Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Khủng hoảng nợ công tại châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.02 KB, 34 trang )

Nhóm 15
LỜI NÓI ĐẦU 2
1. Khái niệm và đặc điểm 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Đặc điểm 3
2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công tại châu Âu
4
2.1. Nguyên nhân bên trong 4
2.2. Nguyên nhân bên ngoài 5
2.3.Nguồn gốc của những nguyên nhân trên 7
3. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
13
3.1. Hy Lạp, nơi hình thành khủng hoảng nợ công 13
3.2. Ý: điểm lây lan mới của khủng hoảng 15
3.3. Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland rồi đến Bồ Đào Nha 16
4. Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế Châu Âu và thế giới 17
5. Những ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công châu Âu đến nền kinh tế Việt Nam và
bài học kinh nghiệm 27
5.1. Ảnh hưởng 27
5.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 28
HP: Lý thuyết tài chính công Page 1
1
Nhóm 15
KẾT LUẬN 34LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện
tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.
Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa qua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu.
Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc
gia cao tương đương với Hy Lạp như Ý, bồ Đào Nha, Ireland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng
hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến


nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Ngay từ đầu, năng lực chống đỡ những cú sốc vĩ mô và tài chính tiêu cực của các nước
thành viên khối đồng tiền chung châu Âu đã được xác định là thử thách chính đối với sự thành
công của đồng tiền chung.
Khu vực đồng euro không giống với mô hình khối “liên minh đô-la” của Mỹ trên nhiều
khía cạnh mấu chốt. Các quốc gia trong khu vực Châu Âu chủ yếu hợp tác trong các chính sách
tiền tệ, nhằm bảo đảm duy trì giá trị đồng Euro, trong khi các chính sách tài khóa lại chưa có được
một sự đồng thuận và hài hòa tương ứng. Mặc dù đã có những quy định cụ thể về mức thâm hụt
ngân sách cũng như nợ công, nhưng lại không có một cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với
từng quốc gia thành viên. Chính vì vậy, sự kiện vỡ nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã kéo theo
khủng hoảng niềm tin lan sang các quốc gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo khác gây ra khủng
hoảng nợ công trầm trọng.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu tới nền kinh tế thế giới trong thời
gian qua cho thấy, nợ công là một vấn đề mang tính toàn cầu mà bất cứ một quốc gia nào dù mạnh
hay yếu cũng có nguy cơ gặp phải. Vì thế, những bài học từ khủng hoảng nợ công ở các nước
châu Âu là kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình phát triển.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 2
2
Nhóm 15
1. Khái niệm và đặc điểm
1.1. Khái niệm
 Nợ công còn gọi là Nợ chính phủ hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương
đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ
công là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ
chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
 Khủng hoảng nợ công tại Châu Âu: Một cách khái quát nhất khủng
hoảng nợ công khi thâm hụt ngân sách đến một thời điểm nào đó vượt

quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả nợ của chính phủ, dẫn đến suy
giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.
Năm 1996, Liên minh Châu Âu (EU) đã ký hiệp ước quy định các thành viên trong nhóm
giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt quá 3% GDP và tổng nợ chính phủ không vượt
quá 60% GDP quốc gia
1.2. Đặc điểm
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có
những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với
các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà
nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếpđược hiểu
là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách
nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra
bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách
nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
HP: Lý thuyết tài chính công Page 3
3
Nhóm 15
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục
đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán
cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được những mục tiêu của quá
trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan
trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công Việt Nam là Nhà nước quản lý thống
nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo
hai mục tiêu cơ bản trên.
Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế
– xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những

lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở Việt Nam,
xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là
của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi
ích của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện
quan trọng nhất.
2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công tại châu Âu
Có nhiều nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, bao gồm những nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
2.1. Nguyên nhân bên trong
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm trong quản lý
và không trung thực khi thông báo số liệu kinh tế trong nhiều năm. Chính sự mất niềm tin làm cho
Hy Lạp giải quyết khủng hoảng càng khó khăn. Bất kỳ quyết định nào của chính phủ Hy lạp về
giải quyết vấn đề ngân sách đều bị hoài nghi, do đó càng khó cho giải quyết khủng hoảng. ngoài
việc vốn đầu tư chạy khỏi Hy Lạp, khoảng 30% hoạt động của nền kinh tế nước này có gian lận,
90% những người có thu nhập cao khai thu nhậm dưới 30.000 Euro/năm nhằm tránh nộp thuế. Cả
nước Hy Lạp chỉ có 15.000 người khai thu nhập trên 100.000 Euro/năm. Bộ trưởng tài chính Hy
Lạp Papaconstantinou cho biết không ai có thể tin ở Hy Lạp chỉ có 15.000 người có thu nhập trên
100.000 Euro/năm. Bên cạnh đó, chính phủ Hy Lạp coi lĩnh vực công là nhân tố bảo hộ chứ
không phải là động lực của nền kinh tế. một vấn đề liên quan đến tài chính khác của Hy Lạp là
việc Nhà thờ, một trong những chủ sở hữu quỹ đất lớn nhất quốc gia này, lại không phải trả một
HP: Lý thuyết tài chính công Page 4
4
Nhóm 15
đồng thuế nào. Mặc dù các nhà dân chủ xã hội đã yêu cầu Nhà thờ phải trả thuế như mọi người
khác, nhưng cho đến nay chưa thấy có biện pháp nào được đưa ra áp dụng.
Các chính phủ thu không đủ chi: các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng hoảng nợ
công ở châu Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá lớn,thậm chí còn cho rằng, những chính phủ
đó không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế
của chính nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ
công(lương cao cho các nhà chính trị, công chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ

hưu sớm).
Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU: Do vấn đề về cơ cấu nên EU có
hạn chế về điều hành nền kinh tế của Khối, các chính sách tiền tệ không đi cùng với cải cách thu
thuế và lao động. EU và Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng phản ứng chậm với các nền
kinh tế khi gặp khủng hoảng. Bên cạnh đó, nhà kinh tế học Joseph Stiglitz, người đoạt giải thưởng
Nobel kinh tế năm 2001 cho rằng, các biện pháp của các chính phủ hiện nay tập trung vào giảm
thâm hụt ngân sách nên có thể đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng rủi ro.
Áp lực của các nhóm tài phiệt: các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính lớn và các trung tâm
quyền lực kinh tế kinh tế đã thuyết phục được các chính phủ chỉ điều chỉnh thể chế chứ không áp
dụng các biện pháp cải cách các thể chế. Chính phủ các nước phải tốn nhiều tỷ Euro hỗ trợ các
ngân hàng và cho các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền kinh tế
không bị đổ vỡ. điều này không tránh khỏi việc nợ công gia tăng. Trong khi đó, các ngân hàng tư
nhân nhận tiền với lãi suất thấp, khoảng 1%, từ các ngân hàng trung ương với mục đích cung cấp
tài chính cho các doanh nghiệp và tư nhân phát triển sản xuất nhưng lại dùng tiền đó để mua nợ
của các chính phủ với lãi suất 4% hoặc 5%.
2.2. Nguyên nhân bên ngoài
Chiến dịch tấn công làm suy yếu đồng Euro: Ngay từ tháng 02/2010, Bộ trưởng xây
dựng Tây Ban Nha José Blanco cho rằng có một chiến dịch tấn công đồng Euro trên các thị
trường thế giới mà mục tiên nhằm vào Tây Ban Nha. Giới đầu cơ đang thực hiện các chiến dịch
nhằm hạ thấp đồng Euro và kiếm lời. Họ chủ yếu đầu cơ trong ngắn hạn. Cũng có một số nhà
kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng này do Anh và Mỹ tạo ra để nhằm hạ đồng Euro. Bởi theo họ,
HP: Lý thuyết tài chính công Page 5
5
Nhóm 15
Anh luôn khó chịu với đồng Euro, còn Mỹ thì cảm thấy bị đồng Euro đe doạ, việc tấn công đồng
Euro cũng để chuyển hướng dư luận về sự yếu kém của đồng đô la Mỹ và đồng Bảng Anh.
Các cơ quan đánh giá rủi ro trái phiếu vào thị trường tài chính: Cuộc khủng hoảng nợ ở
Dubai, các cơ quan đánh giá rủi ro phát hiện có một cuộc khủng hoảng và hạ thấp trái phiếu của
Dubai, thị trường tài chính Dubai chao đảo và giới tài phiệt đầu cơ được thu lời. Tiếp đó, các cơ
quan đánh giá rủi ro tiếp tục đi tìm các khoản nợ chủ quyền khác và họ đã nhắm tới các nước

Nam Âu, đầu tiên là Hy Lạp với nền kinh tế yếu, nợ công cao. Các cơ quan này mở rộng các hoạt
động gâybất ổn trên thị trường tài chính. Các cơ quan đánh giá Standard & Poor’s và Fitch bắt đầu
đánh giá nợ của Hy Lạp, hạ thấp trái phiếu của nước này thành trái phiếu rác. Kể từ đó, lãi suất
trái phiếu của chính phủ Hy Lạp không ngừng tăng, thị trường chứng khoán Hy Lạp liên tục giảm.
Cuối tháng 4/2010, Moody’s cảnh báo nợ công của Hy Lạp, hạ tiếp trái phiếu chính phủ Hy Lạp.
Các trái phiếu 10 năm lãi suất tăng lên 8,74% và trái phiếu 2 năm lãi suất tăng lên 10%. Sau đó
Standard Poor’s tiếp tục hạ trái phiếu chính phủ làm tăng lãi suất trái phiếu 10 năm lên 10% vào
cuối tháng 4/2010. Joseph Stiglitz cũng cho rằng, các cơ quan đánh giá rủi ro như Standard &
Poors (S&P), Moody’s và Fitch là nhân tố góp phần vào sự bất ổn của các thị trường, đẩy các
nước vào khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ tài chính: Mục đính của đầu cơ là làm tăng lãi suất trái Phiếu chính phủ
cao nhất có thể để thu lời. Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang phải đối mặt với hoạt động
đầu cơ tài chính rất cao. Những nạn nhân tiếp theo có thể sẽ là Aixơlen và Italia. Thủ tướng Hy
Lạp Papandreu công bố báo cáo cho biết, thâm hụt công của nước này năm 2009 gấp 3 lần so với
mức chính phủ đã công bố trước đó và đạt tới 12,7% GDP, nợ công sẽ hơn 120% GDP năm 2010
và 135% GDP năm 2011. Chỉ riêng năm 2009 nợ công của Hy Lạp tăng 80 tỷ Euro, nợ nước
ngoài lên 125% GDP.
Khi cho rằng không thể ép kinh tế Hy Lạp hơn nữa, các nhà đầu cơ đã quay sang tập trung
chú ý vào Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Kinh tế Bồ Đào Nha: thâm hụt công sẽ là 7,5% GDP, dự
báp trước đó là 6,6% thất nghiệp sẽ ở mức từ 10-11%. Hậu quả, các trái phiếu 10 năm của Bồ Đào
Nha vược qua ngưỡng 4,77% và hiện Bồ Đào nNha cùng Hy Lạp, Aixơlen là những nước chắn
chắn không thực hiện giảm nợ công, mặc dù nợ công của Bồ Đào Nha chỉ là 86% GDP. Hiện tại
các luồng thông tin, tin đồn và dư luận cho rằng nền kinh tế Tây Ban Nha là yếu kém và điều này
đã làm cho thị trường chứng khoán nước này sụt giảm nghiêm trọng. Sau Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
HP: Lý thuyết tài chính công Page 6
6
Nhóm 15
Tây Ban Nha, Italia, Ireland, các nhà đầu cơ bắt đầu chĩa mũi nhọn vào Pháp. Việc làm này đã
làm cho thị trường ngoại hối giảm mạnh và đồng EURO chỉ còn 1,2 USD vào đầu năm 2012.
Môi trường quốc tế không thuận lợi Mỹ đe doạ đưa ra các số liệu tiêu cực của các doanh

nghiệp là cho thị trường chứng khoán Mỹ giảm. Tập đoàn đầu tư và đánh giá Moody’s “đổ thêm
dầu vào lửa” khi cảnh báo tài chính công của Mỹ và Anh đang xấu đi. Khi mối đe doạ khủng
khoảng nợ công của Hy Lạp có thể lan sang các quốc gia khác như Tây Ban Nha, Italia và Bồ Đào
Nha… để đối phó với khủng khoảng, các nhà đầu tư buộc phải rời khỏi các nước này, làm cho các
nước rơi vào cảnh thiếu tiền. Vốn đầu tư bị rút khỏi Hy Lạp không ngừng tăng. Chỉ tính riêng
trong tháng 1/2010 đã có 8 đến 10 tỷ Euro bị rút khỏi Hy Lạp, con số này cao hơn số tiền trái
phiếu mà chính phủ Hy Lạp đã phát hành lần gần đây nhất.
Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ công của các nước châu Âu bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, cả bên trong lẫn bên ngoài. Âm mưu và ý đồ của giời tài phiệt tiếp tục gây áp lực lên thị
trường tài chính nhằm đầu cơ kiếm lời trong ngắn hạn. Gói cứu trợ 750 tỷ Euro có tác dụng trong
ngắn hạn, nhưng về trung hạn, nguy cơ tiềm ẩn vẫn còn cao, vẫn còn có nghi ngờ về các món nợ
công và sự bất ổn tài chính. Tình hình này có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế châu Âu, nhưng cũng
có thể gây ra hiệu ứng đối với cả thế giới.
2.3. Nguồn gốc của những nguyên nhân trên
Tất cả các nguyên nhân trên đều bắt nguồn từ hai hệ lụy chính, đó chính là việc vay nợ mới
trả nợ cũ và nguồn vay chủ yếu là nợ nước ngoài.
 Chúng ta sẽ bắt đầu từ quá khứ: vay nợ mới trả nợ cũ.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 7
7
Nhóm 15
Hình : Các cuộc khủng hoảng trong lịch sử
Mỗi khi nền kinh tế suy thoái thì nợ công cũng bắt đầu tăng vọt. Và mỗi khi có bầu cử
hoặc phục vụ cho lợi ích chính trị thì nợ công cũng leo thang. Lý do là chính phủ không nhìn nhận
và tìm ra giải pháp lâu dài cho vấn đề nợ công, mà chỉ chú tâm vào giải pháp nhất thời miễn sao là
qua được kỳ bầu cử là được rồi, hoặc giải quyết vấn đề tam thời.
Nhìn lại những cuộc khủng hoảng trong quá khứ:
Năm 1973: xảy ra một cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Các nước OPEC ngừng xuất khẩu dầu
sang các nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria ( gồm
Mỹ, Nhật và Tây Âu), tạo nên cuộc khủng hoảng dầu mỏ đẩy kinh tế Âu Mỹ chìm vào suy thoái.
Đó cũng là lúc Âu Mỹ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển từ sản suất công nghệ sang dịch vụ tài

chính, và nhường lĩnh vực phát triển công nghệ cho các nước Châu Á mới nổi. Chính phủ phát
hành trái phiếu trong giai đoạn 1973 – 1987 để có tiền “ phục hồi sản xuất”, thời gian đáo hạn của
trái phiếu là 2000. Các con nợ thiếu khả năng chi trả, dẫn đến cuộc khủng hoảng năm 2000 “ bong
bóng công nghệ dot-com”.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 8
8
Nhóm 15
Năm 1990: khủng hoảng tài chính Châu Á. Ngành dịch vụ tài chính phát triển mạnh nhưng
đều dựa trên kẻ hở của thị trường, thiên về đầu cơ tài chính làm thổi phồng những bong bóng tài
sản, tạo ra viễn cảnh giàu có “ ảo” cho nền kinh tế Âu Mỹ. Hậu quả là làm nảy sinh nhiều bất ổn
cho cơ cấu ngành nghề, phân khúc giàu nghèo và số người thất nghiệp tăng lên, phải sống nhờ vào
sự hổ trợ của chính phủ. Kết quả làm cho tình trạng nợ công ngày càng chồng chất, và tiếp theo là
cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu bùng nổ năm 2008. Chính phủ đành vay tiền để thanh
toán, chi trả các khoản nợ,…cầm tiền qua thời gian để vượt qua cơn hấp hối vào năm 1990 – 1997
và trả năm 2010 và 2011.
Năm 2008: thế giới lại khủng hoảng và các nước tiếp tục áp dụng kế sách cũ: huy động
tiền để tài trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và trợ giúp cho khối lao động bị thất nghiệp.
Trong khi đó, trái phiếu của các lần phát hành trước đó đã đến hạn thanh toán cả gốc lẫn lãi, khiến
cho gánh nặng nợ nần tích tụ suốt mấy chục năm qua tiếp tục chồng chất.
Với sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn không
hiệu quả: việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường
vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo
đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Nhờ việc
gia nhập Eurozone, Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt
các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Trong gần một thập
kỷ qua, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có
thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính
phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các
kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới
750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là

những người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố là những
người quyết định thời gian giấy phép xây dựng được cấp và các quan chức ở địa phương cũng liên
quan đến những vụ việc nhận hối lộ. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào
khoảng 8% GDP.
Như vậy, chính phủ đã vay nợ nước ngoài để chi trả chi tiêu trong nước nhưng số tiền vay
này không được sử dụng một cách có hiệu quả và hợp lý, khi đến đáo hạn số nợ vay, chính phủ lại
HP: Lý thuyết tài chính công Page 9
9
Nhóm 15
tiếp tục vay nợ mới trả nợ cũ, gây ra hiệu ứng tuyết lăn. Đến năm 2008, cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới bùng nổ và tạo ra ngòi lửa cho cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu.
Theo các chuyên gia kinh tế, bản chất của nợ công không phải xấu bởi mọi chính phủ đều
cần các khoản vay để tăng nguồn đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển. Song vấn đề là quản lý việc
chi tiêu thế nào cho hiệu quả và có đủ khả năng thanh toán nợ mới là điều cần bàn.
 Hợp đồng hoán đổi nợ xấu: (Credit Default Swap).
Thêm vào đó, các hoạt động đầu cơ bằng công cụ tài chính cực kì nguy hiểm như Credit
Default Swap (hợp đồng hoán đổi nợ xấu) diễn ra sôi nổi, nhằm đánh cược cho một sự sụp đổ tài
chính rất có khả năng xảy ra. Những kẻ đầu cơ lớn nhất hiện nay chính là ngân hàng trung ương,
họ đã vượt qua các quỹ phòng hộ Hedge Funds về quy mô giao dịch tiền tệ.
Credit Default Swap là gì?
Counterparty Risk là rủi ro đối tác. Rủi ro đó có nghĩa là đối tác B của công ty A bất ngờ
có vấn đề về tài chính (phá sản, vỡ nợ, ) khiến B mất khả năng trả nợ khi đến hạn, hoặc không
thể thực hiện hợp đồng đã ký với A được nữa. Lúc này A chịu thiệt hại nặng nề thậm chí mất
trắng. Để phòng ngừa rủi ro này, công ty A cần tìm đến một bên thứ 3 là ngân hàng C, mua bảo
hiểm vỡ nợ hay còn gọi là Hợp đồng hoán đổi nợ xấu (Credit Default Swap - CDS) nhằm giảm
thiểu thiệt hại nếu B phá sản bất thình lình. Ví dụ: trên cùng 1 chiếc xe Jeep có các bánh xe A, B,
C. Nếu B xẹp giữa chừng thì sẽ có C thay vào vị trí của B giúp xe tiếp tục chạy.
Trước đây, Credit rating là một công cụ phổ biến để đánh giá mức độ rủi ro của đối tác của
mình, khi Lehman sụp đổ công ty này vẫn còn được A rating và điều này xóa bỏ mọi sự tin tưởng
của thị trường vào hệ thống credit rating hiện tại. Sự sụp đổ của Lehman mà nguyên nhân chủ yếu

đó chính là Counterparty Risk.
Ngày 09-08, CDS của Pháp đứng ở mức cao kỉ lục với 161 điểm, cao hơn Mỹ, Peru,
Indonesia, Nam Phi và Cộng hòa Slovakia. Một số công ty xếp hạng tín dụng chủ chốt trên thế
giới xem Pháp là một trong những nước yếu nhất trong nhóm các nước có hạng mức tín nhiệm
AAA.
Về phần Hy Lạp, ông Papandreou và một số nhà lãnh đạo khác của châu Âu như Tổng
thống Pháp Nicolas Sarkozy đã chỉ trích giới đầu cơ tiếp tay cho việc đẩy lãi suất vay vốn của Hy
Lạp tăng vọt. Theo các nhà lãnh đạo này, chính giới đầu cơ đã khiến Hy Lạp phải trả lợi suất cao
HP: Lý thuyết tài chính công Page 10
10
Nhóm 15
hơn khi phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế thay vì khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ
của nước này.
Ông Papandreou chỉ rõ, chính các hợp đồng hoán đổi rủi ro vỡ nợ (credit default swaps -
CDS) là loại sản phẩm tài chính gây rắc rối lớn nhất đối với Hy Lạp hiện nay. Nhiều định chế tài
chính bán CDS như một hợp đồng bảo hiểm cho các nhà đầu tư trái phiếu để đề phòng trường hợp
quốc gia phát hành vỡ nợ. Thủ tướng Hy Lạp cho rằng, điều này chẳng khác gì một người mua
bảo hiểm hỏa hoạn cho nhà hàng xóm, rồi sau đó phóng hỏa căn nhà đó để kiếm tiền bảo hiểm.
Giá các hợp đồng CDS cho nợ Hy Lạp thời gian qua tăng giá vùn vụt khi giới đầu tư quốc tế đặt
cược vào nguy cơ vỡ nợ của quốc gia châu Âu này. Lợi suất mà Chính phủ Hy Lạp phải trả để
huy động vốn qua con đường phát hành trái phiếu vì thế tăng lên, việc bán trái phiếu khó khăn
hơn, nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ của nước này cũng gia tăng.
Theo Hãng nghiên cứu Markit, nỗi sợ hãi xung quanh vấn đề nợ Eurozone đã khiến chi phí
bảo hiểm nợ quốc gia của Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tăng lên các mức cao kỷ lục trong
ngày thứ Năm 11/11. Chênh lệch lợi suất của các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) kỳ hạn
5 năm của Bồ Đào Nha mở rộng từ 4,91% lên 5,05%. Theo Markit, đây là lần đầu tiên chênh lệch
lợi suất CDS vượt mốc 5%. Điều này đồng nghĩa với việc tốn khoảng 505.000 USD/năm để bảo
hiểm cho 10 triệu USD nợ công Bồ Đào Nha khỏi bị vỡ nợ trong vòng 5 năm tới. Chênh lệch lợi
suất CDS kỳ hạn 5 năm của Ireland mở rộng 0,27% lên 6,2%, của Tây Ban Nha tăng từ 2,94% lên
2,79%, của Hy Lạp tăng 0,12% lên 8,9%.

Sự đầu cơ này thật sự đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của thế giới. Những kẻ
đầu cơ lớn nhất hiện nay chính là ngân hàng trung ương, họ đã vượt qua các quỹ phòng hộ Hedge
Funds về quy mô giao dịch tiền tệ.
Dù nhận thức được bất hợp lý trong việc chuyển sang mô hình kinh tế thiên về tài chính,
nhưng các chính phủ vẫn “ ngựa quen đường cũ” với nền kinh tế “ ảo”, chỉ giải quyết tạm thời
bằng cách vay nợ mới gối đầu nợ cũ và ném phao cứu hộ cho những ngân hàng đang sắp chết
đuối.
 Nợ chủ yếu là nợ nước ngoài
HP: Lý thuyết tài chính công Page 11
11
Nhóm 15
Yếu tố thực sự gây ra khủng hoảng ở châu Âu là nợ nước ngoài khổng lồ đang ngày càng
gia tăng. Vấn đề hiện nay ở khu vực châu Âu được biết đến trên toàn thế giới như là cuộc khủng
hoảng nợ công. Nhưng cuộc khủng hoảng thực sự đang xảy ra chính là khủng hoảng nợ nước
ngoài.
Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, điều quan trọng là đảm bảo được hoạt động thu thuế.
Với những quốc gia có nợ công cao nhưng nợ nước ngoài thấp, nợ công chủ yếu do người dân
nắm giữ, và Chính phủ luôn luôn có thể giải quyết vấn đề nợ công bằng một số hình thức thu thuế.
Vì thế, nợ nước ngoài là thành phần chủ yếu gây ra những vấn đề trong khả năng thanh
toán nợ của một quốc gia. Trường hợp ngoại lệ trong vấn đề này chính là Mỹ, giống như những gì
được gọi là “đặc quyền cắt cổ” của nền kinh tế lớn nhất thế giới: nợ nước ngoài của Mỹ lại chính
bằng đồng USD, giúp Chính phủ Mỹ có thể linh hoạt giải quyết các vấn đề nợ công.
Một điều phức tạp hơn nữa là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân của họ
cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối
mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi
nhuận từ tài sản nước ngoài. Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách,
kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay thế.
Một ví dụ đặc trưng là trường hợp của của Argentina năm 2001. Nợ nước ngoài ròng mà
Argentina nắm giữ là không lớn, chỉ tương đương với số tài sản nước ngoài mà khu vực tư nhân
trong nước nắm giữ. Mặc dù vậy, Chính phủ Argentina đã phá sản, bởi vì tầng lớp người giàu thì

HP: Lý thuyết tài chính công Page 12
12
Nhóm 15
nhanh chóng bán tài sản ra nước ngoài, trong khi những người dân nghèo từ chối trả các khoản
thuế cần thiết để giúp Chính phủ thanh toán nợ nước ngoài.
Đối với Hy Lạp, điều chỉnh hệ thống tài chính là vấn đề quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên,
với Bồ Đào Nha, vấn đề then chốt là sự gia tăng thâm hụt nước ngoài của khu vực tư nhân.
Ireland lại là một trường hợp khác, vì nước này có rất ít nợ nước ngoài và sẽ sớm đạt được thặng
dư tài khoản vãng lai. Chính phủ Ireland sẽ không cần tới tài trợ bên ngoài nữa nếu họ huy động
được tiết kiệm từ người dân. Giống như trường hợp của Lativa trước đó, nếu huy động được vốn
từ người dân, rủi ro sẽ giảm xuống rất nhanh.
Đây là những nguồn gốc chính gây ra cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu năm 2011, cuộc
khủng hoảng này đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới và gây ra những hệ quả nghiêm
trọng.
3. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Trong những tuần lễ đầu tháng 7, thị trường tài chính quốc tế gặp nhiều cú sốc liên quan
đến vấn đề nợ nần của các nước châu Âu và Mỹ. Đâu đó, người ta đang nhắc lại quan điểm rằng
kinh tế thế giới đang bắt đầu đi vào khủng hoảng nợ công toàn cầu.Kể từ cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.
3.1. Hy Lạp, nơi hình thành khủng hoảng nợ công
Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi phí cho các khoản
nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên
tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01/2010, lên 9,73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26,65%/năm
ở tháng 07/2011.
Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực eurozone và IMF đã thông qua khoản vay 110
tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc
nghiệt.
Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn tiếp tục ở trong
nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến
172% GDP (so với mức khoảng 120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt

HP: Lý thuyết tài chính công Page 13
13
Nhóm 15
ngân sách của nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới.
(Nguồn:Toàn cảnh khủng hoảng nợ công châu Âu )
Các nhà lãnh đạo châu Âu đang kéo dài cuộc tranh luận về chuyện chọn lựa phương án bởi
vì các bên đều đang cố gắng lựa chọn một phương án có lợi cho mình. Chẳng hạn, một trong
những đề xuất của Pháp (và được Đức ủng hộ) là các chủ nợ tư nhân có thể đảo nợ, biến khoảng
90% các khoản nợ sắp đáo hạn thành các khoản nợ mới kỳ hạn năm năm.
Một đề xuất khác phức tạp hơn là Hy Lạp trả một phần các khoản nợ bằng tiền mặt
(khoảng 30%), phần còn lại thì được xem như là đầu tư lại vào trái phiếu kỳ hạn 30 năm của Hy
Lạp. Những đề xuất kéo dài thời hạn nợ hay đảo nợ kiểu này có thể khiến các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm như S&P hạ bậc tín nhiệm của Hy Lạp xuống hạng vỡ nợ vì những giải pháp như vậy
khiến chủ nợ nhận được ít tiền hơn đáng kể so với các khoản cho vay ban đầu.
Một số quan chức các chính phủ châu Âu đang xem xét tới khả năng lựa chọn các đề xuất
cho phép Hy Lạp “vỡ nợ tạm thời”. Những giải pháp này có thể được gói ghém sao cho dù có thể
khiến Hy Lạp rơi vào vỡ nợ tạm thời nhưng sẽ không đủ để tạo ra một “sự kiện tín dụng”, nghĩa
là không đủ để cấu thành lý do khiến các nhà phát hành các hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS-credit
default swaps) phải tiến hành chi trả, như vậy giảm bớt tổn thất đối với các định chế tài chính.
Nhưng phía Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) lại không muốn Hy Lạp bị hạ xếp
hạng tín nhiệm xuống khu vực vỡ nợ. ECB lập luận rằng điều đó có thể phát ra tín hiệu xấu về độ
tin cậy của các trái phiếu do chính phủ châu Âu khác phát hành, đồng thời nếu trái phiếu chính
phủ Hy Lạp bị xếp vào hạng vỡ nợ thì sẽ hạn chế khả năng ECB chấp nhận các trái phiếu của Hy
Lạp làm tài sản cầm cố trong trường hợp hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng nước này. Điều
đó đồng nghĩa hệ thống ngân hàng Hy Lạp gặp nguy cơ thiếu thanh khoản và có thể sụp đổ vì Hy
Lạp không thể tự in tiền ra.
Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ sau cuộc thảo luận lần này
của các quan chức EU (21-7) thì cũng không có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các
tổ chức xếp hạng tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng hoảng
nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các cổ phiếu ngân hàng, và trái

phiếu.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 14
14
Nhóm 15
Thật khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ và do đó, nhiều
nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều
này không những chỉ đẩy giá vàng tăng mà còn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý
trở thành nạn nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.
3.2. Ý: điểm lây lan mới của khủng hoảng.
Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng như báo chí.
Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể
là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là
4,93%, cao hơn nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang đánh
giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.
Việc lãi suất trái phiếu chính phủ Ý tăng cao do nhà đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp về
nợ công có thể tạo ra một hiệu ứng biến Ý trở thành nạn nhân tiếp theo. Trong cấu trúc nợ khoảng
1.600 tỉ euro của Ý (gấp nhiều lần so với khoản nợ 350 tỉ của Hy Lạp), có đến hơn 800 tỉ euro là
các khoản nợ sẽ đáo hạn trong vòng năm năm và hơn 250 tỉ trong số đó là nợ sẽ đáo hạn trong
vòng một năm. Nghĩa là nếu lãi suất tiếp tục giữ ở mức hiện tại thì chi phí phát hành mới trái
phiếu để tài trợ cho các khoản nợ cũ sẽ tăng rất nhiều. Ví dụ, với hơn 250 tỉ euro trái phiếu kỳ hạn
một năm của Ý thì trước đây lãi suất trung bình là 1,8%, hiện tại là gần 2,3%, đồng nghĩa với việc
lãi phải trả hàng năm của Ý sẽ tăng lên khoảng hơn 1 tỉ euro so với hiện tại.
Một số liệu ước tính của Evolution Securities cho thấy nếu mặt bằng lãi suất vẫn như hiện
tại thì tổng chi phí trả lãi vay của Ý sẽ tăng thêm gần 17 tỉ euro (khoảng 1% GDP) vào năm 2015.
Với mức thâm hụt ngân sách khoảng 4-5% GDP hiện tại của Ý, thêm 1% GDP chi phí lãi vay này
sẽ đẩy nước này tới gần hơn bờ vực khủng hoảng nợ.
Thực tế không thể phủ nhận là Ý có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm và có một chính
phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các
khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại hơn trường hợp Hy Lạp, Ireland hay Bồ Đào Nha vì Ý là
nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô khoản nợ của nước này cũng

lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước này vốn dĩ là chậm chạp còn dân số Ý thì thuộc
nhóm dân số già.
3.3. Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland rồi đến Bồ Đào Nha
HP: Lý thuyết tài chính công Page 15
15
Nhóm 15
• Ireland
Ireland đã đưa ra các kết quả mới nhất về các ngân hàng nước này. Ngân hàng Trung Ương
đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp từ liên minh Châu Âu trong việc kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực ngân
hàng do chi phí trang trải các khoản nợ lên tới 70 tỷ Euro, tương đương 99 tỷ USD, một con số nợ
khổng lồ đối với một đất nước tạo ra 171 tỷ USD một năm.
Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như trường hợp Hy
Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá sớm. Trước tiên, đó là một thị trường bất
động sản bong bóng. Trong một thập niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4
lần, thậm chí còn đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như Los
Angeles.
Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Và khi
chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành gánh nặng cho ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các biện pháp kinh tế
khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc
khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng,
cắt giảm 25.000 biên chế trong các cơ quan nhà nước…
• Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức 8,6 % GDP, cao
hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên
tới 84% GDP. Nghiêm trọng hơn, 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài. Điều này
đòng nghĩa với việc quốc gia này khó có thể xoay xở hay trì hoãn khi bợ đáo hạn.
Cuộc khủng hoảng nợ công cũng khiến cho tình hình chính trị của nước này cũng bị chia rẽ
sâu săc. Quốc hội Bồ Đào Nha đã bác bỏ chương trình thắt lưng buộc bụng của chính phủ nhằm
hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính của thủ tướng Bồ Đào Nha Ajose Socrates,

khiến ông tuyên bố từ chức.
Moody đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của chính phủ Bồ Đào Nha xuống thêm một bậc, từ
A3 xuống Baa1. Đây là lần thứ 2 trong vòng chưa đến 1 tháng Moody đã hạ bậc xếp hạng tín
HP: Lý thuyết tài chính công Page 16
16
Nhóm 15
nhiệm của quốc gia này. Hãng này cho rằng chính phủ Bồ Đào Nha khó có thể đạt được những
mục tiêu về giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn 2011-2014. Trước đó ngày 29/3/2010, Standard &
Poor’s (S&P) cũng đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của Bồ Đào Nha từ BBB xuống BBB
Theo tuyên bố được đưa ra vào cuối ngày 6/4 của thủ tướng José Sócrates mới từ chức của
nước Bồ Đào Nha, nước này chính thức đề nghị sự giúp đỡ tài chính từ bên ngoài để vực dậy hệ
thống tài chính và nền kinh tế. Các thành viên EU và giới phân tích nhận định quốc gia này cần ít
nhất 100 tỷ USD để trang trải các khó khăn tài chính cho đén khi đáo hạn và tổng tuyển cử. Bồ
Đào Nha phải trả 4,2 tỷ euro tiền trái phiếu đến hạn vào ngày 15/4 và thêm 4,9 tỷ USD vào tháng
6.
• Tây Ban Nha
Giới phân tích nhận định, Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng
nợ công với bong bóng nhà đất khổng lồ và các vấn đề liên quan đến các khoản nợ tăng lên với
mức độ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu
chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312 điểm phần trăm, cao chưa từng có từ trước đến nay.
Như vậy cứ 10 triệu euro nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.
Mạng tin “Dự báo thị truờng” (Anh) nhận định mặc dù Châu Âu vẫn chống chọi được với
cơn bão khủng hoảng nợ công, nhưng những diễn biến mới nhất ở Bồ Đào Nha đang đe dọa đẩy
cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực khỏi tầm kiểm soát.
4. Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế Châu Âu và thế giới
Bàn về sự tác động của nợ công đến nền kinh tế, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau,
trong đó có hai quan điểm chủ đạo: Quan điểm truyền thống, đại diện là Keynes cho rằng, khi
chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi
mức chi tiêu công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân. Cụ thể là làm
mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, tăng sản lượng, việc làm

trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại làm cho tiết kiệm quốc gia (national saving) giảm và
kèm theo đó là những hệ lụy khác. Quan điểm của David Ricardo, một nhà kinh tế người Anh
(1772-1832) lại cho rằng mức thuế cắt giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ không có tác động
đến tiêu dùng như quan điểm về nợ truyền thống, kể cả trong ngắn hạn. Ngược lại, nó sẽ làm các
khoản tiết kiệm tư nhân tăng lên bởi người dân đang chuẩn bị cho mức thuế cao sẽ đến trong
HP: Lý thuyết tài chính công Page 17
17
Nhóm 15
tương lai để chi trả lãi và gốc cho các khoản nợ hiện tại. Trong thực tế, hai quan điểm luôn tồn tại
song hành. Vì vậy, để đưa ra nhận định quan điểm nào phù hợp với từng thời điểm của quốc gia
còn phải phụ thuộc vào nhân tố quan trọng, đó là hành vi của người tiêu dùng.
Xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một công cụ để
tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, khuyến khích
phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Giải pháp tăng nợ công để bù đắp thâm hụt
ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm, tăng
tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn cũng là nguyên
nhân khiến cho lãi suất tăng, đầu tư giảm, tiết kiệm giảm và khuyến khích luồng vốn từ nước
ngoài chảy vào, từ đó làm cho sự tăng trưởng sản lượng tiềm năng quốc gia chậm lại. Nợ công
tăng cao, vượt quá giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép
từ bên trong lẫn bên ngoài quốc gia. Cụ thể những tác động này của nợ công đến nến kinh tế như
sau:
Thứ nhất, nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private saving), dẫn đến hiện
tượng thoái lui đầu tư tư nhân.
Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích lũy vốn tư nhân sẽ
được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay gửi
tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính phủ làm cho cung về vốn giảm trong
khi cầu tín dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể
dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu vực tư nhân (crowding-out effect). Để làm rõ vấn đề
này, chúng ta xét mối quan hệ cung- cầu trên thị trường tín dụng.

Tại biểu đồ dưới: Trạng thái cân bằng đầu tiên tại điểm E, tại đó lãi suất là i
1
và tổng khối lượng
quỹ cho vay là L. Khi Chính phủ tăng vay nợ, cầu tín dụng của Chính phủ (D
G
) tăng lên một
lượng bằng ∆D
G
sẽ làm đường cầu tín dụng của nền kinh tế dịch chuyển từ D
1
đến D
1
+ ∆D
G
. Kết
quả

là điểm cân bằng mới của thị trường tại E’. Lãi suất thị trường tăng đến i
2
và lượng tiền cung
ứng tăng lên L
2
. Lãi suất trên thị trường tăng sẽ

làm giảm nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp
cho đầu tư. Nó cũng làm giảm nhu cầu vay của các hộ gia đình để đầu tư hoặc mua sắm các loại
hàng hóa như ôtô, nhà cửa
HP: Lý thuyết tài chính công Page 18
18
Nhóm 15

Biểu đồ: Tác động của nợ công đến lãi suất
Xoay xở với vấn đề thâm hụt
ngân sách và nhu cầu chi trả cho các
khoản nợ công ngày càng tăng cao, thị
trường tài chính của các quốc gia Hy
Lạp, Italy, Tây Ban Nha đang đứng
trước những cơn sốt khi lãi suất trái
phiếu chính phủ của các quốc gia này
liên tục tăng cao và đạt đến mức kỷ
lục kể từ khi tham gia vào khu vực
đồng tiền chung Euro. Thời điểm
tháng 8/2011, lãi suất trái phiếu Chính
phủ Tây Ban Nha kỳ hạn 10 năm tăng
lên tới 6,45%, tại Italy lãi suất trái
phiếu kỳ hạn 10 năm cũng lên tới 6,18% gần bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp (TPCP kỳ
hạn 10 năm với lãi suất hơn 7,8%) tại thời điểm quốc gia này phải cầu cứu các khoản cứu trợ
quốc tế bởi nguy cơ vỡ nợ công.
Các đợt trái phiếu được phát hành liên tục với lãi suất ngày càng tăng cao đã làm các nhà
đầu tư lo ngại về khả năng thanh toán khi đáo hạn, nhiều nhà đầu tư đã ồ ạt bán rẻtrái phiếu của
các quốc gia này khi nguy cơ khó khăn về nợ công đang ngày càng trởnên trầm trọng hơn. Bên
cạnh đó, để cứu trợ cho khủng hoảng nợ công của Hy Lạp, khu vực tư nhân đã đóng góp 50 tỉ
euro trong tổng gói cứu trợ thứ hai trị giá 109 tỉ euro (155 tỉ USD) của IMF nhằm tái cấu trúc các
khoản nợ, ngăn chặn sự lây lan sang các nền kinh tế Châu Âu khác, củng cố lại giá trị của đồng
Euro.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 19
19
Nhóm 15

Biểu đồ: Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm (Nguồn: Bloomberg.com)
Thứ hai, nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia (national saving)

Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng quốc dân (GDP)
theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)
Trong đó: Y: thu nhập quốc gia;
C: Tiêu dùng tư nhân;
S: tiết kiệm tư nhân;
T: thuế trừ đi các khoản thanh toán;
I: đầu tư nội địa;
G: Chi tiêu của chính phủ;
NX: Xuất khẩu ròng.
Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G = I + NX - S (3)
Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm hụt (T-G < 0) tức I + NX < S,
như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết kiệm tư nhân (S) tăng, đầu tư nội địa (I) giảm và
xuất khẩu ròng (NX) giảm. Khi chính phủ tăng vay nợ để bù đắp thâm hụt, chúng ta lần lượt xem
xét những khả năng này có thể xảy ra và sự tác động của nó đến tiết kiệm quốc gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập luận rằng, tiết
kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm của chính phủ. Tuy nhiên trong
trường hợp này, chúng ta tạm thời giả định tiết kiệm tư nhân tăng ít hơn phần tiết kiệm của chính
phủ giảm, chính vì vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 20
20
Nhóm 15
(2) Đầu tư nội địa giảm (I): đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng vốn nội địa giảm.
Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên mỗi đồng vốn sẽ cao hơn, năng suất lao
động sụt giảm, từ đó làm giảm mức lương và thu nhập trung bình dẫn đến giảm tiết kiệm quốc
gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong nước tăng
tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước tăng
khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm cho giá của hàng hóa sản xuất trong nước đắt hơn hàng hóa
nước ngoài, trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, từ đó giảm xuất khẩu ròng.
Xuất khẩu ròng giảm, đầu tư nước ngoài giảm có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ sở hữu ít

vốn nước ngoài hơn. Trong trường hợp này, thu nhập người dân nội địa sẽ giảm, tiết kiệm quốc
gia giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố dẫn đến thâm hụt cán cân thương
mại.
Đặc biệt, khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại cùng xảy ra sẽ dẫn đến
hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến sự phát triển nền kinh tế.
Hậu quả thiên tai đã khiến cho Chính phủ Nhật Bản phải tăng chi ngân sách để tái thiết đất
nước. Những khoản chi này sẽ làm trầm trọng thêm gánh nặng nợ công vốn đã rất cao của Nhật
Bản (95.000 tỷ Yên, tương đương 200% GDP năm 2010). Mặc dù là quốc gia có truyền thống tiết
kiệm nội địa cao, nhưng tỷ lệ này đang có xu hướng ngày càng giảm đi: từ mức 10% tổng thu
nhập quốc dân năm 1990 xuống 5% vào cuối thập kỷ 90 và chỉ còn trên 2% vào năm 2009. Khi
đối mặt với vấn đề thiếu vốn, Nhật Bản có thể từ một nước xuất khẩu trở thành nước nhập khẩu
vốn. Dòng vốn nước ngoài đổ vào Nhật tăng khiến cho tỷ giá giữa đồng Yên và các đồng tiền
khác tăng cao, gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Có đến 40% doanh nghiệp Nhật Bản
sẵn sàng di dời cơ sở sản xuất để tránh tác động của sự tăng giá đồng Yên này, điều này làm cho
mạng lưới công nghiệp và sản xuất quốc gia bịtổn hại và đe dọa trực tiếp đến việc làm, thu nhập
của người dân.
Thâm hụt ngân sách của Nhật Bản ở mức cao (chiếm khoảng 7% GDP), nợ công ngày càng
tăng cùng tỷ lệ tiết kiệm dân cư có xu hướng giảm sẽ sớm dẫn đến nguy cơ làm cho tiết kiệm
quốc dân của Nhật Bản giảm, thậm chí có thể rơi vào trạng thái âm, cản trở tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 21
21
Nhóm 15
Thứ ba, nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát
Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: Do tổng cầu tăng lên hoặc do chi phí đẩy.
Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của chính phủ tăng lên,
một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao.
Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành và giá bán
sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ cảm thấy mình trở nên
giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng, chi tiêu công của chính phủ

tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm phát trong ngắn hạn, từ đó tác động tiêu
cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm
phát).
Khi chính phủ tăng vay nợ nước ngoài, một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong nước có
thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ cả gốc và lãi bằng
ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi phí đầu vào khi nhập khẩu
nguyên liệu, máy móc, thiết bị, dẫn tới nguy cơ lạm phát. Tỷ giá tăng làm chi phí thanh toán nợ
trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.
HP: Lý thuyết tài chính công Page 22
22
Nhóm 15
Bảng: Tổng nợ công của Việt Nam tính đến thời điểm tháng 9/2011
Chỉ tiêu 2009 2010 2011
Tổng nợ công 44,795 tỷUSD 50,294 tỷUSD 56,061 tỷUSD
Nợ công bình quân đầu người 516,62 USD 574,28 USD 633,95 USD
Nợ công/GDP 50,7% 51,7% 50,9%
(Nguồn: Theo thống kê của tạp chí The Economist)
Trong đó, nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao (chiếm 42,2% GDP trong năm 2010, 39%
GDP năm 2009). Theo Bộ Tài chính, tổng lượng tiền mà ngân sách phải trả các đối tác nước ngoài
năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD). Đặc biệt, lãi vay và số
khoản vay có lãi suất cao (từ 6-10%) ngày càng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn (năm
2008: 925,49 triệu USD, năm 2009: 919,04 và năm 2010: 1.890,69 triệu USD). Điều đáng nói ở
đây là nợ nước ngoài tăng nhưng dự trữ ngoại hối của Việt Nam lại giảm. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối
của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức 100 lần năm
2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008, 3 lần vào năm 2009 và chỉ còn gấp khoảng 2 lần trong năm
2010. Vay nhiều hơn, lãi suất cao hơn, khả năng tự tài trợ vốn trong nước lại thấp khiến rủi ro về
thanh khoản của các khoản vay cao hơn.
Bên cạnh đó, chất lượng đầu tư công kém hiệu quả vẫn luôn là vấn đề bất cập trong công
tác quản lý và điều hành ngân sách của Việt Nam. Nghị quyết 11 của Chính phủ Việt Nam vẫn
đang triển khai một cách quyết liệt để cắt giảm đầu tư công-một trong những nguyên nhân quan

trọng gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển kinh tế và lạm phát tăng cao hiện nay (dự báo
khoảng 19% năm 2011 theo IMF).
HP: Lý thuyết tài chính công Page 23
23
Nhóm 15
Thứ tư, nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội.
Dù chính phủ lựa chọn phương án vay nợ trong nước hay vay nước ngoài thì đều có tác
động làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội. Nếu vay nước ngoài, nguồn
để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các khoản thu thuế. Người dân phải chịu một khoản thuế
cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các đối tượng ngoài quốc gia sẽ làm giảm thu nhập, giảm
tiêu dùng từ đó giảm chất lượng cuộc sống.
Vay trong nước có thể được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính công dân
nước mình và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản chi tiêu công tạo
ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho chính họ do đang sở hữu trái
phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các hoạt động kinh tế của người đó bị bóp
méo. Dù cho Chính phủ dùng loại thuế nào (thuế thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản…), đánh
thuế dưới hình thức nào (trực tiếp, gián tiếp) cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt động
kinh tế của một cá nhân như thay đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt
động kinh tế vi mô, vĩ mô khác như: sản xuất, việc làm, Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô
hình chung đã tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái
phiếu chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về thu nhập, tiêu
dùng hoặc tiết kiệm.
Để tránh nguy cơ vỡ nợ, sức ép cắt giảm nợ công đã buộc nhiều quốc gia Châu Âu phải
cam kết thực hiện hàng loạt các chính sách “thắt lưng buộc bụng” nhằm đổi lấy các gói cứu trợ từ
HP: Lý thuyết tài chính công Page 24
24
Nhóm 15
phía các tổ chức tài chính quốc tế, từ liên minh Châu Âu, IMF Trong khi Bồ Đào Nha phải cắt
giảm chi tiêu công đến mức “không thể chịu đựng được” nhằm mục đích kéo nợ công về số 0
trong vòng 5 năm tới, thì Hy Lạp cũng đang phải đối diện với những chính sách hà khắc như: cắt

giảm các khoản thưởng khu vực công những người có thu nhập 3.000 Euro/tháng, cắt giảm 8% trợ
cấp và 3% chi tiêu cho khu vực công; không tăng lương cho khu vực công trong vòng 3 năm; chi
trả tối đa 800 Euro cho khoản thưởng tháng 13 và 14 đối với những người về hưu. Ngoài ra, để
tăng nguồn thu cho ngân sách, Chính phủ Hy Lạp cũng phải nâng thuế VAT, thuế đánh vào các
mặt hàng xa xỉ và các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng Những chính sách này sẽ ảnh
hưởng lớn lên một bộphận khá lớn người dân Hy Lạp, đặc biệt là những người nghèo- những
người sẽ bị gánh chịu sự tổn thất phúc lợi xã hội nặng nề mà nguyên nhân của nó xuất phát từ các
khoản nợ công.
Thứ năm, những tác động khác.
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia với khoản nợ công lớn có thể phải
đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như: Làm thay đổi quy trình quản lý Nhà nước do
phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia để trang trải các khoản nợ; làm tổn hại đến hệ số tín
nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị hoặc khả năng lãnh
đạo quốc gia Các quốc gia phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về
việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải
cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế Ngoài ra, việc lệ thuộc
quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối
quan hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Gánh nặng của nợ công lên thế hệ tương lai?
Một số nhà kinh tế học cho rằng gánh nặng của nợ công không thể chuyển giao lên thế hệ
tương lai nhưng có thể đè nặng lên chính thế hệ hiện tại. Bởi khoản vốn tích lũy và việc tiêu dùng
của họ đã bị thay thế bởi các khoản nợ của chính phủ. Nhưng thực tế chúng ta đều nhận thấy rằng,
họ làm điều đó một cách tự nguyện, họ mua trái phiếu chính phủ chỉ với kỳ vọng sẽ được nhận
được một khoản lãi- một cơ hội tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Giả định rằng thế hệ tương lại phải đóng thuế để trả lãi cho các khoản nợ, như vậy họ phải
chịu đựng một sự giảm thật sựcủa thu nhập mà không có sự bù đắp bởi sự tiêu dùng được tăng lên
HP: Lý thuyết tài chính công Page 25
25

×