổ chức
đoàn một cách rộng rãi trong thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên học
sinh - sinh viên.
- Cần tổ chức các đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước nhằm phục vụ cho
chiến đấu và xây dựng.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào thanh niên.
1.2. Sự chỉ đạo của Đảng đối với phong trào thanh niên miền Nam
1.2.1. Đối với phong trào thanh niên “năm xung phong”
“Xung phong tiêu diệt nhiều sinh lực địch
Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh
Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong trong phục vụ tiền tuyến
Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính
Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông thôn”.
- Về tiêu diệt địch
- Trên mặt trận giao thông vận tải
1.2.2. Đối với phong trào thanh niên ở các đô thị miền Nam
- Phong trào của thanh niên, học sinh, sinh viên
- Chỉ đạo phong trào đấu tranh của thanh niên công nhân
- Cuộc đấu tranh vũ trang tại các đô thị
Tiểu kết chương 1
Đáng chú ý nhất trong phong trào thanh niên miền Nam giai đoạn 1965-1968 là
phong trào “5 xung phong”. Phong trào đã gây được tầm ảnh hưởng lớn trong bộ phận
thanh niên không những ở miền Nam mà trên cả nước. Hàng vạn thanh niên đã lên
đường gia nhập thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến, làm việc và chiến đấu trên
các tuyến đường bom đạn ác liệt. Từ khi phong trào được phát động cho đến mãi các
năm về sau, phong trào không ngừng phát triển, tỉnh nào cũng có thanh niên gia nhập
thanh niên xung phong, tham gia xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du
kích và bộ đội chủ lực.
Cuộc đấu tranh chính trị diễn ra trong mọi tầng lớp, giới, ngành thanh niên (thanh
niên học sinh, sinh viên, thanh niên công nhân và thanh niên quần chúng). Mức độ gắn
kết ngày càng sâu giữa các cuộc đấu tranh, các khẩu hiệu đấu tranh ngày càng sát thực
hơn với hoàn cảnh. Sôi động nhất trong thời kỳ này vẫn là phong trào của học sinh, sinh
viên ở các đô thị lớn: Huế, Sài Gòn, Đà Nẵng, Đà Lạt,… Các phong trào diễn ra nhằm
vào các mục đích thiết thân của họ như: đấu tranh đòi tự trị đại học, chống quân sự hóa,
chống tăng học phí,… đến các mục đích mang tính chính trị cao hơn như: đấu tranh đòi
Thiệu - Kỳ từ chức, lên án chính sách độc tài, đòi Mỹ rút quân về nước…
Các cuộc đấu tranh của công nhân ở các đô thị thời kỳ này cũng diễn ra khá sôi
nổi, tuy nhiên mức độ quyết liệt của nó còn chưa cao, mục tiêu đấu tranh chưa thật sự sâu
sắc, chỉ dừng lại ở những vấn đề dân chủ dân sinh.
Các hình thức đấu tranh của thời kỳ này đã cao hơn so với thời kỳ trước đó, ngoài
ra còn có sự kết hợp của nhiều hình thức đấu tranh như: công khai, bí mật, chính trị với
vũ trang (tuy mức độ quyết liệt còn chưa cao và tính liên tục còn yếu).
Phong trào thanh niên, học sinh, sinh viên giai đoạn này cũng là nguồn cảm hứng
cho các phong trào đấu tranh của các lực lượng quần chúng khác nữa, đặc biệt là ở đô thị.
Các cuộc đấu tranh của thanh niên thường thu hút được đông đảo quần chúng tham gia
và ủng hộ, góp phần vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, khơi dậy tinh thần yêu nước,
lòng căm thù giặc.
Tuy vậy, qua những hoạt động của phong trào thanh niên giai đoạn 1965-1968 có
thể nhận thấy một số các đặc điểm khác. Các mục đích đấu tranh của thanh niên, nhất là
phong trào học sinh, sinh viên, thanh niên công nhân ở các đô thị còn nặng về quyền lợi
cá nhân, chưa thực sự nhấn mạnh các mục tiêu đấu tranh nhằm vào kẻ thù là Mỹ ngụy và
chính sách xâm lược của chúng. Sự gắn kết giữa các bộ phận thanh niên trong các phong
trào đấu tranh còn yếu, các phong trào đấu tranh còn chưa gây được tiếng vang lớn, chưa
nổ ra đồng bộ và chưa có sự kết hợp chặt chẽ. Sự kết hợp giữa các hình thức đấu tranh
còn chưa thật sự được chú trọng, cuộc đấu tranh chủ yếu diễn ra công khai, chưa chú
trọng tới các hình thức vận động, giáo dục thanh niên học sinh, nhất là một bộ phận
thanh niên đi lính cho ngụy.
Thời kỳ này, phong trào thanh niên ở các vùng nông thôn, vùng địch chiếm đóng
diễn ra còn yếu, các phong trào chống bắt lính, phong trào vận động binh lính người Việt
trong quân đội ngụy diễn ra còn yếu. Phong trào thanh niên chủ yếu diễn ra ở một số đô
thị lớn của miền Nam, mức độ quyết liệt và tính gắn kết còn yếu. Ngoài ra, có thể thấy
thời kỳ này, công tác tổ chức của Đoàn, Đảng còn chưa thật sự chú ý tới công tác vận
động thanh niên và phong trào thanh niên. Ở các cơ sở, các trường Đại học, trung học,
các tổ chức Đảng còn chưa được chú trọng phát triển để lãnh đạo thúc đẩy phong trào.
Tuy vậy, phong trào thời kỳ này có một bước phát triển đáng ghi nhận so với những năm
1954-1965, đặt nền móng để phong trào bùng nổ ở giai đoạn sau.
Chương 2: PHONG TRÀO THANH NIÊN MIỀN NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1969-1975
2.1. Đảng lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam những năm 1969-1972
2.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và chủ trương đối với phong trào thanh niên miền Nam
của Đảng
2.2.1.1. Mỹ với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam
2.1.1.2. Chủ trương đối với phong trào thanh niên miền Nam của Đảng
Trong chỉ thị ngày 22/12/1968 của Trung ương Cục về chủ trương tăng cường
công tác phát triển đoàn thanh niên cách mạng miền Nam đã nêu rõ: Đoàn Thanh niên là
lực lượng xung kích trong các phong trào ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, lập nhiều
thành tích to lớn, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Phong trào “5 xung phong”
được đẩy mạnh và tổ chức thanh niên phát triển mạnh hơn trước. Tuy nhiên thời gian vừa
qua các cấp ủy Đảng chưa quan tâm đúng mức tới công tác vận động thanh niên vào
Đoàn và đoàn viên vào Đảng còn ít, nữ thanh niên tham gia mọi hoạt động chưa nhiều,
vai trò đầu tầu của thanh niên chưa thể hiện rõ nét.
Trước tình hình mới, Chỉ thị nêu rõ yêu cầu nhiệm vụ công tác thanh vận là:
1. Giáo dục cho thanh niên nhận rõ vai trò, nhiệm vụ của mình vượt qua mọi khó
khăn gian khổ, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
2. Ra sức củng cố phát triển cơ sở đoàn, đẩy mạnh phong trào thanh niên làm lực
lượng xung kích.
3. Ra sức kiện toàn Ban Chấp hành Đoàn các cấp để bảo đảm sự lãnh đạo của
Đoàn đối với thanh niên, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn, cán bộ thanh niên.
2.1.2. Đảng với phong trào bảo vệ thanh niên, chống đôn quân, bắt lính
2.1.3 Đảng với phong trào thanh niên ở đô thị miền Nam
Về phong trào học sinh - sinh viên
Phong đấu tranh trào vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị của thanh niên tại các
đô thị miền Nam
Về phong trào của thanh niên công nhân tại các đô thị miền Nam
2.2. Đảng lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam những năm 1973-1975
2.2.1. Tình hình miền Nam sau sau khi Hiệp định Paris được ký kết
2.2.2. Đảng với phong trào thanh niên “Bảo vệ vùng giải phóng”
2.2.3. Đảng với phong trào thanh niên “Tham gia xây dựng lực lượng vũ trang”
2.2.4. Đảng với phong trào thanh niên đấu tranh chính trị
Tiểu kết chương 2
Đấu tranh trên các đô thị là một trọng điểm hết sức quan trọng cùng với cuộc đấu
tranh trên các chiến trường chính ở miền đồng bằng, nó đã nhận được sự quan tâm sát
sao và sự lãnh đạo của Đảng, Trung ương Cục miền Nam. Các cuộc đấu tranh giai đoạn
1969-1975 diễn ra liên tục và rộng khắp, có thể chia cuộc đấu tranh thành các hình thức
khác nhau như: Đấu tranh chính trị, đấu tranh chính trị có sự kết hợp của đấu tranh vũ
trang, sự hỗ trợ giúp sức của đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ trang của các lực lượng vũ
trang tại các đô thị. Ở mỗi hình thức đấu tranh lại có thể phân chia thành các loại đối
tượng khác nhau: thanh niên, học sinh, sinh viên; thanh niên công nhân trong các nhà
máy xí nghiệp. Các phong trào nổ ra có sự kết hợp giữa các lực lượng thanh niên thuộc
các giới ngành khác nhau, tính liên kết giữa các cuộc đấu tranh, mức độ gắn kết giữa các
phong trào cao hơn.
Phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh, sinh viên luôn luôn có tổ chức lãnh
đạo như: Tổng hội sinh viên, Tổng đoàn học sinh, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của Đảng ở
các cơ sở quần chúng. Phong trào diễn ra dưới các hình thức bí mật (vũ trang), bán công
khai và công khai (chính trị- biểu tình, mít tinh, bãi khóa). Đối tượng đấu tranh của thanh
niên, sinh viên là Mỹ- Thiệu, bọn quân phiệt của chế độ này, diễn ra dưới các hình thức
phong trào đòi dân chủ hòa bình, nhằm vào những chính sách phản động của Thiệu mỗi
khi được ban hành (như tăng học phí, lệnh đàn áp, hoặc tăng tiền giấy báo ). Phong trào
thường diễn ra mạnh mẽ, liên tục và sôi nổi nếu có những chính sách phản động của Thiệu
- Mỹ, nhằm vào những ngày lễ kỉ niệm. Những khi đó phong trào thường diễn ra sôi nổi và
thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Phong trào học sinh, sinh viên, thanh niên đóng vai trò đi đầu khơi ngòi nổ cho
các cuộc đấu tranh chính trị ở các đô thị miền Nam. Những biểu hiện đấu tranh và mục
đích đấu tranh của thanh niên là phù hợp với nguyện vọng chính đáng của mỗi người dân
tại các đô thị miền Nam. Do vậy đã được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng, sự tham
gia đông đảo của mọi giai tầng (phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”).
Phong trào thanh niên tại các đô thị miền Nam thường nổ ra đồng loạt, có mối liên
hệ chặt chẽ giữa các đô thị, đặc biệt là tại hai đô thị lớn là Huế và Sài Gòn. Đó là các tổ
chức Đại hội liên viện Đại học Huế - Sài Gòn - Đà Nẵng - Đà Lạt, Vạn Hạnh. Mỗi ngòi
nổ của phong trào được sự hưởng ứng và cổ vũ của các đô thị trên toàn miền. Phong trào
đấu tranh của thanh niên các đô thị miền Nam thời kỳ này là một sự phát triển lớn trong
tiến trình chung của cách mạng miền Nam, góp phần vào thắng lợi đối với Đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải rút về nước, ký hiệp định Paris, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
So với giai đoạn 1965-1968, phong trào thanh niên giai đoạn này diễn ra sôi nổi
và quyết liệt hơn ở trên tất cả các mặt trận. Ở đô thị, phong trào thanh niên góp phần cổ
vũ, châm ngòi cho các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, các khẩu hiệu đấu
tranh mang tính chính trị sâu sắc, sát với thực tế và những chỉ đạo chung của Đảng đối
với cách mạng miền Nam. Ở các vùng khác, phong trào thanh niên chống bắt lính, tòng
quân tham gia lực lượng vũ trang diễn ra sôi nổi. Ngoài ra phong trào thời kỳ này nhận
được sự chỉ đạo quyết liệt hơn từ các tổ chức Đoàn, Đảng, thanh niên ý thức được tầm
quan trọng và vai trò của họ trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, họ sẵn sàng hy sinh bản
thân mình để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét
3.1.1. Đảng đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của thanh niên, từ đó đề ra các chủ
trương vận động, tổ chức và phát huy vai trò của thanh niên miền Nam
3.1.2. Các biện pháp, giải pháp chỉ đạo phong trào thanh niên miền Nam của Đảng về
cơ bản là sát hợp, hiệu quả
3.1.3. Các phong trào đấu tranh của thanh niên miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, có những đóng góp to lớn cho tiến trình cách mạng miền
Nam những năm 1965-1975
3.1.4. Trong sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào thanh niên miền Nam vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế nhất định
Tính tự phát
Tính kết hợp giữa các phong trào đấu tranh còn yếu
Sự chỉ đạo thiếu kịp thời của Đảng, Đoàn đối với phong trào thanh niên
Ngoài ra còn một số các hạn chế khác
- Các phong trào thanh niên được phát động chưa đều ở các đô thị, các địa phương, chưa
đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia các
phong trào, các cuộc đấu tranh chưa đồng bộ.
- Phong trào tòng quân và tham gia thanh niên xung phong, đi dân công phục vụ tiền
tuyến chưa đều khắp ở các địa phương trên toàn miền Nam, nhiều trường hợp thanh niên
còn đào ngũ.
- Một bộ phận thanh niên chưa thực sự phát huy vai trò nòng cốt trong lực lượng du kích,
lực lượng vũ trang. Lực lượng nữ thanh niên chưa phát huy cao vai trò và khả năng to
lớn, nhất là trong đấu tranh chính trị, binh vận.
- Công tác giáo dục chính trị, giáo dục tư tưởng cho đoàn viên và thanh niên còn yếu,
tình trạng thanh niên bị địch dụ dỗ, lôi kéo còn nhiều. Về tổ chức, các cấp bộ Đoàn chưa
thấy hết tầm quan trọng của tổ chức Đoàn, nhất là ở cơ sở, phát triển đoàn viên còn
chậm, chất lượng chưa cao, công tác tập hợp thanh niên còn yếu, chưa theo kịp và đáp
ứng với điều kiện và tình hình mới.
3.1.5. Phong trào thanh niên miền Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng trong hai giai đoạn
1965-1968; 1969-1975 vừa có những đặc điểm chung, lại vừa có sự khác biệt căn bản
- Phong trào thanh niên miền Nam qua các thời kỳ cách mạng diễn ra sôi nổi, nhằm đáp
ứng các yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng
- Qua các giai đoạn đấu tranh đều khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với
phong trào thanh niên.
- Phong trào thanh niên qua các giai đoạn đấu tranh là quá trình tự trưởng thành và mang
tính cách mạng sâu sắc.
- Quá trình lớn lên và trưởng thành của phong trào thanh niên là một quá trình đi liền với
quá trình lớn lên của cách mạng miền Nam.
- Phong trào thanh niên miền Nam qua hai giai đoạn cũng có những đặc điểm khác nhau:
+ Quy mô đấu tranh.
+ Hình thức đấu tranh.
+ Tổ chức đấu tranh.
+ Mục đích, khẩu hiệu đấu tranh.
+ Tính cách mạng triệt để trong các phong trào đấu tranh.
+ Sự lãnh đạo của Đảng.
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu
3.2.1. Xác định mục tiêu đấu tranh và tổ chức các phong trào đấu tranh của thanh
niên miền Nam phù hợp tình hình, yêu cầu các giai đoạn cách mạng
3.2.2. Cần có hình thức, biện pháp, phương pháp thích hợp để vận động, tổ chức các
phong trào phù hợp với đặc điểm của thanh niên
3.2.3. Cần có biện pháp kết hợp linh hoạt các phong trào đấu tranh khác nhau của
thanh niên miền Nam, đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các mũi tiến công khác
3.2.4. Chú ý xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn và chọn lựa, đào tạo cán bộ Đoàn, cán
bộ lãnh đạo phong trào thanh niên miền Nam, nhằm đảm bảo tốt sự lãnh đạo đối với
phong trào
Tiểu kết chương 3
Nhìn nhận lại các giai đoạn phát triển và đặc điểm của phong trào thanh niên miền
Nam những năm 1965-1975 có thể khẳng định vai trò to lớn của thế hệ trẻ miền Nam nói
riêng, cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất
nước. Chính thế hệ trẻ miền Nam, những người ngày đêm chiến đấu với kẻ thù trên mọi
mặt trận đã góp công lớn lao vào chiến thắng vĩ đại chung của cả dân tộc. Với đường lối
cách mạng đúng đắn cho từng thời kỳ, Đảng đã vận động được các thế hệ trẻ Việt Nam,
thuộc mọi giới ngành đứng lên chiến đấu với kẻ thù, từ đấu tranh hòa bình đến đấu tranh
vũ trang, từ đấu tranh văn hóa, đòi những quyền sống cơ bản đến đấu tranh đòi những
quyền con người, quyền dân tộc. Từ rất sớm, Đảng đã sớm nhìn nhận được vai trò của
người thanh niên trong mọi lĩnh vực để giáo dục, động viên và bồi dưỡng họ lên mọi trận
tuyến chiến đấu với kẻ thù.
Qua các giai đoạn đấu tranh, phong trào thanh niên đã thể hiện sự phát triển vượt
bậc của mình, hòa chung với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Phong trào thanh
niên miền Nam miền Nam đã thể hiện các hình thức đấu tranh phong phú, quy mô đấu
tranh đa dạng, thu hút được đông đảo mọi giới ngành thanh niên tham gia, là ngọn cờ đầu
trong phong trào cách mạng chung. Mặc dù ghi nhận những đóng góp của thanh niên
miền Nam trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, nhưng cũng không thể phủ nhận một số
những hạn chế của các phong trào đấu tranh và công tác vận động thanh niên. Song
những hạn chế đó cũng chỉ là những điểm sạn nhỏ trong toàn bộ những thắng lợi mà thế
hệ trẻ miền Nam đã giành được.
Qua các phong trào đấu tranh của thanh niên miền Nam những năm 1965-1975
thấy được một số kinh nghiệm đấu tranh của phong trào thanh niên miền Nam, của quá
trình vận động thanh niên của Đảng. Những kinh nghiệm này sẽ là những bài học lịch sử
quý giá, mang tính giáo dục sâu sắc đối với những thế hệ trẻ đi sau, để họ có thể học tập
và phát huy những giá trị lịch sử hào hùng trong công cuộc xây dựng đất nước ngày một
tiến lên.
KẾT LUẬN
Được Đảng lãnh đạo và tổ chức, thanh niên miền Nam đã hăng hái tiến lên lập công
trên tất cả các chiến trường từ đô thị đến miền nông thôn đồng bằng. Quá trình đấu tranh
của thanh niên miền Nam là một quá trình tự rèn luyện, chiến đấu và trưởng thành cùng
với sự phát triển của cuộc chiến đấu và giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Phong
trào diễn ra diễn ra rộng rãi và đều khắp từ nông thôn đồng bằng cho tới các đô thị miền
Nam, phong phú về hình thức, tính chất quyết liệt của các cuộc đấu tranh. Phong trào
thanh niên luôn thể hiện tính tiến công liên tục, các nội dung khẩu hiệu trong các cuộc
đấu trnh đều xuất phát từ sự đánh giá tình hình, so sánh tương quan lực lượng, nhằm tập
hợp quần chúng đấu tranh với các nội dung từ thấp đến cao, từ đấu tranh vì mục đích dân
sinh dân chủ đến các hoạt động vũ trang chống Mỹ ngụy, từ các hoạt động văn hóa, biểu
tình, bãi công, bãi khóa đến các hoạt động đòi hòa bình, đòi chấm dứt chiến tranh,
Trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn phong trào thanh niên vẫn duy trì liên tục, giai đoạn
sau quyết liệt hơn giai đoạn trước, trở thành một mũ nhọn tiến công vào chế độ Mỹ ngụy.
Nhờ bám sát các nhiệm vụ chính trị chung của Đảng, phong trào thanh niên đã gắn bó
được với các phong trào chung trong từng giai đoạn cách mạng, nó là một bộ phận khăng
khít của cách mạng miền Nam, của cách mạng giải phóng dân tộc.
Đối với phong trào thanh niên ở các đô thị: Ngay từ khi Mỹ vào miền Nam Việt Nam,
chúng đã âm mưu biến thanh niên thành những nô lệ, những tay sai cho chúng ở miền
Nam, bởi vậy chúng đã lập ra cái gọi là “thanh niên cộng hòa” “cần lao nhân vị”, chúng
dùng văn hóa Mỹ, đồi trụy và suy lạc nhằm đánh lạc hướng cuộc đấu tranh của thanh
niên, ru ngủ tinh thần của họ. Vì vậy, cuộc đấu tranh ở đây, từ chỗ nhận rõ bản chất kẻ
thù, đấu tranh vì bản thân mình đến chỗ tiến lên đấu tranh cách mạnh vì đồng bào mình,
dân tộc mình. Phong trào đô thị của thanh niên diễn ra phong phú bằng các hình thức:
Mittinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, bãi công bãi khóa, đấu tranh vũ trang kết hợp
chính trị, vũ trang của các lực lượng biệt động thành thị. Phong trào thanh niên tại các đô
thị miền Nam diễn ra đều có sự tổ chức, lãnh đạo của Đoàn, của Đảng như: Tổng hội
sinh viên, tổng đoàn học sinh, các nghiệp đoàn,… Các phong trào đấu tranh nổ ra rộng
rãi, có sự kết hợp chặt chẽ, phong trào trước nổ ra cổ vũ cho phong trào sau, phong trào
sau ủng hộ cho phong trào trước. Cuộc đấu tranh của thanh niên công nhân tại các nhà
máy, xí nghiệp trên các đô thị diễn ra không kém phần ác liệt. Trước tiên nó đấu tranh vì
mục đích kinh tế, nhưng cao hơn hết là mục đích chính trị thiết thực, đòi lật đổ chế độ miền
Nam, đòi Mỹ rút quân về nước. Lãnh đạo phong trào thanh niên công nhân là các tổ chức
nghiệp đoàn công khai hoặc bí mật, ở đó đều có người của Đảng trực tiếp lãnh đạo hoặc chỉ
đạo từ xa.
Trên các chiến trường chính và vùng nông thôn, đồng bằng, thanh niên đã hăng
hái tham gia các phong trào thanh niên xung phong: “năm xung phong”, “ba xung
phong”. Được sự động viên, giáo dục của Đảng, tổ chức của Đoàn, thanh niên đã hăng
hái tham gia các phong trào “dũng sĩ diệt Mỹ” “dũng sĩ diệt Ngụy”, các “đoàn thanh niên
quyết tử”, “đoàn thanh niên cảm tử”. Thanh niên hăng hái tham gia tòng quân, nổi dậy
phá ách kìm kẹp của địch, phá ấp chiến lược, chống bắt lính, vận động binh lính trong
quân đội ngụy,…
Phong trào thanh niên qua các giai đoạn đã thể hiện được sự phát triển không ngừng
của mình trong tiến trình chung của cách mạng miền Nam, các hình thức đấu tranh, mục
tiêu đấu tranh, khẩu hiệu đấu tranh, tính bùng nổ, tính liên kết giữa các phong trào, giữa
các ngành, các giới thanh niên giai đoạn sau cao hơn và sát thực hơn giai đoạn trước.
Ngoài ra, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong các phong trào đấu tranh của thanh niên ở
giai đoạn sau cũng phù hợp và triệt để hơn so với giai đoạn trước.
Phong trào thanh niên miền Nam những năm 1965-1975 là sản phẩm cụ thể của
đường lối cách mạng của Đảng về công tác vận động thanh niên, là sự biểu hiện một
cách sinh động và nhuần nhuyễn đường lối, quan điểm chiến lược, phương pháp cách
mạng của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng đã đề ra đường lối cách
mạng Việt Nam là giương cao ngon cờ độc lập và chủ nghĩa xã hội, phương pháp cách
mạng miền Nam là sử dụng bạo lực dưới hai hình thức: bạo lực chính trị của quần chúng
và bạo lực vũ trang nhân dân. Công tác vận động thanh niên xuất phát từ tình hình, hoàn
cảnh thực tế, nó là một bộ phận của cuộc đấu tranh dân sinh dân chủ, là một phần của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với đối với phong trào thanh
niên miền Nam, vào từng thời điểm, từng thời kỳ, Đảng luôn nhận định tình hình, đề
ra những nhiệm vụ cách mạng, từ đó động viên được các đối tượng thanh niên lên
tuyến đầu của mọi trận tuyến: chiến đấu, sản xuất, phục vụ chiến đấu. Đường lối
thanh vận của Đảng luôn bám sát tình hình thực tế, đề ra được những nhiệm vụ chung,
cụ thể cho phong trào thanh niên. Đó là đường lối mà không chỉ nặng về huy động, sử
dụng thanh niên, mà còn đặc biệt coi trọng về công tác bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng
cách mạng, làm cho thanh niên nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình. Do vậy
người thanh niên, ở vị trí nào, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành một cách xuất sắc công
việc Đảng và nhân dân giao phó.
Mấy mươi năm đấu tranh là bấy nhiêu năm rèn luyện và trưởng thành, lửa đạn
chính là trường học cho những ai muốn thử lòng kiên trung và lý tưởng cách mạng của
mình. Thanh niên đã sống với lý tưởng cách mạng, lý tưởng của Bác Hồ và chiến đấu
cho nền độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc ấm no của nhân dân. Họ luôn luôn sẵn
sàng là lực lượng xung kích trong các phong trào quần chúng, luôn đi đầu tiên phong, giữ
vai trò ngòi pháo cách mạng, thúc đẩy phong trào đấu tranh chung đi lên. Họ đã kế thừa
được những truyền thống anh hùng cách mạng, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc từ lịch sử mấy nghìn năm để lại.
Hồi cố và suy nghĩ về truyền thống cách mạng vẻ vang của các thế hệ thanh niên
đi trước có ý nghĩa giáo dục vô cùng lớn đối với các thế hệ đi sau. Thế hệ trẻ có thể học
tập từ những người cha, người anh mình truyền thống cách mạng tiến lên không ngừng,
dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào để trong thời bình họ có thể học tập và cống
hiến theo lý tưởng cộng sản, không ngừng tiến công vào khoa học, đưa đất nước tiến lên
ngày một giàu mạnh, xứng đáng với lời dạy: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là
con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”.
References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (1968), Văn kiện Đoàn, tập 1 (từ năm 1961 đến
năm 1968), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (1976), Văn kiện Đoàn, tập 2 (từ năm 1969 đến
năm 1976), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
3. Ban thanh niên Trung ương Đoàn (1970), Tổ chức và chính sách đối với thanh
niên xung phong chống Mỹ cứu nước, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
4. Bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người kế tục một cách trung thành và xuất sắc
sự nghiệp cách mạng của Đảng (1972), Tạp chí TN, số 3.
5. Lưu Minh Châu (1970), Phấn đấu để quán triệt sâu sắc, toàn diện nhiệm vụ công
tác thanh vận và chức năng của đoàn thanh niên, Tạp chí TN, số 5.
6. Trường Chinh (1970), Hãy phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng là thế hệ thanh
niên Hồ Chí Minh. Tạp chí TN, số 5.
7. Lê Cung (2001), Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Mỹ (1954-
1975), Nxb Huế - Thuận Hóa.
8. Lê Cung (2007), Phong trào đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm của
giảng viên và sinh viên trường đại học sư phạm Huế năm 1963, Tạp chí NCLS, Số
2.
9. Trần Lê Dũng (1971), Thế hệ trẻ thành đồng tổ quốc tiến lên hoàn thành xuất sắc
những nhiệm vụ mới, Tạp chí TN, số 10.
10. Đảng Lao động Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương (1968), Nghị quyết của
Ban bí thư Trung ương Đảng về công tác vận động thanh niên (lưu hành nội bộ),
Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 19. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
31. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
32. Đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên mới là nhiệm vụ cơ bản của công tác thanh
vận (1969), Tạp chí TN, số 9.
33. Nguyễn Văn Đệ (1995), Thanh niên xung phong phục vụ giao thông vận tải thời
chống Mỹ, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Đệ (2004), Lịch sử truyền thống của lực lượng thanh niên xung
phong chống Mỹ cứu nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
35. Đoàn Thanh niên Lao động là đội quân xung kích của cách mạng (1969), Tạp chí
thanh niên, số 1.
36. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành phố Hồ Chí Minh (1986), Lược sử
Đoàn thanh niên thành phố (1954- 1975), Nxb Trẻ TP. HCM.
37. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1991)- 60 năm đấu tranh cách mạng vẻ
vang. Nxb Thanh niên, Hà Nội.
38. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1996), Lịch sử Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh Tỉnh Quảng Ngãi (1996), tập 1 (1930-1975), Quảng Ngãi 1996.
39. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Tiền Giang (1996), Lịch sử Đoàn và
phong trào thanh niên tỉnh Tiền Giang, Tiền Giang tháng 5/1996.
40. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Thuận (1997), Tuổi trẻ Bình
Thuận- 45 năm một chặng đường lịch sử vẻ vang 1930- 1975, Bình Thuận
10/1997.
41. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Định (2001), Lịch sử Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Bình Định (1930-
1975), Bình Định tháng 3/2001.
42. Trần Văn Giàu (1964), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai, tập 1 (1954-1960), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
43. Trần Văn Giàu (1966), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai, tập 2 (1961-1963), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
44. Lê Mậu Hãn (cb), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư (2000), Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 3. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh (1966), Thanh niên với chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1967), Thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1970), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội thanh niên ta hăng hái
tiến lên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (1973), Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (1978), Về vai trò và nhiệm vụ của thanh niên, Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
51. Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy (1968), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
52. Thuận Kiều (1962), Thực chất cái gọi là “Đoàn thanh niên Cộng hòa”, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
53. Lấy nhiệm vụ chính trị của Đảng làm mục tiêu, dựa vào đặc điểm thanh niên mà
đề ra hình thức, phương pháp công tác thích hợp (1973), Tạp chí TN số 6.
54. Lênin nói về nhiệm vụ của Đoàn thanh niên (trích diễn văn của Lenin tại Đại hội
lần thứ ba Đoàn thanh niên Cộng sản Nga ngày 2/10/1920) (1970), Tạp chí TN,
số 4.
55. Lênin (1987), Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
56. Lê Văn Nuôi (2000), Hồi ký, Sài Gòn dậy mà đi: Về phong trào đấu tranh giành
độc lập của học sinh, sinh viên Sài Gòn những năm 70, Nxb Trẻ TP. HCM.
57. Lịch sử Biên niên xứ ủy Nam bộ và Trung ương cục miền Nam (1954-1975)
(2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58. Lịch sử Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975) (2010), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Mấy nét về thanh niên miền Nam và những yêu cầu mới trong công tác chỉ đạo
của Đoàn (1975), Tạp chí TN, số 12.
60. Đặng Phong (2004), Kinh tế miền Nam thời kỳ 1955-1975, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
61. Vũ Quang, Mấy kinh nghiệm về công tác thanh vận của Đảng ta (1970), Tạp chí
TN, số 10.
62. Vũ Quang, Thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh quyết tâm rèn luyện phấn đấu để
xứng đáng là đội quân xung kích cách mạng và đội hậu bị tin cậy của Đảng ta,
Tạp chí TN, số 2.
63. Vũ Quang, Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đoàn, tiến lên giành
thắng lợi mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội
(1971), Tạp chí TN, số 3.
64. Sơ thảo lịch sử Đoàn và phong trào thanh niên Việt Nam 1925- 1995 (1996), Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
65. Thành đoàn Huế (1989), Những sự kiện lịch sử trong phong trào đấu tranh đô thị
của thanh niên, sinh viên, học sinh Huế 1954-1975, Huế, 1989.
66. Nguyễn Minh Thắng, Đảng lãnh đạo công tác thanh niên trong kháng chiến
chống Pháp và can thiệp Mỹ, Khoa Sử- ĐHKHXH& NV.
67. Tóm tắt nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận động
thanh niên. Tài liệu dùng cho Đảng ủy cán bộ Đoàn cơ sở và Đảng viên, Đoàn
viên (1969), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
68. Lê Văn Tuân, Phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước 1964-1973, Khoa Sử- ĐHKHXH& NV.
69. Lê Thị Thủy, Lê Quảng Ba, Nguyễn Hữu Mai (1969), Thấu suốt nghị quyết của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận động thanh niên, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
70. Văn Tùng (cb), Phương Trang, Hồng Thanh, Nguyễn Bính (1990), 40 năm thanh
niên xung phong 1950- 1990, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
71. Văn Tùng (cb), Hoàng Phương Trang, Nguyễn Bính (1999), Lịch sử Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam 1925- 1998, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
72. Văn Tùng (cb), Phương Trang, Nguyễn Quốc Lập (2000), Lịch sử Hội liên hiệp
thanh niên Việt Nam và phong trào thanh niên Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà
Nội.
73. Văn Tùng (cb), Dương Trung Quốc, Phương Trang (2005), Lịch sử Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam (1925- 2004),
Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
74. Văn kiện Đảng về công tác thanh niên (1974), tập 1, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
75. Văn kiện Đảng về công tác thanh niên (1974), tập 2, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Hải Vân, Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo cuộc đấu tranh chống
Mỹ cứu nước ở miền Nam Việt nam 1961- 1975: Qua nguồn văn kiện đang lưu trữ
tại kho lưu trữ Trung ương Đảng. V-L2-00713, Trường ĐHKHXH& NV.
77. Vâng lời Bác Hồ dạy, thanh niên anh dũng tiến lên (1969), Tạp chí TN số 10.
78. Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác thanh vận trong tình hình mới (1969),
Tạp chí TN, số 8.