Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Sự kết hợp các mặt đối lập trong tiến trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.16 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

QUÁCH THỊ HỒNG HÀ

SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG
TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH TÂN

Huế, 2010

1


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn là trung thực, chưa từng được cơng bố trong bất
kỳ trong một cơng trình nghiên cứu nào khác.


Tác giả luận văn

Quách Thị Hồng Hà

2


Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn đến thầy
giáo: Ts. Nguyễn Thanh Tân, người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, động viên và khích
lệ tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn
này.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập.
Xin được tri ân các thầy giáo, cô giáo, các
bạn đồng môn, đồng nghiệp đã cung cấp tài
liệu và động viên tôi trong quá trình thực hiện
đề tài này.
Học viên
Quách Thị Hồng Hà

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
3


Trong phép biện chứng duy vật, quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) có vị trí là hạt nhân, là nội
dung quan trọng nhất, vì nó nói lên nguồn gốc và động lực của mọi sự vận

động, phát triển. Nắm vững nội dung quy luật mâu thuẫn, đặc biệt là nắm
vững các nguyên tắc biện chứng của việc giải quyết mâu thuẫn là cơ sở quan
trọng nhất cho chúng ta xây dựng các phương pháp thực tiễn đúng đắn và
hiệu quả.
Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn và những mâu thuẫn
của bản thân cuộc sống thì phong phú hơn rất nhiều so với cái mà trí tuệ con
người cảm thấy. Trong công cuộc xây dựng và phát triển toàn diện nước ta
hiện nay, những mâu thuẫn hiện thực lại càng trở nên đa dạng và phong phú.
Có những mâu thuẫn tất yếu của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có
những mâu thuẫn trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, có những
mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có những
mâu thuẫn do sự biến đổi phức tạp, nhanh chóng của thời đại, của quan hệ
quốc tế, của khu vực… Sự vận động tiến lên của đất nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung, trong lĩnh vực kinh tế nói riêng diễn
ra với tốc độ như thế nào là tuỳ thuộc vào khả năng chúng ta phát hiện và giải
quyết một cách kịp thời tất cả những mâu thuẫn đó.
Bấy lâu nay, khi đề cập đến mâu thuẫn xã hội và phương pháp giải
quyết mâu thuẫn xã hội người ta hay nhấn mạnh đấu tranh giữa các mặt đối
lập mà thường ít bàn về sự thống nhất của chúng. Điều đó cũng từng dẫn đến
sự ngộ nhận rằng, trong quan hệ giữa các mặt đối lập chỉ có đấu tranh mà ít
hoặc thiếu sự thống nhất, hoặc dẫn đến việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng
trong thực tiễn có lúc duy ý chí, chủ quan và hậu quả là mâu thuẫn không
được giải quyết trên thực tế, đã gây ra tình trạng trì trệ và khủng hoảng
nghiêm trọng cho nền kinh tế. Khi xem xét yếu tố thống nhất các mặt đối lập
đòi hỏi chủ thể - con người cần phải biết khai thác những điểm chung, tương
đồng giữa các mặt để từ đó vận dụng thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập
một cách biện chứng nhằm thúc đẩy sự phát triển. Có thể nói, vận dụng sự
4



kết hợp các mặt đối lập là một trong những cách thức tự giác để chủ thể thúc
đẩy tiến trình giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong hiện thực xã hội, ở các
mâu thuẫn, bên cạnh sự trái ngược nhau về tính chất hay xu hướng, giữa các
mặt đối lập cịn có những nét tương đồng, phù hợp nhau, cân nhau, thuộc về
cùng một bản chất. Đó chính là cơ sở khách quan của lý luận và phương pháp
kết hợp các mặt đối lập trong thực tiễn của chủ thể nhằm giải quyết một cách
có hiệu quả các mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Dĩ nhiên, không
thể tiến hành kết hợp các mặt đối lập một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà
phải căn cứ vào tính chất, xu hướng khách quan của chúng, căn cứ vào yêu
cầu thực tiễn và mục tiêu thực tiễn của chủ thể. Sự kết hợp đó phải ln tn
theo ngun tắc tơn trọng tính khách quan của mâu thuẫn, sự kết hợp nhằm
để đưa cuộc đấu tranh của các mặt đối lập tới một hình thức khác, tạo điều
kiện cho mâu thuẫn được giải quyết tốt hơn, có lợi cho chủ thể. Tránh nhận
thức sai lầm coi đây là hành động hoà tan hai mặt đối lập, là thủ tiêu đấu
tranh, thủ tiêu mâu thuẫn chứ không phải là giải quyết mâu thuẫn.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được xây
dựng ở nước ta hiện nay, tồn tại nhiều mâu thuẫn với tính chất, mức độ phức
tạp khác nhau, đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế. Việc tìm ra mâu thuẫn và phương thức giải quyết
chúng phù hợp với từng giai đoạn cụ thể đang là vấn đề cấp bách. Đảng và
Nhà nước ta đã vận dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập vào giải quyết
các mâu thuẫn nảy sinh trong cơ chế thị trường đang vận hành hiện nay và
mang lại nhiều tiến bộ đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp
xây dựng và vận hành một cơ chế kinh tế ngày càng hợp lý, đồng bộ. Tuy
nhiên, cũng phải thấy rằng việc kết hợp các mặt đối lập trong nền kinh tế
nước ta hiện nay, cũng tiềm ẩn những nguy cơ không thể xem thường, thận
trọng quá mức, thiếu tỉnh táo sẽ bỏ lỡ thời cơ nhưng thiếu chủ động, kết hợp
một cách vô nguyên tắc cũng sẽ dẫn đến những sai lầm đáng tiếc.
Với nhận thức ban đầu như trên, chúng tôi chọn vấn đề Sự kết hợp các
mặt đối lập trong tiến trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội

5


chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài
Đã có rất nhiều cơng trình tiếp cận và nghiên cứu trên nhiều phương
diện, khía cạnh và ở nhiều mức độ khác nhau về quy luật mâu thuẫn nói
chung và sự kết hợp các mặt đối lập trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội
nói riêng.
Trong cuốn sách Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải
quyết trên con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
của tác giả Phạm Ngọc Quang, đã làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của mâu thuẫn đối với sự phát triển
nói chung và sự phát triển của xã hội nói riêng, từ đó đề xuất hình thức và
một số giải pháp giải quyết các mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam phù hợp với xu
thế của thời đại và thực tế phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Trong sách Thử vận dụng lí luận về mâu thuẫn vào thời kỳ quá độ ở
nước ta, tác giả Phạm Ngọc Quang đã trình bày mâu thuẫn xã hội với tư cách
là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật, xác định mâu thuẫn cơ
bản và phân tích về mặt phương pháp luận các mâu thuẫn kinh tế của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất những biện pháp tổ
chức giải quyết những mâu thuẫn đó trên thực tế.
Trong cuốn sách Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vũ Hồng Tiến chủ biên), tập thể tác giả đã tập
trung làm rõ những quan điểm đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu và các thành phần
kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển dân số, mơi
trường, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Với cuốn sách Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của tác

giả Nguyễn Cúc, đã đề cập đến những vấn đề mới trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở nước ta như xu hướng phát triển, các nhân tố
định hướng, các giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
6


quản lý của Nhà nước và phát huy tiềm năng con người.
Bên cạnh những cơng trình chủ yếu trên, vấn đề mâu thuẫn cũng được
bàn nhiều trong các luận án, luận văn như Về phương pháp kết hợp các mặt
đối lập để giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ (2008) của Trần
Nguyên Kí, Lí luận mâu thuẫn và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 (2008) của Trần Thị Hiền, Vấn đề giải quyết mâu thuẫn
trong cách mạng Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 (2008) của Nguyễn Thị
Kim Oanh, Tư duy biện chứng mác xít với tiến trình đổi mới nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (2006) của
Nguyễn Công An, Quy luật mâu thuẫn và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa (2006) của Nguyễn Hồng
Thanh v.v...
Ngồi các cơng trình đã bàn luận trên một cách tương đối có hệ thống,
vấn đề giải quyết mâu thuẫn, nhất là vấn đề kết hợp các mặt đối lập cũng
được bàn luận trong nhiều bài viết đăng trên tạp chí Triết học như bài "Lí
luận của Lênin về sự kết hợp các mặt đối lập và cách mạng Việt Nam hiện
nay" (số 3, 1987) của Phạm Ngọc Quang, bài "Mấy suy nghĩ về vấn đề giải
quyết mâu thuẫn" (số 2, 1996) của Nguyễn Tấn Hùng, bài "Kết hợp các mặt
đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã hội" (số1, 2004) của Trần Thành v.v...
Những cơng trình, bài viết trên xuất phát từ u cầu thực tiễn và lý
luận, đã đề cập những khía cạnh nhất định liên quan đến đề tài. Trên cơ sở kế
thừa thành quả của những người đi trước, luận văn góp một phần vào nghiên
cứu khoa học đồng thời phục vụ cho công tác của bản thân tác giả sau này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích của đề tài:
Làm rõ sự vận dụng lý luận về sự kết hợp các mặt đối lập trong thực
tiễn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích lý luận về sự kết hợp các mặt đối lập và lý luận về kinh tế
7


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích sự vận dụng lý luận về sự kết hợp các mặt đối lập trong
thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trọng tâm là nguyên
lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phương pháp kết hợp các mặt đối lập
trong tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài là kết hợp các nguyên tắc nhận
thức biện chứng với việc sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hố và khái qt hố, phương pháp lơgíc và lịch sử…
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm nội dung của lý luận mácxít về phương pháp
kết hợp các mặt đối lập trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, đồng thời làm
rõ cơ sở lý luận của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
- Góp phần làm rõ sự vận dụng lý luận mácxít về phương pháp kết hợp
các mặt đối lập trong quá trình giải quyết những mâu thuẫn kinh tế thời kỳ
quá độ ở nước ta hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Nâng cao nhân thức cho bản thân và có thể cung cấp một tài liệu
tham khảo có giá trị cho học sinh, sinh viên khi học tập nghiên cứu học phần
triết học Mác - Lênin.
6. Kết cầu của đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
2 chương (4 tiết).

8


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ VỀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về sự kết hợp các mặt đối lập
1.1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về sự kết hợp các mặt đối lập
Tư tưởng biện chứng về các mặt đối lập đã sớm xuất hiện trong lịch sử
nhân loại. Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng đó đã đạt đến
đỉnh cao nhất trong những học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ
9


điển Đức như: I. Cantơ và đặc biệt là G.V Hêghen. Hêghen đã sớm nhận ra
tính phổ biến của mâu thuẫn và vai trị của nó trong q trình vận động và
phát triển của thế giới, Hêghen đã khẳng định "Mâu thuẫn là nguồn gốc của
tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống" [35, tr.47]. Đứng trên lập
trường duy vật, kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá
trị trong toàn bộ lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu có tính chất vạch
thời đại của khoa học hiện đại và thực tiễn lúc bấy giờ, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn trên cơ sở quan điểm duy
vật biện chứng, khoa học và sau này Lênin coi học thuyết đó là hạt nhân của

phép biện chứng.
Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến và là nguồn gốc của mọi sự vận
động và phát triển. Do đó, việc phát hiện mâu thuẫn, chấp nhận mâu thuẫn và
lựa chọn phương thức giải quyết nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp
chủ thể thực hiện được mục đích đề ra và tạo điều kiện cho những bước phát
triển tiếp theo của sự vật, hiện tượng hàm chứa mâu thuẫn; ngược lại nếu sử
dụng cách thức không phù hợp thì chẳng những khơng giải quyết được mâu
thuẫn mà thậm chí cịn làm cho mâu thuẫn trở nên gay gắt hơn, vượt khỏi tầm
kiểm soát của chủ thể sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Năm 1847 đánh dấu sự trưởng thành về tư tưởng của C.Mác với tác
phẩm Sự khốn cùng của triết học. Trong tác phẩm này, ông đã nêu ra tư tưởng
về sự cần thiết phải kết hợp các mặt đối lập trong thực tiễn xã hội khi cho rằng,
Pruđông chưa thấy được mâu thuẫn của chế độ tư hữu, tốt và xấu, thiện và ác,
chưa thấy được sự thống nhất vốn có của các mặt đối lập này nhằm tái hiện sự
thống nhất của chúng trong nhận thức và hành động thực tiễn. Vì vậy, phương
pháp của Pruđông là đem đối lập, tách rời chúng và cuối cùng là giải pháp của
ơng mang tính chất siêu hình: hiện thực là thủ tiêu mặt xấu giữ lại mặt tốt.
Theo C.Mác, điều đó khơng phải là giải quyết mâu thuẫn mà là thủ tiêu mâu
thuẫn. Đề xuất việc kết hợp các mặt đối lập, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản Mác và Ăngghen cũng cho rằng, người cộng sản cần có thái độ sẳn sàng
hợp tác với các đảng phái đối lập vì lợi ích của phong trào công nhân.
10


Phê phán quan điểm duy tâm khách quan của Hêghen bàn về các mặt
đối lập của mâu thuẫn biện chứng, C.Mác đã khẳng định sự tồn tại của hai
loại đối lập, trên cơ sở đó phân loại thành hai mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong
hiện thực đó là mâu thuẫn của tồn tại và mâu thuẫn của bản chất. Tương ứng
với hai loại mâu thuẫn cơ bản đó là hai cách giải quyết hợp lý, đem lại hiệu
quả cao nhất. Theo Mác, mặt đối lập biện chứng phải là những mặt (bộ phận,

yếu tố, thuộc tính, khuynh hướng...) khác biệt trong cùng một bản chất xác
định của sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới khách quan. Những mặt
này, vừa có đặc điểm chung giống nhau lại vừa có đặc điểm riêng biệt và vì
thế, giữa chúng vừa có mối liên hệ ràng buộc, quy định lẫn nhau vừa có sự
bài trừ, phủ định nhau. Hai mặt đối lập biện chứng trong cùng một bản chất
xác định của sự vật, hiện tượng và quá trình liên hệ với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng; các mặt đối lập biện chứng trong những điều kiện nhất
định có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Mác phân chia làm hai loại đối lập: đối lập của sự tồn tại bao gồm
những mặt (bộ phận, yếu tố, thuộc tính...) có cùng một bản chất; chẳng hạn,
cực Bắc và cực Nam của thanh nam châm, nam giới và nữ giới của lồi
người. Theo ơng, "cực Bắc và cực Nam cũng đều là những cực; bản chất
chúng là đồng nhất cũng vậy, nam giới và nữ giới tạo thành cùng một loài,
cùng một bản chất - bản chất con người" [26, tr.26]. Với quan niệm đó C.Mác
đi đến khẳng định: "mặt đối lập là những quy định đối lập của cùng một bản
chất, là những khác biệt của cùng một bản chất ở mức độ phát triển cao nhất
của nó chúng là bản chất được phân hóa ra" [26, tr.26]. Từ đấy, ơng khẳng
định: tương tác của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực cho mọi sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cịn đối lập của bản chất đó là hai
mặt đối lập có bản chất khác nhau nhưng cùng tồn tại trong một chỉnh thể sự
vật, hiện tượng.
Mác cũng đưa ra cách giải quyết thích hợp cho hai loại đối lập trên,
nếu là đối lập của tồn tại thì cách giải quyết duy nhất là kết hợp các mặt đối
lập với nhau. Bởi vì, các mặt đối lập trong mâu thuẫn của tồn tại về thực chất
11


là cùng một bản chất như nhau, tồn tại không tách rời nhau, luôn luôn phải
nương tựa vào nhau, nếu thiếu mặt này thì mặt kia cũng sẽ khơng thể tồn tại
và hệ quả tất yếu là quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng hàm chứa mâu

thuẫn sẽ khơng thể diễn ra bình thường, thậm chí là sự vật sẽ bị diệt vong.
Khi sử dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn biện chứng, chúng ta cần xem xét đến hai cấp độ khác nhau: Thứ nhất,
sự kết hợp các mặt đối lập diễn ra một cách khách quan tự nó; Thứ hai, sự kết
hợp các mặt đối lập diễn ra một cách có ý thức, theo chủ đích của con người.
Chúng ta thấy rằng, sự kết hợp các mặt đối lập theo nghĩa chung nhất
phải được hiểu là bao gồm cả sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
không có thống nhất thì khơng có đấu tranh và thống nhất là tiền đề của đấu
tranh. Mặt khác, cần hiểu rằng đấu tranh là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
cấu thành mâu thuẫn, chứ không phải dùng một lực lượng nào đó bên ngồi để
triệt tiêu đi một mặt đối lập thì đó khơng phải là đấu tranh giữa các mặt đối lập
theo đúng nghĩa của nó. C.Mác khẳng định rằng, cái cấu thành bản chất của sự
vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự
đấu tranh của hai mặt ấy là sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù
mới. Ơng cịn nhận xét: "chỉ với việc tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu,
người ta cũng đã chặn đứng sự vận động biện chứng rồi" [35, tr.48].
Như vậy, trong mâu thuẫn biện chứng có lúc tự bản thân nó đã thiết lập
một sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn đang tồn tại mà
không cần đến sự can thiệp của chủ thể. Đó chính là q trình kết hợp các
mặt đối lập mang tính khách quan, tự nó. Q trình này diễn ra phổ biến
trong tự nhiên, chẳng hạn như đồng hóa và dị hóa, di truyền và biến dị là
những mặt đối lập tạo nên những mâu thuẫn vốn có trong bản thân sinh vật,
sự kết hợp những mặt đối lập này là yếu tố đảm bảo cho sự sống diễn ra bình
thường.
Đồng hóa và dị hóa là hai q trình có xu hướng trái ngược nhau, là
những mặt đối lập của nhau nhưng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất - cơ
thể sống. Nếu đồng hóa là quá trình nạp và bổ sung những chất thiết yếu nuôi
12



cơ thể thì dị hóa là q trình đào thải những chất đó sau khi đã hồn thành
nhiệm vụ ra khỏi cơ thể, ra mơi trường bên ngồi. Trong cơ thể sống, nếu
khơng có q trình đồng hóa thì q trình dị hóa cũng khơng thể diễn ra và
ngược lại. Mỗi khi mà một trong hai quá trình ấy diễn ra khơng bình thường
thì ngay lập tức tác động xấu đến sự phát triển của sinh vật. Vì vậy, để cơ thể
sinh vật phát triển bình thường địi hỏi hai q trình này phải ln ln kết
hợp nhịp nhàng với nhau, luôn bổ sung, nương tựa vào nhau để cùng hồn
thành tốt nhiệm vụ của mình. Hay như hiện tượng di truyền và biến dị, xảy ra
trong quá trình tiến hóa của các sinh vật trong tự nhiên. Đây là hiện tượng
phổ biến và cũng chính là một ví dụ điển hình về sự tồn tại khơng thể tách rời
nhau của các mặt đối lập trong cùng một mâu thuẫn. Trong q trình tiến hóa
của các lồi sinh vật, những cá thể thuộc thế hệ sau bao giờ cũng có sự kế
thừa những đặc điểm cơ bản của những cá thể cùng lồi thuộc thế hệ trước,
đó chính là hiện tượng di truyền ở các loài sinh vật. Nhưng cũng chính trong
q trình tiến hóa ấy lại xảy ra hiện tượng ngược lại, đó là các cá thể cùng
lồi thuộc thế hệ sau, không phải bao giờ cũng sao chép nguyên bản thế hệ
trước mà xuất hiện đột biến ở một vài đặc điểm cơ bản nào đó hoặc thậm chí
là khác biệt hồn tồn với thế hệ tổ tiên của nó, người ta gọi hiện tượng này
là biến dị. Biến dị là hiện tượng xảy ra chủ yếu do sự biến đổi tự thân của các
loài sinh vật để thích nghi tốt hơn trước sự thay đổi của mơi trường. Ngồi ra,
ở các sinh vật sống cịn xảy ra hiện tượng đột biến gen, hiện tượng này không
phải là do sự điều chỉnh để thích nghi mà là do sự đột biến ngẫu nhiên nào đó
ở các lồi sinh vật, song đây chỉ là hiện tượng xảy ra không phổ biến ở các
loài sinh vật. Nếu hiện tượng di truyền đảm bảo cho các thế hệ cùng lồi có
những đặc điểm cơ bản giống nhau, dù quá trình tiến hóa đó diễn ra như thế
nào chúng ta vẫn xác định được tên (gắn liền với đặc trưng cơ bản) của lồi
sinh vật ấy như buổi đầu nó xuất hiện, thì biến dị lại làm cho các thế hệ cùng
lồi có sự khác nhau và nếu khơng tìm tịi, nhiên cứu kỹ chúng ta sẽ rất khó
xác định được chính xác tổ tiên của các thế hệ sinh vật đó là thuộc loại nào.
Hai mặt đối lập nhau, nhưng lại khơng tách rời nhau trong q trình sinh tồn

13


của một lồi, di truyền và biến dị ln đồng hành cùng nhau trong q trình
tiến hóa của các lồi sự vật. Dù trải qua nhiều biến đổi song vẫn đảm bảo cho
lồi đó dù ít hay nhiều cũng có kế thừa đặc điểm của thế hệ trước, đồng thời
tạo cho nó một khả năng thích nghi tốt hơn trước sự biến đổi thường xuyên
của môi trường.
Trong xã hội, sự kết hợp các mặt đối lập được chủ thể tức con người
nhận thức và thực hiện để giải quyết các mâu thuẫn biện chứng của hiện thực
lịch sử. Sự kết hợp các mặt đối lập ở đây được coi là hành động tự giác, tích
cực của chủ thể xuất phát từ nhu cầu và nhằm theo đuổi các lợi ích của mình.
Dựa trên cơ sở khách quan của mâu thuẫn xã hội đó là các mặt đối lập trái
ngược nhau nhưng về cơ bản lại có những điểm chung, tương đồng. Đồng
thời, mặc dù có biểu hiện trái ngược nhưng các mặt đối lập ấy lại tồn tại trong
một chỉnh thể của sự vật, hiện tượng cho nên chúng có cùng một bản chất,
chúng mang bản chất của sự vật, hiện tượng chứa đựng chúng. Chính điều đó
cho phép con người với tư cách là chủ thể nhận thức và thực hiện kết hợp
những mặt đối lập nhất định vào giải quyết những mâu thuẫn xã hội cụ thể.
Dĩ nhiên, sẽ thật sự sai lầm khi cứ đơn giản nghĩ rằng có thể kết hợp bất kỳ
mặt đối lập nào trong bất kỳ điều kiện nào, trái lại việc kết hợp các mặt đối
lập phải được xem là hoạt động của con người trong quá trình giải quyết mâu
thuẫn xã hội cụ thể, phải tiến hành một cách tự giác, có chọn lọc, đáp ứng
được nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Hơn nữa, kết hợp phải luôn tôn trọng tính
khách quan của mâu thuẫn, có nghĩa là sự kết hợp đó phải nhằm để đưa cuộc
đấu tranh của các mặt đối lập tới các hình thức khác nhau, tạo điều kiện cho
mâu thuẫn được giải quyết tốt hơn, có hiệu quả hơn cho việc đạt được mục
đích của chủ thể. Đặc biệt, cần tránh thái độ và hành động hịa tan các mặt
đối lập, vì nếu làm thế có nghĩa là chúng ta đang thủ tiêu đấu tranh, thủ tiêu
mâu thuẫn chứ không phải là giải quyết mâu thuẫn. Như vậy, việc kết hợp

các mặt đối lập cho việc giải quyết mâu thuẫn hồn tồn khác với hành động
có tính chất triết trung, cũng như khác hồn tồn với việc kết hợp có tính cải
lương, vơ ngun tắc các mặt đối lập.
14


Mâu thuẫn của tồn tại biểu hiện phong phú và đa dạng trong đời sống
xã hội và với chúng, chủ thể có thể dùng cách kết hợp các mặt đối lập để triển
khai và giải quyết nhằm thúc đẩy sự phát triển. Trong lịch sử đã có nhiều bài
học rút ra từ việc sử dụng phương pháp giải quyết mâu thuẫn loại này, nếu
lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp sẽ thành công và ngược lại sẽ gánh
hậu quả khôn lường. Thất bại của Công xã Pari (1871) là một bài học xương
máu đối với những người cách mạng trong việc lựa chọn phương pháp giải
quyết mâu thuẫn. Công xã Pari là một trong những sự kiện nổi bật của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thế kỷ XIX. Khi phong trào mới nổ ra,
quần chúng cách mạng đã thu được một số thắng lợi, nhưng sau đó bọn phản
cách mạng lại quay lại phản cơng và cuối cùng lực lượng cách mạng khơng
chống đỡ nổi, tồn bộ thành quả cách mạng bị mất, phong trào bị dìm trong
biển máu. Sự thất bại của Cơng xã Pari có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó
phải kể đến nguyên nhân chủ quan vơ cùng quan trọng đó là do những người
lãnh đạo phong trào đã không xây dựng được khối liên minh công nông.
Công nhân đại diện cho chế độ cơng hữu, cịn nơng dân lại gắn liền với chế
độ tư hữu, nhưng trong chế độ tư bản chủ nghĩa thì họ đều là những người lao
động làm thuê, đều bị bóc lột, bị áp bức như nhau. Do đó, họ có chung một
kẻ thù đó là giai cấp tư sản, nên trong điều kiện lịch sử cụ thể này, họ là hai
mặt đối lập cùng bản chất. Do không biết kết hợp sức mạnh của hai giai cấp
thống khổ nhất đó, do phạm vi của phong trào tương đối hẹp (chỉ tập trung ở
Pari và một số vùng lận cận) lực lượng ít, khơng đủ mạnh nên Cơng xã Pari
đã thất bại. Lịch sử ghi lại rằng, khi công nhân Pari tiến hành đấu tranh rầm
rộ trong các nhà máy, xí nghiệp, trên đường phố thì cách đó không xa những

người nông dân vẫn thản nhiên làm việc trên các cánh đồng, hoặc những nơi
gần trung tâm phong trào, nơng dân hầu như khơng biết chuyện gì xảy ra.
Giữa cơng nhân và nơng dân khơng hề có sự liên hệ nào trong suốt quá trình
diễn ra phong trào, vì vậy cơng nhân Pari phải đơn độc chiến đấu với kẻ thù
mạnh hơn họ gấp nhiều lần mà không có những người bạn đồng minh đáng
tin cậy đó là nông dân. Theo Mác, thất bại của Công xã Pari là tất yếu. Từ
15


Công xã Pari, Mác rút ra bài học là để cách mạng thành công là cần phải thiết
lập được khối liên minh công nông vững chắc, làm nồng cốt để liên hiệp với
các giai cấp và giai tầng khác trong xã hội tạo ra một sức mạnh to lớn, đủ sức
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Quan điểm này của Mác, sau này được Lênin vận dụng có hiệu quả đã
làm nên Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công rực rỡ, trở thành một
trong những sự kiện vĩ đại nhất thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới cho xã hội
lồi người. Chính sự tài tình của Lênin và Đảng Bơnsêvích Nga trong việc xây
dựng và củng cố khối liên minh công nông vững chắc, đã thu hút các lực lượng
khác vào Mặt trận cách mạng, tăng cường sức mạnh cho lực lượng cách mạng,
đủ sức lật đổ sự thống trị của chuyên chế Nga hoàng, bọn tư sản cá mập và bọn
Cu lắc (địa chủ ở nông thơn), đem lại quyền làm chủ hồn tồn cho người lao
động. Trong xã hội nước Nga tư bản lúc bấy giờ, công nhân và nông dân là hai
giai cấp gắn liền với hai chế độ sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhưng họ
lại cùng chung số phận là giai cấp bị thống trị, bị áp bức, bị bóc lột. Vì vậy, họ
có chung một kẻ thù là bọn phong kiến, tư sản. Do đó, họ đồn kết chặt chẽ
với nhau để cùng đánh thắng kẻ thù. Lênin cũng nhận thấy "nông dân với tư
cách là người lao động = bạn đồng minh; với tư cách là người tư hữu và đầu
cơ = kẻ thù" [35, tr.49], từ đấy ông đã cùng những người cộng sản Nga giác
ngộ họ, đưa họ vào khối liên minh công nông và lấy liên minh này làm nồng
cốt của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã chứng minh

quan điểm đúng đắn của phép biện chứng mácxít về phương thức kết hợp các
mặt đối lập trong việc giải quyết mâu thuẫn của tồn tại.
Như vậy, mâu thuẫn của tồn tại diễn ra phổ biến trong tự nhiên, xã hội
và tư duy con người và việc giải quyết mâu thuẫn loại này cũng là việc làm
thường xuyên, cần thiết nhằm thúc đẩy sự vận động, phát triển của sự vật
nhưng không làm cho mâu thuẫn mất đi. Giải quyết mâu thuẫn thuộc loại này
trong phần lớn trường hợp, không phải là loại bỏ mâu thuẫn mà là tìm kiếm
con đường và phương pháp kết hợp các mặt đối lập với nhau trong cùng một
bản chất, sao cho có thể tạo điều kiện thuận lợi để mâu thuẫn trở thành động
16


lực thực sự của sự phát triển.
Đối với mâu thuẫn của bản chất đây là mâu thuẫn mà các mặt đối lập có
bản chất khác nhau nhưng tồn tại trong một chỉnh thể. Một trong hai mặt đối
lập ln tìm cách phủ định, bài trừ mặt kia để vươn lên trở thành bản chất đối
lập. Mác cho rằng, phương thức duy nhất để giải quyết hiệu quả mâu thuẫn
loại này là thủ tiêu một trong hai mặt đối lập, chỉ khi một trong hai mặt đối lập
kia mất đi thì mâu thuẫn mới thực sự được giải quyết. Loại mâu thuẫn này xuất
hiện chủ yếu trong lĩnh vực xã hội, có thể nói đây là loại mâu thuẫn mà q
trình hình thành, tồn tại và giải quyết nó được thực hiện trong hoạt động của
con người. Chính hoạt động của con người đẩy nhanh sự chín muồi hoặc làm
chậm quá trình phát triển của mâu thuẫn. Việc kết hợp các mặt đối lập trong
hiện thực xã hội, đòi hỏi chủ thể phải thể hiện được tính định hướng rõ ràng
trong hành động, kết hợp làm sao cho mặt đối lập đại diện cho cái tích cực, cái
tiến bộ sẽ dần chiến thắng mặt đối lập kia đại diện cho cái tiêu cực, lạc hậu.
Mâu thuẫn của bản chất biểu hiện tập trung trong mâu thuẫn giai cấp
của xã hội như mâu thuẫn giữa giai cấp nô lệ và chủ nô, nông dân và địa chủ,
vô sản và tư sản... Điều cần chú ý đối với mâu thuẫn loại này là, phải xác
định được giai đoạn tồn tại của mâu thuẫn để đưa ra cách giải quyết hợp lý,

đem lại hiệu quả trong thực tiễn. Chủ thể bằng ý thức của mình tìm ra những
phương thức giải quyết ở từng giai đoạn cụ thể của mâu thuẫn, có như vậy
mới tạo ra động lực cho sự phát triển của xã hội.
Thường thì, trong giai đoạn đang triển khai và phát triển, việc giải quyết
mâu thuẫn không phải là sự thủ tiêu đối lập, mà phải nâng sự đối lập lên trình
độ hay nấc thang cao hơn. Để giải quyết mâu thuẫn ở giai đoạn này, phương
thức kết hợp các mặt đối lập được coi là phương pháp tối ưu và hiệu quả nhất.
Phân tích q trình giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tồn tại những mâu thuẫn của xã hội quá độ được tạo nên bởi hai
mặt đối lập có sự khác nhau về bản chất. Ở mâu thuẫn này, mặt đối lập thứ
nhất thường hướng về chủ nghĩa xã hội và mặt đối lập thứ hai thường hướng
về chủ nghĩa tư bản. Việc giải quyết mâu thuẫn cần phải được tiến hành trên
17


những lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Trong lĩnh
vực kinh tế của thời kì quá độ, tồn tại nhiều yếu tố thuộc về các phương thức
sản xuất khác nhau, "trong đó cái mới khơng thể tức khắc mọc ngay lên được
cịn cái cũ cũng không thể tiêu tan đi trong chốc lát" [27, tr.27]. Lênin cho rằng,
trong trạng thái kinh tế như thế, chế độ kinh tế duy nhất có thể thực hiện được
là kết hợp những đặc điểm của cả hai chế độ khác nhau đó, kết hợp dưới nhiều
hình thức và hành động khôn ngoan nhất là kết hợp các lực lượng thuộc các
quan hệ khác nhau trong các hình thức kinh tế quá độ, dưới sự chi phối của lực
lượng kinh tế quốc doanh và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó, sẽ dẫn chúng
ta đi từ nền kinh tế tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Vậy, để xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp trong xã hội chủ nghĩa khi
mà nó chưa phát triển đến độ chín muồi, khi mà xã hội chưa đủ điều kiện để
trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự hay khi đang ở trong một thời kỳ quá
độ lâu dài, thì chủ thể cần lựa chọn phương pháp kết hợp các mặt đối lập có sự
khác nhau về bản chất này để giải quyết mâu thuẫn xã hội.

Khi mâu thuẫn thực sự chín muồi, các mặt đối lập sẽ chuyển hóa và
gắn với điều đó là mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra
đời. Lúc này, xã hội xã hội chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản bị xóa bỏ,
thủ tiêu. Q trình xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp không thể thực hiện trong một
thời gian ngắn mà địi hỏi một q trình lâu dài, phức tạp và quanh co. Thực
tiễn nước Nga sau Cách mạng tháng Mười chính là một kinh nghiệm sống về
việc vận dụng thành công phương pháp kết hợp các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn xã hội, đưa nước Nga khơng chỉ thốt khỏi khủng hoảng mà cịn
vươn lên trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vậy, giai đoạn mâu thuẫn đã đạt
đến độ chín muồi thì chúng ta tiến hành giải quyết mâu thuẫn bằng cách xóa
bỏ mâu thuẫn, tiến hành triệt tiêu một trong hai mặt đối lập tạo nên mâu
thuẫn đó, đưa sự vật chuyển lên thang bậc phát triển cao hơn với những mâu
thuẫn mới cùng xuất hiện và cùng tồn tại ở trong đó.
Tóm lại, theo quan điểm của Mác có hai loại mâu thuẫn cơ bản, đó là
mâu thuẫn của tồn tại và mâu thuẫn của bản chất; tương ứng với mỗi loại
18


mâu thuẫn thì có một phương thức giải quyết thích hợp. Đối với mâu thuẫn
của tồn tại, cách giải quyết tối ưu nhất đó là sử dụng phương pháp kết hợp
các mặt đối lập; còn đối với mâu thuẫn của bản chất thì căn cứ vào các giai
đoạn phát triển của nó để lựa chọn phương pháp giải quyết thích ứng. Giai
đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi có thể sử dụng phương pháp kết hợp các mặt
đối lập, với điều kiện phải tiến hành kết hợp một cách có nguyên tắc, tơn
trọng tính khách quan của mâu thuẫn, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Sự thỏa hiệp, nhượng bộ một cách vô nguyên tắc, vô điều kiện sẽ rơi vào cải
lương chủ nghĩa, rơi vào chủ nghĩa chiết trung. Khi mâu thuẫn đạt đến độ
chín muồi, lên đến chóp đỉnh thì tiến hành thủ tiêu một trong hai mặt đối lập,
sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Như vậy, kết hợp các mặt đối lập có thể
thực hiện được trong cả hai loại mâu thuẫn cơ bản trên đây của hiện thực xã

hội, nhưng cách thức và mức độ thực hiện sự kết hợp ấy ở mỗi loại thì có
khác nhau.
1.1.2. Quan điểm của V.I Lênin về sự kết hợp các mặt đối lập
Một nét nổi bật trong tư duy biện chứng của Lênin là tư tưởng về sự
kết hợp các mặt đối lập. Trong đấu tranh cách mạng và thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, V.I Lênin coi sự kết hợp các mặt đối lập như là một sách
lược của Đảng Bơnsêvích và của nhà nước Nga để thực hiện sự thỏa hiệp,
hợp tác liên minh tạm thời với những lực lượng đối lập vì lợi ích của cách
mạng của chủ nghĩa xã hội. V.I Lênin cho rằng thái độ của chủ nghĩa Mác
đối với những chuyển biến quanh co của lịch sử cũng đã đề cao sự thỏa hiệp,
lợi dụng sự thỏa hiệp ấy. Lênin giải thích rõ, khái niệm kết hợp có nghĩa là
những sự vật khác nhau mà chúng ta cần phải kết hợp với nhau; sự kết hợp có
nghĩa là phải biết vận dụng các biện pháp của chính quyền nhà nước để bảo
vệ những lợi ích vật chất và tinh thần của giai cấp vô sản đã hồn tồn liên
hợp lại để cho nó khỏi bị chính quyền nhà nước đó xâm phạm. Ơng khơng
những chỉ ra tính tất yếu của việc sử dụng sự kết hợp các mặt đối lập như là
một nghệ thuật, mà còn coi như đó là một chiến lược và sách lược của Đảng
Cộng sản Liên Xơ trong tồn bộ lịch sử đấu tranh của mình.
19


Từ thực tiễn những năm đầu tiên của chính quyền Xơ viết, V.I Lênin
đã hình thành tư tưởng về sự cần thiết phải kết hợp một cách tự giác các mặt
đối lập. Ông nhận xét rằng, "dù sao chúng ta cũng đã học được ít nhiều chủ
nghĩa Mác, đã học được rằng làm thế nào và khi nào có thể và cần thiết phải
kết hợp các mặt đối lập" [30, tr.90]. Phân tích mâu thuẫn xã hội nói chung và
mâu thuẫn trong đời sống kinh tế nước Nga nói riêng nhưng năm sau Cách
mạng tháng Mười, Lênin đề xuất tư tưởng về sự kết hợp các mặt đối lập và
coi đó là phương thức có tính chất đặc thù để giải quyết một cách hiệu quả
những mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở nước Nga lúc bấy giờ, không những thế

ơng cịn đưa tư tưởng này vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga. Sự kết hợp các mặt đối lập được nhận thức và thực hiện, bởi Lênin ln
có tính ngun tắc và điều này được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, Lênin chú ý đến việc tìm những người bạn đồng minh tạm
thời để đấu tranh chống lại kẻ thù chung. Bằng việc sử dụng một mặt đối lập
trong mâu thuẫn nội bộ kẻ thù để tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng,
Lênin đã thực hiện một sự kết hợp các mặt đối lập vì lợi ích chung, tạm thời
có lợi cho cách mạng.
Trong thời kỳ đấu tranh chống lại sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc,
bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ, Lênin đã chú ý đến hai khuynh hướng
đối lập tồn tại trong hiện thực giữa các nước đế quốc đó là khuynh hướng
muốn chinh phục, thơn tính và khuynh hướng muốn trao đổi, bn bán, sử
dụng các mối liên hệ kinh tế, thị trường, tài nguyên giàu có của nước Nga Xơ
viết. Trong điều kiện đó, V.I Lênin đã đi đến vận dụng một cách sáng tạo sự
kết hợp có ý thức các mặt đối lập nhằm giải quyết những mâu thuẫn của thời
kỳ quá độ, trong điều kiện có sự bao vây của chủ nghĩa đế quốc. Đó cũng
chính là biểu hiện của chính sách đối ngoại vơ sản có ngun tắc, mềm dẻo,
linh hoạt, tơn trọng tính biện chứng khách quan của thời kỳ quá độ trong điều
kiện bao vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thứ hai, Lênin quan tâm đến sự kết hợp các mặt đối lập ở biểu hiện
giữa hai nhân tố chất cũ (chủ nghĩa tư bản) và chất mới (chủ nghĩa xã hội) tồn
20


tại trong nền kinh tế quốc dân thời kỳ quá độ vì thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Sự kết hợp này biểu hiện rõ nhất trong Chính sách kinh tế mới được
Lênin soạn thảo và thực hiện trong thực tế.
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ kinh tế của chun chính
vơ sản, đấu tranh với sự tự phát triển tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ, giai
cấp vô sản đã sử dụng tư sản, sử dụng sự hiểu biết, trí thơng minh và vốn

kinh nghiệm quản lý của giai cấp tư sản để góp phần hình thành, ổn định nền
sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở vật chất lớn mạnh để đẩy lùi tính tự
phát tiểu tư sản. Chính sách kinh tế mới được Lênin soạn thảo là tấm gương
sáng về sự kết hợp các mặt đối lập trong điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ,
sao cho chiến thắng được giai cấp tư sản và nêu cao vai trò lãnh đạo của
Đảng, lơi kéo được những người sản xuất hàng hóa nhỏ, những người tiểu tư
sản về phía mình.
NEP - từ gọi tắt của Chính sách kinh tế mới được Lênin đưa ra lần đầu
tiên vào tháng 2 năm 1922 nhưng tư tưởng về Chính sách kinh tế mới của
ơng thì đã xuất hiện từ tháng 1 năm 1918, khi chính quyền Xô viết giành
được thời gian tạm nghỉ bằng con đường hịa bình. Đất nước Xơ viết ra khỏi
chiến tranh gặp phải sự tàn phá về kinh tế đến mức độ chưa từng có trước đó.
Những hậu quả nặng nề của bảy năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm
cho tình hình kinh tế - xã hội trở nên nóng bỏng. Để giải quyết cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, Chính sách kinh tế mới được Lênin đưa ra
nhằm giải quyết mục tiêu trước mắt và cấp bách với năm nội dung chủ yếu.
Từ việc triển khai các nội dung của chính sách kinh tế mới, Lênin chú ý đề
cập đến việc khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nơng nghiệp
thơng qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thực hiện nội
dung này nhằm đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng
cho nông dân và cho xã hội, giúp nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một
cách vững chắc, đồng thời khôi phục và phát triển kinh tế hàng hóa trong
nơng nghiệp, làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội.
Cùng với việc triển khai nội dung trên đây, Lênin chú trọng việc sử
21


dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bởi vì việc khơi phục và phát triển kinh tế hàng hóa trong nơng nghiệp cịn kéo
theo cả sự khơi phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Theo Lênin đó

là điều đương nhiên, sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là
một sự phát triển không tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ và
việc ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng, Lênin
cho đó là sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó.
Tuy nhiên, Lênin cũng nhấn mạnh khơng được coi thường hay bng
lỏng việc kiểm tra, kiểm sốt sự phát triển của xu hướng tư bản chủ nghĩa.
Muốn vậy, theo ông phải sử dụng hình thức kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà
nước, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước không đáng sợ mà là đáng mong đợi và
phải được học tập vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm trên của Lênin biểu hiện cái nhìn biện chứng có tính
ngun tắc trong giải quyết mâu thuẫn, q trình khơi phục và phát triển sản
xuất hàng hóa mà đồng nghĩa với nó là việc khơi phục và kích thích xu hướng
tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; điều
đó cho thấy, Lênin đang thực hiện sự kết hợp các mặt đối lập giữa yếu tố tư
bản chủ nghĩa và yếu tố xã hội chủ nghĩa vì lợi ích cách mạng.
Thực ra, Lênin chủ trương sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm chống lại tính tự phát tiểu tư sản.
Coi hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức kinh tế cơ bản trong cơ
cấu nền kinh tế nhiều thành phần. Biểu hiện của hình thức chủ nghĩa tư bản
nhà nước trong kinh tế đó là những hình thức như tơ nhượng trong cơng
nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư
nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho
tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng, khu đất....
Đề xuất chủ trương này, Lênin đã đi từ phân tích đời sống kinh tế của
đất nước Xơ viết lúc bấy giờ, làm sáng tỏ vị trí, tính chất, khuynh hướng vận
động của năm thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước Nga, bao gồm kinh tế
nông dân mang tính chất tự nhiên, sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư
22



nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong năm thành
phần kinh tế đó, ơng xem tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù nguy hiểm nhất
của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Lênin chỉ ra thực chất mối quan hệ giai cấp lúc
này không phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội
mà là giai cấp tiểu tư sản và chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau chống lại
chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích trên, Lênin đi đến chủ trương liên minh nhà nước
vô sản và chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống lại các thế lực tự phát tiểu tư
sản. Ông chỉ rõ rằng, bằng việc kết hợp các mặt đối lập với nhau, cụ thể là kết
hợp giữa nhà nước vô sản và nhà nước tư sản sẽ giúp cho nền công nghiệp
được phục hưng. Đó cũng chính là điều kiện để cải tạo có hiệu quả nền công
nghiệp sản xuất nhỏ và người nông dân tư hữu, thu hút công nhân trở lại nhà
máy, chấm dứt tình trạng họ phải tự sản xuất ra bật lửa rồi lại tự mình mang
ra tiêu thụ ngồi thị trường. Việc người công nhân xa rời nhà máy, để sống
anh ta phải làm đủ mọi việc linh tinh sẽ làm tha hóa ngay chính bản thân của
họ, đẩy họ về phía những người sản xuất nhỏ. Do vậy, liên minh với chủ
nghĩa tư bản nhà nước để khôi phục lại nền đại cơng nghiệp là con đường có
hiệu quả nhất nhằm cứu vớt ngay bản thân công nhân - giai cấp lãnh đạo của
chun chính vơ sản.
Thứ ba, liên quan đến những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đề cập đến sự kết hợp giữa chính sách dàn đều
và chính sách trọng điểm, biểu hiện của sự kết hợp có ý thức này là giữa vấn
đề dân tộc và quốc tế, giữa nhiệt tình cộng sản và hoạch tốn kinh tế, giữa
dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ, giữa thuyết phục và
cưỡng bức, giữa động viên tư tưởng và khuyến khích vật chất, giữa quy luật
chiến tranh và quy luật xây dựng hịa bình... Trong q trình thực hiện sự kết
hợp giữa chính sách dàn đều và chính sách trọng điểm, Lênin nhấn mạnh đến
yếu tố thời điểm, hoàn cảnh. Vấn đề đặt ra là phải suy nghĩ cho thật kỹ hai
chính sách và vận dụng làm sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể nhằm
đem lại lợi ích cho cách mạng.

23


Sự kết hợp các mặt đối lập trong tư tưởng của Lênin không phải là thái
độ chiết trung, mà luôn có tính ngun tắc và biện chứng; nó dựa trên quan
điểm thừa nhận và lấy cái mới làm yếu tố chủ đạo, làm chủ lực cho sự phát
triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu vi phạm nguyên tắc biện chứng trong
khi thực hiện sự kết hợp các mặt đối lập sẽ biến cái mới thành cái cũ, biến cái
kích thích sự phát triển thành cái kìm hãm sự phát triển... Chẳng hạn, khi thực
hiện sự kết hợp các mặt đối lập trong nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải
phân định rõ giữa tập trung dân chủ khác với tập trung quan liêu và tính tự
phát, vơ tổ chức. Lênin nhấn mạnh "khơng có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế
độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và lối rập khn máy móc" [30,
tr.95]. Do vậy, không thể áp dụng sự kết hợp các mặt đối lập một cách tùy
tiện, máy móc hoặc vơ ngun tắc, Lênin đã đưa ra một nhận định hết sức
xác đáng: có thể kết hợp các khái niệm đối lập với nhau thành một điệu nhạc
chối tai nhưng cũng có thể kết hợp chúng lại thành điệu nhạc êm tai.
Lênin coi sự kết hợp các mặt đối lập như là một hình thức đặc biệt của
cuộc đấu tranh giữa chúng. Theo ơng, đấu tranh có nhiều hình thức khác
nhau: có đấu tranh thủ tiêu cả hai mặt đối lập; có đấu tranh dẫn đến thủ tiêu
một mặt còn mặt kia được biến đổi; có đấu tranh làm kích thích lẫn nhau,
hoàn thiện lẫn nhau và cùng nhau phát triển... Hiểu như vậy, chúng ta có thể
khẳng định rằng, trong mâu thuẫn biện chứng sự thống nhất của các mặt đối
lập ln bao hàm trong mình sự khác biệt, đối lập và xung đột. Chính trong
sự thống nhất ấy mà các mặt đối lập tương tác một cách biện chứng với nhau,
và đó cũng là sự đấu tranh của các mặt đối lập làm nên nguồn gốc, động lực
phát triển của sự vật, hiện tượng. V.I Lênin khẳng định rằng, sự phát triển là
một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, đấu tranh là tuyệt đối, chính nhờ
đấu tranh mà các sự vật vận động, chuyển hóa lẫn nhau, làm cho thế giới trở
nên vô hạn, vĩnh viễn và bất diệt. Trong đó, sự kết hợp các mặt đối lập vừa

được coi là một hình thức đặc biệt của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập,
đồng thời đó cũng là một phương thức mà chủ thể lợi dụng những điểm
chung, tương đồng của các mặt đối lập trong sự thống nhất giữa chúng để giải
24


quyết mâu thuẫn nhất là các mâu thuẫn xã hội.
Có thể khẳng định, việc kết hợp biện chứng các mặt đối lập với tư cách
là một phương thức đi tới giải quyết mâu thuẫn, đã được Lênin sử dụng để
lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ thực hiện
chính sách kinh tế mới (NEP) những năm 1921 - 1924. Chính sách này nhằm
khắc phục hậu quả tiêu cực từ việc kéo dài chính sách cộng sản thời chiến
trước đó. V.I Lênin đã tiến hành kết hợp một cách biện chứng giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa kinh tế tư bản và nhà nước Xô viết. Biểu
hiện tập trung nhất của việc kết hợp này trong NEP chính là chủ trương thực
hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước
như Lênin khẳng định đó là việc chấp nhận sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản
trong khn khổ của sự kiểm kê, kiểm sốt của nhà nước Xơ viết. Mục đích
của việc phát triển tư bản nhà nước kiểu mới này là nhằm khai thác, lợi dụng
mặt tích cực của chủ nghĩa tư bản (về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý...)
để đem lại lợi ích cho chủ nghĩa xã hội.
Rõ ràng, đây là hành động chủ động, tự giác, tích cực của Đảng và Nhà
nước Xô viết trong việc hợp tác với chủ nghĩa tư bản và các nhà tiểu tư sản.
Nhưng cũng chính vì là hoạt động tự giác của nhà nước Xô viết, cho nên việc
kết hợp này phải luôn đặt trong giới hạn, khuôn khổ chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ,
việc hợp tác với chủ nghĩa tư bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
cũng giống như sử dụng con dao hai lưỡi, vì xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản
và các nhà tư bản trong quan hệ với chủ nghĩa xã hội khơng phải vì lợi ích
của chủ nghĩa xã hội mà là vì lợi ích của chính giai cấp tư sản. Lênin hiểu
điều đó, nên đã ra sức bảo vệ NEP nói chung và chủ nghĩa tư bản nhà nước

nói riêng, tạo mọi điều kiện cho chủ nghĩa tư bản nhà nước phát triển với việc
tăng cường sự kiểm tra, kiểm sốt của chính quyền Xô viết. Lênin yêu cầu
phải luôn coi công tác kiểm kê, kiểm soát này là một cái trạm trung gian để đi
đến chủ nghĩa xã hội, tránh chệch hướng chủ nghĩa xã hội. Chỉ trong điều
kiện như vậy, việc thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước mới là cần thiết, đáng
mong đợi và là bắc cầu để đi vào chủ nghĩa xã hội.
25


×