1
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI NHÁNH ACB HÀ NỘI
MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………… 1
Chương I: Lí luận chung về chất lượng phân tích tài chính khách hàng
của ngân hàng thương mại
1.1 Phân tích tài chính khách hàng của NHTM………….……………… 2
1.1.1 Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp…………………… 2
1.1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong NHTM ………3
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng5
1.1.3.1 Thông tin sử dụng ………………………………………………… 5
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng ………9
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng ……………………………11
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính ……………………………………… 11
1.1.4.2 Phân tích báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp 21
1.1.4.3 Dự báo về bảng cân đối kế toán và báo cáo nguồn vốn và sử dụng
vốn…22
1.2 Chất lượng phân tích tài chính khách hàng ………………………… 22
1.2.1 Quan điểm về chất lượng phân tích tài chính khách hàng…………….22
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính khách hàng…….23
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính khách hàng.27
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan……………………………………………………27
1.2.3.2 Nhân tố khách quan…………………………………………………30
Chương II: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính khách hàng doanh
nghiệp tại chi nhánh Hà Nội NHTMCP Á Châu
2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại Á Châu ………………………… 32
2.1.1 Quá trình ra đời và phát triển …………………………………………32
2.1.2 Hoạt động chủ yếu và khách hàng của ngân hàng ……………………34
2.1.3 Cơ cấu tổ chức ……………………………………………………… 36
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
11
2
2.1.4 Kết quả kinh doanh trong thời gian qua ………………………………39
2.2 Thực trạng chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại ACB Hà Nội….44
2.2.1Qui trình cho các DN vay vốn và thẩm định tài chính khách hàng … 44
2.2.1.1 Qui trình cấp tín dụng cho doanh nghiệp ………………………… 45
2.2.1.1.1 Bộ hồ sơ vay………………………………………………………45
2.2.1.1.2 Nội dung tờ trình thẩm định khách hàng xin vay vốn…………….46
2.2.1.2 Qui trình phân tích tài chính ……………………………………… 48
2.2.1.2.1 Tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và rủi ro…… 49
2.2.1.2.2 Nhu cầu vốn ………………………………………………………50
2.2.1.2.3 Chấm điểm tín dụng ………………………………………………51
2.2.2 Thẩm định tài chính khách hàng mẫu ……………………………… 51
2.3 Đánh giá về chất lượng phân tích tài chính khách hàng ……………… 56
2.3.1 Kết quả đạt được………………………………………………………56
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân………………………………………………59
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách
hàng tại Ngân hàng thương mại Á Châu – Chi nhánh Hà Nội
3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng ………………………………… 61
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng ……… 62
3.2.1 Hòan thiện nội dung phân tích……………………………………… 62
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn thông tin…………………………………64
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…………………………… … 65
3.2.4 Rút ngắn thời gian xét duyệt… ………………………………… ….67
3.2.5 Nâng cao hệ thống cơ sở trang thiết bị công nghệ thông tin………….67
3.2 Kiến nghị ……………………………………………………………….69
3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước……………………………… … 69
3.2 Kiến nghị với các Bộ ngành có liên quan khác……………………… 70
Kết luận…………………………………………………………………… 72
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
22
3
LỜI MỞ ĐẦU
Phân tích tài chính doanh nghiệp cung cấp thông tin về tình hình
tài chính của doanh nghiệp cho những nhà đầu tư, nhà quản lí và cả
người cho vay. Từ đó giúp họ ra quyết định đúng đắn và hiệu quả.
Đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng
cần phải thẩm định tài chính khách hàng, do vậy phân tích tài chính
khách hàng là một trong những bước quan trọng để đi đến quyết định
cho vay hay không.
Đối với những ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Á
Châu nói riêng, hoạt động tín dụng là một phần vô cùng quan trọng, ảnh
hưởng tới sự phát triển và tồn tại của ngân hàng. Chính vì vậy hoạt động
phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng Á Châu được quan tâm
chú trọng. Khách hàng mục tiêu của ngân hàng là những doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nên mảng phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa vô
cùng quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh ACB Hà Nội, tôi nhận thấy
rằng hoạt động phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp của ngân
hàng tuy đã có những chất lượng tương đối tốt nhưng vẫn còn một số
hạn chế cần khắc phục. Vì lí do đó tôi đã lựa chọn nội dung chất lượng
phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp để nghiên cứu tìm hiểu.
Nội dung nghiên cứu đi từ lí thuyết tới thực tiễn hoạt động tại ngân
hàng, từ đó tôi đề ra một số giải pháp với ngân hàng Á Châu và có kiến
nghị với các cơ quan ban ngành có liên quan giúp nâng cao chất lượng
phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
33
4
CHƯƠNG I : LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2 Phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Từ đầu thế kỉ 20 tới nay phân tích tài chính thực sự được phát triển
và được chú trong hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lí doanh nghiệp có
hiệu quả ngày càng tăng, sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phát
triển của các tập đoàn kinh doanh và khả năng ứng dụng rộng rãi của
công nghệ thông tin. Hoạt động phân tích tài chính là một khâu quan
trọng trong quá trình quản lí doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra quyết
định của các chủ thể như nhà quản lí, nhà đầu tư, cho vay, cơ quan thuế
hay đáp ứng yêu cầu của những người muốn có thông tin về tình hình
hoạt động của doanh nghiệp như thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,
người lao động trong doanh nghiệp… để thực hiện công việc của họ tốt
hơn.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương
pháp và các công cụ cho phép xử lí các thông tin kế toán và các thông
tin khác về quản lí nhằm đánh giá tình hình tài chính một doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp đó. Qui trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng
được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về
tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong
các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lí, tổ chức công cộng.
Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng, và của thị
trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là
có ích và vô cùng cần thiết.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động chủ yếu là huy động
và cho vay. Để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì điều quan trọng bậc
nhất là các khoản cho vay của ngân hàng phải luôn đảm bảo ở mức an
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
44
5
toàn. Cơ sở để hình thành một khoản vay tốt phụ thuộc rất nhiều vào
việc phân tích tài chính khách hàng. Qua kết quả của phân tích tài chính,
người cho vay sẽ nắm được tình hình sản xuất kinh doanh ở hiện tại
cũng như trong quá khứ của doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ trả lời
cho họ những câu hỏi như khách hàng có phương án sử dụng vốn hiệu
quả không? mục đích sử dụng vốn vay có hợp lí không? khách hàng có
thể trả nợ và lãi đúng hạn hay không? ngân hàng có quyền đối với tài
sản và thu nhập của khách hàng khi khoản vay có vấn đề và ngân hàng
có thể thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không?
…Do vậy phân tích tài chính khách hàng được xem là cơ sở quan trọng
để đưa ra các quyết định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó
phân tích tài chính trong thẩm định tín dụng của ngân hàng thương
mại là việc đánh giá một cách khách quan, khoa học, và có hệ thống
toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp trên giác độ ngân hàng,
nhằm đảm bảo tính hiệu quả của khoản vay trước khi ra quyết định
cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong ngân hàng
thương mại
Những người ở những vị trí khác nhau có những mục tiêu khác
nhau khi tiến hành phân tích tài chính. Mối quan tâm của từng đối
tượng cũng như quyết định của từng đối tượng chỉ phù họp và được đáp
ứng khi tiến hàng phân tích tài chính. Mục đích chính của phân tích tài
chính là giúp các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá đúng tình hình
tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp từ đó đưa ra
những quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Tuy nhiên
những báo cáo tài chính là những tài liệu mang tính chất lịch sử vì
chúng cho biết thông tin của một thời kì nhất định vì thế mục đích của
phân tích tài chính là giúp đối tượng quan tâm đưa ra quyết định và hành
động hợp lí trên cơ sở thông tin mang tính lịch sử của báo cáo tài chính.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
55
6
Đối với nhà quản trị phân tích tài chính để nhằm đánh giá hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh điểm yếu của
doanh nghiệp, đó là cơ sở để định hướng cho các quyết định của ban
giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tình hình tài chính, kế hoạch đầu
tư, ngân quĩ, và kiểm soát các hoạt động quản lí khác. Mối quan tâm
hàng đầu của nhà quản trị là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để
đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngoài ra còn
có các mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản
phẩm, bảo vệ môi trường… những mục tiêu này chỉ thực hiện được khi
doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Đối với các nhà đầu tư thông qua hoạt động phân tích tài chính,
họ có thể thu thập nhưng thông tin về tình hình thu nhập của chủ sở
hữu- lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm
tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp,
rủi ro, khả năng hoàn vốn, mức tăng trưởng hiện tại và tương lai. Đó là
một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp
hay không.
Đối với người cho vay, cần phân tích tài chính để nhận biết khả
năng trả nợ vay của khách hàng, mà chủ yếu là tập trung xem xét luồng
tiền tạo ra của doanh nghiệp, các tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh
thành tiền, vốn chủ sở hữu, tỉ lệ vốn nợ của doanh nghiệp để biết rằng
doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ và lãi đúng hạn hay không.
Thông thường, ngân hàng thường xem xét tình hình tài chính của khách
hàng để trả lời những câu hỏi quan trọng như: khách hàng có đáng tin
cậy không? liệu khoản vay có đảm bảo an toàn cho ngân hàng, khách
hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không, liệu ngân hàng có quyền đối
với những tài sản và thu nhập của doanh nghiệp khi khoản vay có vấn
đề, liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn và lãi với rủi ro và chi phí thấp
được không.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
66
7
Như vậy mối quan tâm hàng đầu của người phân tích tài chính là
đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà
biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng
hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó,
các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán
về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh
nghiệp trong tương lai. Nói cách khác phân tích tài chính là cơ sở để dự
đoán tài chính. Tuy nhiên phân tích tài chính có thể đước ứng dụng theo
nhiều phương cách khác nhau nhưng trình tự phân tích và dự đoán đều
phải tuân theo những nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn
dự đoán.
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính
khách hàng
1.1.3.1 Thông tin sử dụng
Trong phân tích tài chính nhà phân tích phải thu thập, sử dụng
mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên
ngoài doanh nghiệp, từ những thông tin số lượng đến thông tin giá trị.
Những thông tin này đều giúp nhà phân tích có thể đưa ra những nhận
xét kết luận chi tiết và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài cần chú ý tới những thông tin
chung của ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp như: cơ hội kinh
doanh, chính sách thuế, lãi suất, vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ
cấu ngành và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần
của doanh nghiệp, các thông tin về pháp lí, kinh tế đối với doanh nghiệp
như tình hình quản lí, kế toán, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh
doanh… Ngoài ra nguồn cung cấp thông tin cũng là một yếu tố quyết
định tới độ chính xác và đáng tin cậy của thông tin sử dụng phân tích tài
chính. Đối với ngân hàng nguồn thông tin có thể từ nhiều nguồn cung
cấp như: chính khách hàng cung cấp, từ cơ quan thuế, cơ quan quản lí
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
77
8
cấp trên của doanh nghiệp, thông tin từ ngân hàng nhà nước, từ các ngân
hàng khác, từ báo chí… hoặc thông tin từ chính trung tâm thông tin của
ngân hàng.
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của
doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin kế toán như là một nguồn thông
tin quan trọng nhất. Với tính hệ thống, đồng nhất, phong phú kế toán
hoạt động như một nhà cung cấp thông tin quan trọng và tin cậy cho
phân tích tài chính. Mặt khác doanh nghiệp cũng cần phải cung cấp
những thông tin kế toán cho các bên đối tác trong và ngoài doanh
nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo
kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài
chính - được hình thành thông qua việc xử lí các thông tin của kế toán
cung cấp, đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình hình tài
chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một
báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có
quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh, và quan hệ quản lí với doanh
nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng
bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và
một bên phản ảnh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ
tài sản hiện thời ở thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lí và sử dụng
của doanh nghiệp đó là tài sản lưu động và tài sản cố định. Bên nguồn
vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản ở cùng thời điểm đó
là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Các khoản mục bên phía tài sản được sắp
xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần còn bên nguồn vốn các khoản
mục được sắp xếp theo nghĩa vụ nợ giảm dần.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
88
9
Bên tài sản bao gồm các khoản mục Tài sản lưu động, và tài sản
cố định. Trong tài sản lưu động lại gồm: tiền mặt, các loại chứng khoán
thanh khoản, các khỏan phải thu khách hàng hoặc phải thu nhà cung
cấp, nguyên vật liệu hàng, công cụ dụng cụ dự trữ, hàng hóa trong
kho… Tài sản cố định bao gồm máy móc, nhà xưởng, thiết bị, công
nghệ, các khoản đầu tư góp vốn dài hạn, thương hiệu, bản quyền, giấy
phép …
Bên nguồn vốn có nợ phả trả: các khoản nợ ngắn hạn như nợ nhà
cung cấp, phải trả khách hàng, lương công nhân viên chưa thanh toán,
nợ ngân hàng ngắn hạn, lãi ngân hàng sắp phải trả… nợ dài hạn gồm nợ
ngân hàng, trái phiếu, kí quĩ… vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban
đầu, lợi nhuận chưa chia, các quĩ khen thưởng, phúc lợi, vốn liên doanh
liên kết…
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài
sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả
năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản cũng như bên
nguồn vón của bảng cân đối kế toán thường đều có cột chỉ tiêu số dư
đầu kì cuối kì. Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu ngoại bảng như: Tài sản
thuê ngoài, vật tư hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công , nhận bán hộ,
ngoại tệ các loại…
Thông tin trong bảng cân đối kế toán giúp nhà phân tích nhận biết
được loại hình doanh nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ về tài chính. Bảng
cân đối kế toán là báo cáo tài chính quan trọng bậc nhất, thông qua đó
nhà phân tích có thể tính toán đánh giá được các chỉ tiêu như khả năng
cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn.
Báo cáo kết qủa kinh doanh cũng là một tài liệu cần thiết cho hoạt
động phân tích tài chính. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch
chuyển của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
99
10
lai. Báo cáo này giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực tế
nhập quĩ khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh
với số tiền thực xuất ra để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu
chi phí, có thể xác định kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị lãi hay
lỗ trong một giai đoạn thường tính theo tháng, quí, năm. Khác với bảng
cân đối kế toán cho biết số liệu thời điểm, báo cáo kết quả kinh doanh
phản ánh kết quả kinh doanh trong cả một giai đoạn, thời kì nhất định.
Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng
các yếu tố đầu vào như: nhân công, nguyên vật liệu, kĩ thuật, trình độ
quản lí sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Các khoản mục chủ yếu của báo cáo kết quả kinh doanh thường
là: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính, doanh thu từ hoạt
động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường, chi phí tương ứng
với những hoạt động đó, tình hình nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước,
lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế…
Để đánh giá một doanh nghiệp có khả năng chi trả hay không, nhà
phân tích tài chính cần tìm hiểu tình hình ngân quĩ của doanh nghiệp.
Ngân quĩ thường được xác định cho khoảng thời gian ngắn thường là
hàng tháng. Bao gồm dòng tiền thực nhập quĩ từ hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng hóa dịch vụ, dòng tiền nhập quĩ từ các hoạt động tài
chính, đầu tư, hoạt động bất thường khác, dòng tiền thực xuất quĩ để
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện hoạt động đầu tư, tài
chính, hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền xuất và nhập có thể dự báo cho nhu cầu
trong thời gian tới của doanh nghiệp, cũng từ đó có thể thực hiện cân đối
ngân quĩ với số dư ngân quĩ đầu kì để xác định số dư ngân quĩ cuối kì.
Từ đó lập mức dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm
bảo khả năng chi trả cho doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1010
11
Như vậy để thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp các nhà
phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, thông qua đó
họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính có liên quan
trực tiếp tới mục đích mà họ hướng tới. Đối với hoạt động phân tích tài
chính khách hàng doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại mục đích
chính của ngân hàng là tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, khả năng chi trả, diễn biến của dòng tiền xuất quĩ nhập
quĩ, khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế phân tích tài
chính cần sử dụng thông tin đa dạng, từ nhiều nguồn, không chỉ là
những báo cáo tài chính, mà còn có cả những thông tin khác có liên
quan như tình hình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp đối với tất cả các
tổ chức tín dụng, với bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp, ngoài ra
còn có những thông tin chung về hiện trạng và xu hướng phát triển của
ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm mà doanh nghiệp đang tham gia hoạt
động.
Vì yêu cầu của việc phân tích, nhân viên tín dụng không thể sử
dụng những thông tin đơn thuần từ các báo cáo tài chính. Để hiểu thật kĩ
hoạt động của khách hàng, có khi cần phải sử dụng số liệu chi tiết. Như
tìm hiểu những khoản phải thu, phải trả của chi tiết từng đối tác của
khách hàng, nhờ đó mà nhân viên tín dụng mới có thể tìm hiểu tập quán
bán hàng cũng như mua hàng của doanh nghiệp. Chính sách bán hàng
trả chậm của doanh nghiệp có thể có số ngày ít hơn hoặc lâu hơn so với
hóa đơn, hợp đồng kinh tế, những điều này nhân viên tín dụng chỉ có thể
tìm hiểu thông qua việc đi thực tế, xem chi tiết các tiểu khoản.
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Phương pháp truyền thống được sử dụng trong phân tích tài chính
đó là phương pháp tỉ số, trong đó các tỉ số được thiết lập từ việc so sánh
chỉ tiêu này so sánh với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp ngày càng
được sử dụng nhiều bởi tính hiện thực của nó, các điều kiện áp dụng
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1111
12
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. nguồn thông tin kế toán ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện, cải tiến và được cung câp ngày một
đầy đủ hơn. Đây là cơ sở để hình thành những tỉ lệ tham chiếu tin cậy
cho việc đánh giá một tỉ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh
nghiệp. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép tích lũy dữ liệu và
thúc đẩy nhanh chóng quá trình tính toán hàng loạt các chỉ số, hơn thế
nữa phương pháp này giúp người phân tích khai thác sử dụng triệt để
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỉ số theo thời
gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.
Khi sử dụng phương pháp này cần phải có một ngưỡng để tham
chiếu so sánh, đánh giá các tỉ số đãt tính toán được. Để đánh giá so sánh
tình hình tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỉ số của doanh
nghiệp với tỉ số tham chiếu chung của toàn ngành hoặc so sánh với các
doanh nghiệp có cùng qui mô hoặc lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Phương pháp nàythường được sử dụng cùng với các phương pháp phân
tích tài chính khác. Khi phân tích nhà phân tích thường so sánh các chỉ
tiêu theo thời gian, kì này so với kì trước để nhận biết được xu hướng
thay đổi của tình hình tài chính doanh nghiệp, hoặc theo không gian so
sánh doanh nghiệp với mức trung bình ngành để đánh giá vị thế của
doanh nghiệp trong ngành.
Bên cạnh đó phương pháp phân tích tài chính Doupont cũng
thường được sử dụng. với phương pháp này các nhà phân tích tách một
tỉ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như tỉ suất thu
nhập trên tài sản( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu( ROE)
thành tích của một chuỗi các tỉ số có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Điều đó cho phép nhà phân tích thấy được sự ảnh hưởng của các tỉ số đó
với tỉ số tổng hợp. từ đó nhà phân tích sẽ nhận biết được nguyên nhân
của những hiện tượng, diễn biến trong hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1212
13
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính
Thông tin từ các bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của
doanh nghiệp thường được bổ sung bằng việc phân tích các chỉ số tài
chính, cán bộ tín dụng sẽ lựa chọn những thông tin từ những báo cáo tài
chính mà khách hàng đã cung cấp để từ đó phân tích, tìm hiểu những
vấn đề có ảnh hưởng quan trọng tới tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như khả năng kiểm soát chi phí của doanh nghiệp, mức độ
hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp trong việc tận dụng các nguồn lực
để tạo ra doanh thu và các luồn tiền, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả
năng trang trải các chi phí tài chính, khả năng thanh toán nợ vay, tình
hình biến động về khả năng sinh lời và thu nhập theo thời gian, qui mô
nợ hay nợ so với vốn chủ của doanh nghiệp, và liệu trong tương lai
doanh nghiệp có phải đối mặt với những khoản phải trả bất thường làm
tăng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp trong tương lai hay không.
Các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng để đo lường khả năng
kiểm soát chi phí của doanh nghiệp bao gồm:
Tiền công và tiền lương / Doanh thu thuần
Chi phí quản lí và bán hàng/ Doanh thu thuần
Khấu hao/Doanh thu thuần
Chi phí trả lãi tiền vay/Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán/ Doanh thu thuần
Những chỉ tiêu này được sử dụng để xem xét những chi phí và tỉ
lệ của chúng trên doanh thu thuần mà doanh nghiệp phải đã chi ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Những tỉ lệ chi phí này phản ảnh phần
nào chất lượng cũng như năng lực quản lí của chủ doanh nghiệp, có thể
so sánh những chỉ tiêu này với tỉ lệ trung bình toàn ngành để biết được
vị thế cũng như năng lực của doanh nghiệp trên thị trường. Với một
doanh nghiệp có chi phí cho quản lí bán hàng, giá vốn hàng bán cao hơn
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1313
14
mức trung bình ngành trong nhiều năm thì có thể nói doanh nghiệp này
khó có ưu thế cạnh tranh trong việc giảm chi phí sản xuất so với các đối
thủ cạnh tranh khác. Chi phí trả lãi tiền vay cũng cho biết tình hình thực
hiện nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp trong thời gian qua là bao nhiêu, và
liệu doanh nghiệp có còn đủ năng lực nếu vay thêm vốn nữa không. Nếu
doanh nghiệp có chi phí giảm qua từng năm với sự ổn định hoặc tăng
trưởng của doanh thu chứng tỏ doanh nghiệp có thể thuyết phục được
ngân hàng về triển vọng thu nhập trong tương lai. Thông qua những chi
phí chi cho quản lí, bán hàng, trả lương cho công nhân viên có thể nắm
được chính sách nhân sự, chính sách marketing của doanh nghiệp, và
hiệu quả của những chính sách đó tới việc tăng doanh thu. Phương pháp
tính khấu hao của cũng ảnh hưởng tới việc sử dụng tài sản cố định, phân
bổ chi phí hợp lí, điều này cũng phản ánh một phần năng lực quản lí
điều hành của đội ngũ quản lí doanh nghiệp.
Xem xét kết quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc làm rất
cần thiết đối với ngân hàng, doanh nghiệp đã sử dụng như thế nào trong
việc tạo ra doanh thu, luồng tiền mặt và quá trình doanh thu được
chuyển thành tiền mặt được tiến hành như thế nào. Các tỉ lệ thường
được sử dụng là:
Vòng quay dự trữ
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Kì thu nợ trung bình
Vòng quay tiền
Các chỉ số hoạt động được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài
sản của doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư
cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do
đó nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử
dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1414
15
phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được
sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt
động của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền được xác định bằng cách chia doanh thu trong
năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân
trong năm, nó cho biết vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng tỉ số
giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ bình quân. Dự trữ của doanh
nghiệp thông thường có: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dở
dang, thành phẩm. Nhìn chung những doanh nghiệp có vòng quay dự trữ
càng cao thì càng tốt cho ngân hàng và chủ nợ vì tỉ lệ này cho biết số lần
trong năm doanh nghiệp đó chuyển hàng tồn kho thành hàng hóa. Tỉ lệ
này càng thấp có thể cho thấy khách hàng ít chấp nhận sản phẩm của
doanh nghiệp hoặc chính sách dự trữ và sản xuất của doanh nghiệp
không còn hiệu quả. Tỉ lệ vòng quay dự trữ quá cao có thể phản ánh
việc giá sản phẩm được xác định ở mức thấp hoặc dự trữ hàng không
phù hợp, thiếu hàng bán, không thu hút được khách hàng.
Trong phân tích tài chính, kì thu tiền bình quân sử dụng để đánh
giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và
doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ
thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp.
Kì thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x360/ Doanh thu
Sự kéo dài của kì thu nợ bình quân cho thấy qui mô các khoản tín
dụng quá hạn đã tăng lên và hiệu quả của chính sách thu tiền đã giảm,
đặt ra câu hỏi: tại sao lại xảy ra tình trạng này và doanh nghiệp đã làm gì
để đưa doanh số thu nợ tăng lên.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1515
16
Để đánh giá hiệu quả sử dụng của tổng tài sản và của riêng tài sản
cố định nhà phân tích tài chính thường sử dụng 2 chỉ tiêu hiệu suất sử
dụng tổng tài sản và hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu/ Tài sản cố định
Giá trị tài sản cố định sử dụng được lấy theo giá trị còn lại của tài
sản cố định tính đến thời điểm lập báo cáo.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu/ Tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản khi đưa vào sản xuất
kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Để tạo ra luồng tiền mặt để thực hiện nghĩa vụ nợ, doanh nghiệp
phải bán được hàng hóa dịch vụ, để đánh giá được tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp thường căn cứ vào các chỉ tiêu như tỉ lệ tăng trưởng
bán hàng, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, tỉ lệ lợi nhuận biên
Tỉ lệ lợi nhuận gộp biên
= (Doanh thu thuần – giá vốn hàng bán)/Doanh thu thuần
Lợi nhuận biên = Thu nhập sau thuế / Doanh thu thuần
Lợi nhuận gộp biên tính toán cả điều kiện thị trường, nhu cầu thị
trường về sản phẩm của doanh nghiệp, mức độ cạnh tranh mà doanh
nghiệp phải đối mặt, thị phần hay sức mạnh của doanh nghiệp trên thị
trường. Lợi nhuận biên cho biết lợi nhuận từ mỗi đồng doanh thu sau
khi trừ tất cả các chi phí bao gồm cả thuế, nó phản ánh mức độ hiệu quả
của chính sách kiểm soát chi phí và mức độ cạnh tranh của chính sách
định giá của doanh nghiệp.
Một nguyên tắc quan trọng khi ngân hàng ra quyết định cho vay
đó là doanh nghiệp phải có cơ sở đảm bảo cho việc hoàn trả cả gốc và
lãi đúng hạn, đầy đủ. Để đánh giá sự bảo vệ đối với ngân hàng nhà phân
tích thường dùng các tỉ lệ như tỉ lệ hoàn trả lãi, tỉ lệ hoàn trả gốc và lãi,
tỉ lệ hoàn trả các khoản cố định.
Tỉ lệ hoàn trả lãi = Thu nhập trước lãi và thuế/ Lãi phải trả
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1616
17
Tỉ lệ hoàn trả lãi và gốc = Thu nhập trước lãi và thuế / {( Phần trả
lãi – Phần trả gốc/( 1 – Tỉ lệ thuế thu nhập )}
Tỉ lệ hoàn trả các khoản cố định
= Thu nhập trước lãi, thuế và tiền thuê/ (Phần trả lãi + Tiền thuê)
Trạng thái thanh toán của người vay biểu thị khả năng của họ
trong việc tăng tiền mặt một cách kịp thời khi cần với chi phí hợp lí, bao
gồm khả năng trả lãi tiền vay, các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn. Các chỉ
số thường được sử dụng là: tỉ lệ thanh toán hiện hành, tỉ lệ thanh toán
nhanh, tỉ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng.
Tỉ số thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/ Nợ ngắn hạn
Tỉ số thanh toán nhanh
= ( Tài sản lưu động – Dự trữ)/ Nợ ngắn hạn
Tỉ số dự trữ trên vốn lưu động ròng = Dự trữ/ Vốn lưu động ròng
Trong đó:
Tài sản lưu động ròng = Tài sản lưu động – Tồn kho NVL và
hàng hoá – Các khoản nợ ngắn hạn
Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Các khoản nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động thường bao gồm tiền mặt và các chứng khoán
ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ, còn nợ ngắn
hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả
phải nộp khác… Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời gian
nhất định thường là trong vòng 1 năm. Tỉ số thanh toán hiện hành là
thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết
mức độ các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể
chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các
khỏan nợ đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến
hạn nhà phân tích còn quan tâm tới chỉ tiêu vốn lưu động ròng, hay vốn
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1717
18
lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này là một yếu tố
quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính
trong một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng
tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn
thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng thực hiện
nghĩa vụ thanh toán, mở rộng qui mô sản xuất và khả năng nắm bắt cơ
hội kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy sự
phát triển của doanh nghiệp có thể được thể hiện ở sự tăng trưởng của
vốn lưu động ròng.
Tỉ số khả năng thanh toán nhanh là tỉ số giữa các tài sản quay
vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản
có thể nhanh chóng chuyển thành tiền bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn
hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ là những tài sản khó chuyển
thành tiền hơn trong tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu đem bán. Do
vậy tỉ số khả năng thanh toán nhanh thể hiện khả năng hoàn trả các
khoản nợ không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ, hàng tồn kho. Tỉ
số dự trữ trên vốn lưu động ròng cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần
trăm vốn lưu động ròng. Điều nay có liên quan tới cơ cấu vốn, cơ cấu tài
trợ cũng như cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Nếu như các chỉ số trên phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng
biệt trong doanh nghiệp thì tỉ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp
hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp, từ hoạt động sản xuất kinh
doanh tới hiệu quả quản lí. Các tỉ số thường được sử dụng như: doanh
lợi tiêu thụ sản phẩm, tỉ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu, hoặc
trên tổng tài sản. Thu nhập mà nhà phân tích thường sử dụng đó là thu
nhập trước thuế hoặc thu nhập sau thuế, đó chính là lượng thu nhập của
chủ doanh nghiệp sau khi trừ đi các chi phí.
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Thu nhập sau thuế/ Doanh thu
Tỉ số thu nhập sau thuế trên tổng tài sản
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1818
19
ROA = Thu nhập sau thuế / Tổng tài sản
Tỉ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu
ROE = Thu nhập sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm phản ánh số lợi nhuận sau
thuế thu được trên mỗi đồng doanh thu, còn chỉ tiêu ROE, ROA phản
ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu hoặc tổng vốn đầu tư, ROE
được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư,
tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt
động quản lí tài chính của doanh nghiệp. Còn với ROA tùy vào tình
hình của từng doanh nghiệp mà có thể sử dụng nhu nhập sau thuế hay
thu nhập trước thuế để phân tích đánh giá.
Bất cứ một tổ chức tín dụng nào khi ra quyết định cho vay cũng
quan tâm tới vấn đề hiện nay khách hàng của mình có qui mô nợ như thế
nào, do vậy khái niệm đòn bẩy tài chính được sử dụng để đánh giá phân
tích trạng thái tín dụng và mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh
nghiệp. Các chỉ số về khả năng cân đối vốn được dùng để đo lường phần
vốn của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ,
và nó có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ các chủ nợ
sẽ nhìn vào tỉ số này để xem xét mức độ tin cậy và sự an toàn cho các
khoản nợ. Nếu doanh nghiệp chỉ có tỉ lệ vốn chủ rất ít so với tổng vốn
đầu tư thì rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh chủ yếu so các chủ
nợ phải gánh chịu, mặt khác khi mở rộng qui mô vốn bằng cách đi vay
thì các chủ sở hữu doanh nghiệp vẫn giữ vững quyền kiểm soát điều
hành. Ngoài ra nếu doanh nghiệp tạo được lợi nhuận từ các khỏan tiền
vay thì lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng lên một cách đáng kể.
Một số chỉ tiêu thường sử dụng khi xem xét vấn đề này bao gồm: hệ số
nợ, tỉ số đòn bẩy, tỉ số nợ trên doanh thu.
Hệ số nợ = Tổng nợ phải trả/ Tổng tài sản
Tỉ số đòn bẩy = Nợ dài hạn / Tổng nợ dài hạn và vốn chủ
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
1919
20
Tỉ số nợ trên doanh thu = Tổng nợ phải trả / Doanh thu thuần
Qui mô nợ của doanh nghiệp có quan hệ với doanh thu vì doanh
thu tạo ra cuối cùng là để phục vụ cho việc trả nợ, nếu các khoản phải
trả tương xứng với doanh thu thì nhà quản trị phải tìm kiếm những
khỏan nợ có chi phí thấp hơn, hoặc hạn chế chi phí nhằm tăng doanh thu
cho doanh nghiệp.
Một yếu tổ khác có ảnh hưởng tới tình hình thu nhập của doanh
nghiệp đó là các khỏan phải trả bất thường, nó không xuất hiện thường
xuyên trong bảng cân đối kế toán nhưng nó có thể chuyển thành các
quyền đòi hỏi thực sự về tài sản của doanh nghiệp, làm giảm các quĩ
hiện hành giành cho trả nợ. Một số khoản phải trả bất thường như: chi
phí cho những vụ kiện cáo, tranh chấp, những khoản lương hưu phải trả
cho người lao động trong tương lai, thuế chưa nộp, những chi phí liên
quan tới môi trường… thông thường những khỏan trả bất thường này
không nằm trong chi phí dự kiến của doanh nghiệp nhưng vì một lí do
nào đó như sự thay đổi của những qui định về môi trường, việc tăng
thuế của chính phủ hoặc so tranh chấp thương mại. bản quyền Việc dự
báo đánh giá ảnh hưởng của những khoản chi này tới thu nhập doanh
nghiệp sẽ cung cấp thêm cơ sở cho hoạt động phân tích tài chính.
Những tỉ số tài chính được sử dụng trên đây sẽ cho thấy một bức
tranh khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp, ngoài những tỉ
số trên các nhà phân tích còn đặc biệt quan tâm tới một số những chỉ
tiêu khác có liên quan tới chủ sở hữu và giá trị thị trường như:
Tỉ lệ hoàn vốn cổ phần = Thu nhập sau thuế/ Vốn cổ phần
Thu nhập cổ phiếu = Thu nhập sau thuế/ Số lượng cổ phiếu
thường
Tỉ lệ trả cổ tức = Lãi cổ phiếu/ Thu nhập cổ phiếu
Tỉ lệ giá/ Lợi nhuận = Giá cổ phiếu/ Thu nhập cổ phiếu
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2020
21
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont nhằm đánh
giá tác động tương hỗ giữa các tỉ số tài chính, nhà phân tích có thể thực
hiện việc tách ROE như sau:
ROE = TNST/VCSH = TNST/ TS x TS/ VCSH = ROA x EM
( Trong đó EM là số nhân vốn)
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu – Mức
tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, còn ROA phản ánh mức sinh lợi
toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lí tài sản
của nhà quản lí. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ
huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng điều đó
chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài.
Tách ROA
ROA = TNST/ TS = TNST/ DT x DT/ TS = PM x AU
PM: doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỉ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh
thu của doanh nghiệp, khi PM tăng điều dó thể hiện doanh nghiệp quản
lí điều hành có hiệu quả.
AU: hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy qua hai lần phân tích ROE có thể biến đổi như sau:
ROE = PM x AU x EM
Công thức trên có thể cho chúng ta thấy các yếu tố cơ bản tác
động tới ROE của doanh nghiệp, đó là khả năng tăng doanh thu, công
tác quản lí chi phí, quản lí tài sản và đòn bẩy tài chính của doanh
nghiệp.
Tách PM và AU
PM = TNST/ DT
TNST = Doanh thu – Chi phí – Thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh thu = Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu
tư, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường
Tài sản = Tài sản cố định + Tài sản lưu động
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2121
22
Các thành phần trên lại được phân tách chi tiết hơn tùy vào mục
đích yêu cầu của nhà phân tích tài chính, với trình tự tách như trên có
thể xác định những nguyên nhân là tăng giảm ROE một cách chi tiết cụ
thể.
Ngoài ra các nhà phân tích tài chính còn sử dụng những chỉ tiêu
tài chính trung gian, kết hợp những đánh giá về trạng thái tĩnh với
những đánh giá về trạng thái động để đưa ra bức tranh tòan cảnh về tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh thể hiện qua
bảng cân đối kế toán thì trạng thái động được phản ánh qua bảng kê
nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ) qua các kết quả kinh doanh.
Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá
sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó có thể
đánh giá những thay đổi về ngân quĩ của doanh nghiệp. Như vậy giữa
những báo cáo tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ. Những thay đổi trên
bảng cân đối kế toán được lập đầu kì và cuối kì cùng với khả năng tự tài
trợ đước tính từ báo cáo kết quả kinh doanh, được thể hiện trên bảng tài
trợ và liên quan mật thiết tới ngân quĩ của doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định
nhà phân tích còn chú trọng tới các chỉ tiêu trung gian nhằm đánh giá
chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh điểm yếu
của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở xác lập nhiều hệ số rất có
ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn,… của doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán
Thu nhập trước khấu hao và lãi
= Lãi gộp – Chi phí quản lí, bán hàng
Thu nhập trước thuế và lãi
= Thu nhập trước khấu hao và lãi – Khấu hao
Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - thuế thu nhập DN
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2222
23
Trên cơ sở đó nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và
tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kì để nhận biết tình hình hoạt
động của doanh nghiệp. đồng thời nhà phân tích cũng cần so sánh chúng
với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá
vị thế của doanh nghiệp.
1.1.4.2 Phân tích báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh
nghiệp
Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn người ta thường xem
xét sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh
nghiệp trong một giai đoạn theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân
đối kế toán. Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lí tài chính
đó là bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp nhà
quản lí xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng nguồn vốn
đó, đối với cán bộ ngân hàng nó cung cấp những thông tin quan trọng về
sự thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Để lập được bảng này trước hết phải liệt kê sự thay đổi cả các
khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kì tới cuối kì, mỗi sự thay
đổi được phân biệt ở hai cột, sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên
tắc:
Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên
nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn
Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên
nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn vốn
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở chỉ ra những trọng điểm đầu tư
vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. Ngoài việc
phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tài
chính theo luồng tiền để xác định sự tăng giảm tiền và nguyên nhân tăng
giảm. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lí ngân
quĩ tốt hơn.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2323
24
1.1.4.3 Dự báo về bảng cân đối kế toán và báo cáo nguồn vốn và sử
dụng vốn
Việc xem xét các số liệu tài chính trong quá khứ về tình hình
nguồn vốn và sử dụng vốn là quan trọng nhưng chúng ta cũng cần quan
tâm tới việc dự báo tình hình nguồn vốn, sử dụng vốn của và điều kiện
tài chính của người xin vay trong tương lai. Ngân hàng thường yêu cầu
khách hàng chuẩn bị các số liệu dự tính và sau đó cán bộ phân tích tài
chính trong ngân hàng sẽ chuẩn bị tài liệu dự tính của riêng ngân hàng,
và họ sẽ sử dụng hai nguồn thông tin này để so sánh. Thông thường
những dự báo của chủ doanh nghiệp thường lạc quan và đánh giá chủ
quan hơn so với ngân hàng, còn nhìn từ phía ngân hàng, cán bộ tín dụng
cần xác định một cách chính xác bằng cách nào khách hàng sẽ có được
khoản vốn dự định vay thêm và ước tính hậu quả xấu nhất có thể xảy
đến với ngân hàng.
Thông thường cán bộ phân tích tín dụng sẽ lập nên bảng cân đối
kế toán dự định và dự báo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Việc dự tính chi phí doanh thu lợi nhuận giúp ngân hàng xác định
được mức cấp tín dụng tối ưu cho khách hàng. Hạn chế tình trạng tài trợ
vốn dư thừa cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả cho vay, ảnh hưởng
tới khả năng trả thu nợ của ngân hàng. Đồng thời nó cũng giúp ngân
hàng tư vấn cho khách hàng khi vay vốn sử dụng cho mục đích gì thì
nên dùng loại sản phẩm tương ứng, đảm bảo chi phí tối ưu và cân đối
nguồn vốn cho doanh nghiệp.
1.2 Chất lượng phân tích tài chính khách hàng của NHTM
1.2.1 Quan điểm về chất lượng phân tích tài chính khách hàng
“Chất lượng” là một khái niệm trừu tượng, nó chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố chủ quan và khách quan của người đánh giá chất lượng.
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2424
25
Hà Nội – 2001) thì “chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hóa
hay dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng
và kĩ thuật chế biến… là những đặc điểm quan trọng của chất lượng, ảnh
hưởng tới việc người tiêu dùng mua sản phẩm đó”.
Như vậy chúng ta có thể hiểu chất lượng phân tích tài chính
khách hàng trong ngân hàng thương mại là khả năng đáp ứng yêu cầu
tìm hiểu của ngân hàng về tình hình tài chính của khách hàng cũng
như việc đánh giá rủi ro, mức độ và hiệu quả hoạt động của khách
hàng đó thông qua quá trình phân tích tài chính khách hàng doanh
nghiệp, nhằm đảm bảo sự tồn tài và phát triển của hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại.
Chất lượng phân tích tài chính khách hàng là yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp và lâu dài tới tình hình quan hệ của khách hàng và ngân hàng,
nếu chất lượng phân tích tài chính tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho doanh
nghiệp có tình hình tài chính tốt có cơ hội được tài trợ vốn, đối với ngân
hàng khi phân tích tài chính hiệu quả sẽ đưa tới những quyết định tín
dụng đúng đắn, giảm rủi ro cho ngân hàng, giúp ngân hàng tiếp tục tồn
tại và phát triển.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính khách
hàng
Chất lượng phân tích tài chính chủ yếu được thể hiện qua các
nhóm chỉ tiêu sau:
Thời gian phân tích: thời gian phân tích tài chính của doanh
nghiệp là một phần trong thời gian thẩm định hồ sơ tín dụng của khách
hàng, do đó thời gian phân tích ngắn hay dài ảnh hưởng trực tiếp tới thời
gian phân tích tín dụng. Đây là một chỉ tiêu đo lường chất lượng dễ thấy
nhất, thường thì cả ngân hàng và khách hàng đều muốn rút ngắn thời
gian phân tích tín dụng, trong đó có thời gian phân tích tài chính, tuy
nhiên tùy vào tình hình cụ thể của từng đối tượng khách hàng mà thời
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
2525