Khoa: Luật Hình sự
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH VÀ
NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Giảng viên: Ths. Nguyễn Thanh Hải
Lớp: 117_HS45
Nhóm 4
Danh sách thành viên: đính kèm File
MỞ ĐẦU
“Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh
sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” –
C.Mác và Ph.Ăngghen. Gia đình là một khái niệm rộng lớn, bao quát và liên quan đến
nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gia đình là tế bào của xã hội”. Gia đình có vai trị
quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Với việc sản xuất ra tư
liệu tiêu dung, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người, gia đình như một tế bào tự
nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Khơng có gia đình để tái tạo ra
con người thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển được. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,
tác động của gia đình đối với xã hội khơng hồn tồn giống nhau. Chỉ có trong gia
đình mới thể hiện tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa mọi người với nhau.Trong
những thời điểm quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta đều tìm đến điểm tựa tinh
thần, những điểm tựa này sẽ vực chúng ta dậy khỏi những khó khăn, vấp ngã của cuộc
đời. Một trong những điểm tựa vững chắc chất, xoa dịu hết những nỗi đau của chúng
ta đó chính là gia đình. Tình cảm gia đình có sức mạnh vơ cùng to lớn mà khơng ai có
thể phủ nhận được.
Bên cạnh đó, gia đình cịn là nơi có thể tái sản xuất ra con người; là nơi nuôi dưỡng,
dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Cũng như
các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dung. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các
thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương
tâm của mỗi người.
Vì những lý do trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Phân tích vị trí, chức năng của
gia đình và những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” để làm rõ hơn về tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi con người và với
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình. ..................................................................... 1
1.
Khái niệm gia đình ...................................................................................................... 1
2.
Vị trí của gia đình trong xã hội. ................................................................................... 2
3.
Chức năng cơ bản của gia đình. ................................................................................ 5
II. Những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 9
1.
Biến đổi về quy mơ, kết cấu gia đình. ......................................................................... 9
2.
Biến đổi trong thực hiện chức năng gia đình ............................................................ 11
III. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình. ........................................................................ 19
NỘI DUNG
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình.
1. Khái niệm gia đình
Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được
hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát từ nhu
cầu bảo tồn và duy trì nịi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn,
các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức
đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình
như: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng...
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và
dịng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” (Từ điển Tiếng Việt,
NXB Khoa học Xã hội, 1994, tr.367). Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia
đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch
sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những
người khác, sinh sơi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó
là gia đình”.
Ngồi ra, khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi nhận
trong Luật Hơn nhân và gia đình (Điều 3. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của
Luật này.”
Quan hệ hôn nhân là một trong những quan hệ cơ bản của sự hình thành, tồn tại
và phát triển của gia đình. Bên cạnh đó, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc
trưng, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Đó là
quan hệ giữa những người cùng một dịng máu, nảy sinh từ quan hệ hơn nhân.
Ngày nay ở Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới không chỉ thừa nhận
các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con
cái, quan hệ giữa ông bà với cháu chắt hay giữa anh chị em với nhau, giữa cơ, dì, chú,
bác,… mà cịn thừa nhận quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi (được công nhận cả
1
về mặt pháp lý) trong quan hệ gia đình. Tuy vậy, dù được hình thành như thế nào thì
trong gia đình cũng tất yếu nảy sinh những quan hệ ni dưỡng. Nó vừa là nghĩa vụ,
vừa là quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong gia đình. Đặc biệt, trong xã hội
hện đại ngày nay, hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm
và chia sẻ, xong khơng thể thay thế hồn tồn sự chăm sóc, ni dưỡng của gia đình.
Tóm lại, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt của con người, là
một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển dựa trên
các mối quan hệ như: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng,
giáo dục giữa các thành viên trong gia đình cùng với những quy định về quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
2. Vị trí của gia đình trong xã hội.
a) Gia đình là tế bào của xã hội
Điều này chỉ ra rằng giữa gia đình và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Gia
đình có những mối quan hệ, những chức năng mà trên cơ sở đó nó là những tế bào để
duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nếu như ví xã hội như một cơ thể sống với
hàng trăm, hàng triệu tế bào thì mỗi tế bào đó chính là gia đình. Do đó cái cơ thể sống
(xã hội) ấy chỉ có thể mạnh mẽ, cường tráng khi tất cả các tế bào (gia đình) được lành
mạnh. Ngược lại, khi mà trong cơ thể (xã hội) có nhiều tế bào (gia đình) đau yếu,
bệnh tật thì cái cơ thể đó cũng có nhiều khuyết tật để rồi dần dần suy tàn và chết.
Nói gia đình là tế bào của xã hội vì ẩn sâu đằng sau nó, gia đình có một chức năng
cơ bản đó chính là tái sản xuất ra con người, tạo ra những thế hệ mới. Và chính những
thế hệ mới đó làm cho xã hội phát triển, tồn tại. Nhờ tái sản xuất ra con người mà gia
đình đã góp thêm nguồn nhân lực xho xã hội. Nếu như khơng có gia đình và chức
năng tá sản xuất ra con người thì xã hội sẽ khoong thể phát triển được, thậm chí sẽ đi
tới tiêu vong. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “ Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định
trong lịch sử, suy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng
bản thân sự sản xuất đó có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực
phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt
khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nịi giống. Những trật tự xã
hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước
2
nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát
triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Vì vậy muốn có
một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt, như
chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “…Hạt nhân của xã hội chính là gia đình”.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, sự tác động của gia đình đối với xã
hội khơng giống nhau hoàn toàn. Mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ
thuộc vào bản chất của từng chế độ, của những đường lối, chính sách của giai cấp cầm
quyền và phụ thuộc vào chính từng mơ hình, đặc điểm, kết cấu của mỗi hình thức gia
đình trong lịch sử. Chẳng hạn như trong xã hội cơng xã ngun thủy, trình độ lực
lượng sản xuất cịn rất thấp, cá nhân không tách rời tập thể, sống cuộc sống cộng
đồng về nhiều mặt,… đã tạo nên hình thức gia đình tập thể - quần hơn. Bước sang chế
độ nơ lệ trong xã hội nảy sinh hình thức gia đình cá thể - một vợ một chồng. Đó là kết
quả trực tiếp của sự hình thành chế độ sở hữu tư nhân “hình thức gia đình đầu tiên
khơng dựa trên điều kiện tự nhiên, mà dựa trên những điều kiện kinh tế - tức là trên
thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát”.
Nhưng trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự
bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác
động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa thuận trong gia
đình thì mới có thể n tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội và
ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình
đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên.
Gia đình là mái nhà, là nơi sinh sống của mọi thành viên trong gia đình và nó
gắn kết bởi những mối liên hệ rất bền chặt đó là mối liên hệ về hơn nhân, về huyết
thống, về nuôi dưỡng, giáo dục. Cho nên gia đình thật sự là một điểm tựa về mặt tinh
thần, là một tổ ấm của mỗi thành viên trong gia đình.
3
Đồng thời gia đình với chính cái sự n ổn, hạnh phúc của nó làm tiền đề, điều
kiện quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Trong
gia đình, cá nhân được đùm bọc về vật chất và được giáo dục về tâm hồn, trẻ thơ có
điều kiện được an tồn và khơn lớn; người già có nơi nương tựa; người lao động được
phục hồi sức khỏe và thoải mái tinh thần… ở đó hàng ngày diễn ra các quan hệ thiêng
liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái,…
Vì vậy ta nói gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia đình, cá
nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở thành con người
xã hội tốt
Tuy nhiên bên cạnh những ấm êm hạnh phúc thì có một số người lâm vào tình
cảnh vơ gia cư, gia đình lục đục tan nát hay rơi vào những hồn cảnh khốn cùng,…
Chính vì điều đó việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng
của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiều
gia đình cộng lại mưới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, ga đình càng tốt
thì xã hội mối tốt. Hạt nhân của xã hội là gia didhf. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.
c) Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.
Thơng qua các tổ chức đời sống trong gia đình mà mỗi cá nhân tiếp nhận sự tác
động và sự phản ứng lại đối với xã hội thông qua các tổ chức, thiết chế của xã hội.
Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên trong gia đình mà cịn là thành viên của xã hội.
Những chủ trương, chính sách, pháp luật đến từ gia đình, nó tác động vào gia đình, từ
gia đình đó nó lại tác động đến các thành viên trong gia đình. Và sự phản ứng lại của
các thành viên trong gia đình đối vỡi những chính sách đó cũng đi từ cá nhân đến gia
đình rồi mới đến xã hội.
4
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự
bình đẳng, con người được giải phóng, giai cấp cơng nhân chủ trương bảo vệ chế độ
hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Vì
vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội khác về chất so với các chế độ xã hội
trước đó.
3. Chức năng cơ bản của gia đình.
3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra con người là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình, khơng
một cộng đồng nào có thể thay thế. Chức năng này khơng chỉ đáp ứng nhu cầu tâm,
sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng
họ mà cịn đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người trước hết xuất phát từ nhu
cầu tồn tại của chính con người, một nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng. Tuy nhiên việc
sinh đẻ khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà cịn là một nội dung quan trọng trong
chính sách của mỗi quốc gia. Bởi vì tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư, cơ cấu dân
số, nguồn lao động,... và nhiều yếu tố khác liên quan chặt chẽ đến trình độ phát triển
kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội.
Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu xã hội, chức năng này được
thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ
tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, là mục tiêu và là
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển về mọi phương diện của một quốc gia, mở
rộng ảnh hưởng đến quốc tế.
3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình cịn có trách nhiệm ni
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức
5
năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, đồng
thời thể hiện trách nhiệm của gia đình đối với xã hội.
Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình
thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Ngay từ khi sinh ra, trước tiên mỗi
người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những
hiểu biết đầu tiên mà gia đình đem lại thường để lại ấn tượng sâu đậm và bền vững
trong cuộc đời mỗi người. Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, bao
gồm cả giáo dục tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân
cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng,... Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa
dạng, song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng ít
của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Vì vậy, gia đình là
một mơi trường văn hóa, giáo dục mà trong mơi trường này, mỗi thành viên đều là
những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là
người thụ hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên
khác trong gia đình.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trị nhất định, vừa là chủ thể, vừa là khách thể
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù giáo dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định
nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn
không thể thay thế. Giáo dục gia đình là một bộ phận quan trọng, bên cạnh đó là giáo
dục của nhà trường và xã hội, hợp thành nền giáo dục nói chung.
Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ
tương lai của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo
dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình khơng
gắn liền với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hịa nhập với xã hội và
ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với
6
giáo dục của gia đình, khơng lấy giáo dục của gia đình làm nền tảng. Do vậy, cần
tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc
ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều khơng phát triển tồn diện
được.
Để thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục địi hổi những người làm cha,
làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối về mọi mặt, văn hóa, học vấn và đặc biệt
là phương pháp giáo dục.
3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia
đình. Chức năng này bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng
để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi thành viên và của cả gia đình.
Đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có được là ở chỗ: gia đình là
đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động chỗ xã
hội.
Gia đình khơng chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất của cải vật chất và sức lao
động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ
chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng
như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của
các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một mơi trường văn
hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trì sở thích,
sắc thái riêng của mỗi người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức khác nhau và ngay cả ở cùng
một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng
kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, tư liệu sản xuất, sở hữu tư
liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia
đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng
khơng hồn tồn giống nhau.
7
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện đều có
thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đảng và nhà nước
ta đã đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi cá nhân và mọi gia đình có thể
làm giàu một cách chính đáng trong khuôn khổ của pháp luật. Cùng với sản xuất kinh
doanh, các cá nhân và hộ gia đình là cơng chức, viên chức, cán bộ hành chính, nhà
khoa học, văn nghệ sĩ,... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu
nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo được nguồn sinh sống, đáp ứng
nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh
tế gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong
gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của
cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách hiệu quả mọi tiềm năng
của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải
vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, ni dạy con cái, mà cịn đóng góp lớn đối với
sự phát triển của xã hội.
3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe, người ốm, người già hay trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu
tâm sinh lý giữa vợ-chồng, cha mẹ-con cái,... làm cho mỗi thành viên có thể sống lạc
quan, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần. Vì vậy, gia đình khơng chỉ là nơi nương tựa
về vật chất của con người mà còn là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi ký thác
về mặt tinh thần.
Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng cùng với các chức năng khác quyết
định đến việc xây dựng một gia đình văn minh, hạnh phúc. Việc duy trì tình cảm giữa
8
các thành viên , gia đình cũng có ý nghĩa quyết định đến ổn định và phát triển của xã
hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có
nguy cơ bị phá vỡ.
*Ngồi những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng chính
trị,...
- Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân
tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng
thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và
thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội.
- Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị xã hội, là nơi tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, quy chế( hương ước) của làng xã
và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của
mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.
II. Những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
1. Biến đổi về quy mơ, kết cấu gia đình.
Gia đình Việt Nam được coi là” gia đình quá độ” trong bước chuyển biến từ xã hội
nông nghiệp cổ truyền sang xã hội cơng nghiệp hiện đại. Trong q trình này, sự giải
thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái mới là một tất yếu.
Từ những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những chuyển biến quan trọng,
từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại, tự do hơn.
Gia đình đơn hay cịn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở các đô thị
và ở tất cả các nông thôn thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trị chủ
đạo trước đây.
Hiện nay, quy mơ gia đình tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn trước kia, các thành
viên trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba bốn thế hệ
cùng chung sống trong một mái nhà thì hiện nay đã càng thu nhỏ lại. Nguyên nhân do
9
sự thay đổi gia đình truyền thống diễn ra ở lĩnh vực vật chất. Do nhu cầu cuộc sống và
sự phát triển kinh tế quốc gia, hầu hết các gia đình Việt Nam đều có cuộc sống mới tốt
hơn. Sự tiếp cận công nghệ thông tin, các thiết bị truyền thơng, giao thương hàng hóa,
giao lưu văn hóa ngơn ngữ và sự biến đổi tầng lớp xã hội. Bên cạnh đó cịn có sự biến
đổi về nhận thức, quan niệm sống,… Gia đình Việt Nam hiện tại chỉ có hai thế hệ
cùng chung sống cha mẹ-con cái, số con trong gia đình cũng khơng nhiều như trước,
cá biệt cịn có số ít gia đình đơn thân, nhưng khổ biến nhất là gia đình hạt nhân quy
mơ nhỏ.
Gia đình quy mơ nhỏ càng đáp ứng nhu cầu điều kiện của thời đại mới đặt ra.
Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của con người được tôn
trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình truyền thống. Sự
biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực, thay đổi chính
bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã hội trở nên thích
nghi và phù hợp với tình hình mới, thời đại mới.
Tất nhiên, q trình biến đổi đó cũng gây ra những phản chức năng như tạo ra
sự ngăn cách khơng gian giữa các thành viên gia đình tạo khó khăn, trở lực trong việc
giữ gìn tình cảm cũng như giá trị văn hóa truyền thống gia đình. Xã hội phát triển, mỗi
người đều bị cuốn theo công việc riêng của mình với mục đích kiếm thu nhập nên thời
gian dành cho gia đình càng ít đi. Con người ngày càng rơi vào vịng xốy đồng tiền
và vị thế xã hội mà vơ tình đánh mất tình cảm gia đình. Làm cho mối quan hệ gia đình
trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Như vậy, có thể thấy sự biến đổi quy mơ gia đình Việt Nam là một tất yếu
khơng thể tránh khỏi do tác động của tồn cầu hóa. Gia đình, dù được nhìn nhận
với tư cách là một thiết chế xã hội cơ bản hay với tư cách là một nhóm xã hội, đều
chứa đựng nhiều yếu tố tạo nên sự thay đổi. Sự thay đổi đó điều chỉnh chính bản
thân gia đình cho phù hợp với xã hội và đồng thời cũng điều chỉnh xã hội cho phù
hợp với điều kiện cụ thể bên ngoài. Hệ quả tạo ra là một mơ hình gia đình mới có
khả năng thích ứng tốt hơn với sự biến đổi của xã hội để thay thế gia đình truyền
10
thống cũ. Tất nhiên, q trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo
ra sự ngăn cách khơng gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, thách
thức trong việc giữ gìn tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia
đình (các thành viên ít quan tâm, lo lắng đến nhau và giao tiếp với nhau hơn, làm
cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo…hay mọi người rơi vào vịng
xốy của cơng việc, tiền tài mà qn đi những giá trị tinh thần đáng trân quý trước
mắt). Đó là xu hướng tiến bộ chung dù cho cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế.
Điều quan trọng nhất là phải gìn giữ được những giá trị tốt đẹp, quý báu của gia
đình truyền thống và phát huy những mặt tích cực của gia đình hiện đại, tạo ra một
khn mẫu gia đình Việt Nam.
2. Biến đổi trong thực hiện chức năng gia đình
Gia đình có nhiều chức năng, trong đó có bốn chức năng cơ bản, đó là: Chức năng
tái sản xuất ra con người (sinh sản), chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng, chức năng
nuôi dưỡng, giáo dục và chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm.
Trong đó, chức năng sinh sản là cơ bản và quan trọng nhất của gia đình. Việc sinh con
đẻ cái nhằm duy trì và phát triển nịi giống được xem là mục đích xây dựng gia đình
và cũng là nhu cầu cần được thoả mãn của các cặp vợ chồng đối với việc làm cha mẹ.
Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác định nguồn cội của con người,
từ đó tránh nạn quần hơn, góp phần tạo nên tơn ty gia đình, trật tự xã hội, đảm bảo
các điều kiện cơ bản cho nòi giống phát triển.
2.1.
Chức năng tái sản xuất ra con người
• Chức năng sinh sản tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được khi
hành vi sinh sản vẫn cịn được duy trì. Chức năng này được coi là một giá trị trường
tồn của gia đình mà từ cổ chí kim lồi người phải thừa nhận. Bản thân F. Engel, một
nhà duy vật vĩ đại cũng cho rằng theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong
lịch sử suy cho cùng là sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống.
Cho nên sự thay đổi ở đây chẳng qua là sự thay đổi về số lượng con và giới tính từ
truyền thống đến hiện đại theo hướng tích cực.
11
• Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất
nông nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thơng, nhu cầu về con cái thể hiện trên
ba phương diện: phải có con, càng đơng con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối
dõi thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức
sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai
của các cặp vợ chồng. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế chứ khơng phải chỉ là các yếu tố có
con hay khơng có con, có con trai hay khơng có con trai như gia đình truyền thống.
• Giữa dịng chảy cách mạng cơng nghiệp 4.0, y học đang rất phát triển với
nhiều thành tựu nổi bật, vì vậy mà có ảnh hưởng khơng nhỏ đối với việc thực hiện
chức năng tái sản xuất ra con người của gia đình Việt Nam hiện nay. Nhờ y học
phát triển, việc sinh đẻ được các gia đình tiến hành một cách chủ động, tự giác khi
xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con. Hơn nữa, việc sinh con cịn chịu
sự điều chỉnh với chính sách xã hội của Nhà nước, tùy theo tình hình dân số và
nhu cầu về sức lao động của xã hội. Ở nước ta, từ những năm 70 và 80 của thế kỉ
XX, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng rộng rãi các phương tiện và
biện pháp kĩ thuật tránh thai và tiến hành kiểm soát dân số thơng qua Cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2
con. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền vững của xã hội, thông
điệp mới trong kế hoạch háo gia đinh là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
Bên cạnh đó là hình thức thuê đẻ, các phương pháp sinh sản vơ tính với sự trợ giúp
của khoa học kỹ thuật phát triển, nhưng khơng thể thay thế tính ưu trội cả về mặt
sinh học lẫn tâm lý xã hội của chức năng sinh sản trong gia đình và đang gặp phải
sự phản đối mạnh mẽ của dư luận ở tất cả các nước trên thế giới. Ngoài ra, khi y
học phát triển cũng là lúc người ta dùng nó với mục đích khơng mấy tốt đẹp. Một
số người đã lựa chọn giới tính cho đứa trẻ từ khi cịn là bào thai, điều đó sẽ dẫn
đến sự mất cân bằng giới tính, gây ra nhiều hê lụy cho xã hội sau này. Số khác lại
khơng muốn sinh con vì cho rằng điều đó sẽ làm mất đi sự tự do của bản thân, áp
lực tài chính, cơng việc.
12
• Việt Nam là một nước đang phát triển, vấn đề dân số có tác động trực tiếp đến
sự phát triển kinh tế và xã hội của nước ta. Để phát triển được, nước ta cần quan tâm
hơn nữa đến vấn đề dân số, cần tăng cường tuyên truyền các chính sách dân số, kế
hoạch hóa gia đình đến tất cả tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đồng bào nơng thơn, vùng
sâu vùng xa, bộ phận những người có trình độ thấp. Qua đó giúp họ nhận thức được
những hạn chết, tiêu cực của quan niệm sinh đẻ truyền thống để tiếp thu những quan
niệm hiện đại, tiên tiến hơn, cùng đưa đất nước phát triển bền vững.
2.2.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Cho đến nay, các nghiên cứu đều cho rằng, biến đổi chức năng kinh tế hộ
gia đình là quá trình chuyển đổi từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng . Các
hộ gia đình ở nơng thơn hiện nay dường như khơng còn là đơn vị kinh tế tự sản
xuất, tự tiêu thụ mà đã bắt đầu cung ứng ra thị trường. Hiện nay, gia đình vẫn tồn
tại với tư cách là một đơn vị kinh tế, song các thành viên trong gia đình theo đuổi
các mục đích khác nhau cùng với các hoạt động kinh tế khác nhau; trong đó, mỗi
thành viên có một “tài khoản” riêng mà khơng cùng sản xuất và chung một “nguồn
ngân sách” như trong gia đình truyền thống. Với cách hiểu này, biến đổi chức năng
kinh tế hộ gia đình đã khiến cho sự thay đổi mục đích và hoạt động sản xuất của
các thành viên trong gia đình. Với tư cách là đơn vị tiêu dùng, chức năng kinh
tế hộ gia đình trải qua hai bước chuyển đổi:
• Chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc thành sản xuất hàng hóa, tức là từ một
đơn vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị mà sản
xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội.
• Chuyển kinh tế gia đình hàng hóa thành kinh tế gia đình thị trường
hiện đại, tức là từ sản xất hàng hóa đáp ứng nhu cầu cảu thị trường quốc gia thành
tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu thị trường toàn
cầu.
13
- Với tư cách là đơn vị tiêu dùng, gia đình khơng sử dụng những sản phẩm
của mình làm ra mà sử dụng hàng hóa và dịch vụ xã hội, tức là “sử dụng sản phẩm
do người khác làm ra”.
- Mặc dù kinh tế gia đình đang trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm
hàng hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất
nhiều khó khăn, trở ngại trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh
hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên
nhân là do kinh tế gia đình phần lớn có quy mơ nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là
chính.
- Chức năng kinh tế của gia đình khẳng định gia đình khơng chỉ tạo ra nguồn
thu nhập cho sự tồn tại của mình mà cịn cung cấp lực lượng lao động, của cải cho
xã hội và tham gia vào các quá trình kinh tế của xã hội từ sản xuất, phân phối đến
trao đổi và tiêu dùng. Mọi nhân tài của đất nước, từ các anh hùng, vĩ nhân, cán bộ,
những người lính cũng như các tầng lớp công nhân, nông dân, lao động tự do, trí
thức đều xuất thân từ gia đình. Bước qua ngưỡng cửa của gia đình, họ có mặt trên
tất cả các vị trí, điều tiết và vận hành bộ máy của xã hội.
- Về chức năng kinh tế của gia đình, có thể thấy rằng do q trình CNH mà
gia đình và nơi làm việc bị tách rời nhau về mặt khơng gian, theo đó chức năng
sản xuất của gia đình cũng suy giảm hoặc mất đi và chức năng tiêu dùng được tăng
cường. Điều này có thể dẫn đến lối sống của gia đình được quyết định tùy thuộc
vào cơng việc hay mức thu nhập của các thành viên trong gia đình và tiêu chuẩn
tiêu dùng của gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa mãn sinh hoạt của
gia đình. Đối với trường hợp của các gia đình ở nơng thơn thì chức năng sản xuất
và chức năng tiêu dùng của gia đình khơng bị phân chia rạch ròi nhưng dưới cơ
chế xã hội lấy việc sản xuất phục vụ cho sự trao đổi thì việc sản xuất tự cung tự
cấp của gia đình cũng bị suy giảm.
14
- Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất,
là chức năng đảm bảo sự sống cịn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no,
giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân
có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là
sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời
sống.
- Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngoài
những thành viên đang cịn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi lao
động cần có một cơng việc, một mức thu nhập ổn định. Ngồi ra cịn cần có nguồn thu
nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho những chi phí lặt vặt hàng ngày.
2.3.
Chức năng giáo dục (xã hội hóa).
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội
thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu,
những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo
dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh
của cá nhân cho cộng đồng.
❖ Biến đổi trong nội dung giáo dục
Nếu như trong truyền thống, giáo dục gia đình chủ yếu tập trung vào việc
định hướng nghề nghiệp, giáo dục đạo đức, thế ứng xử, truyền thống gia đình,
gia tộc... thì hiện nay, các nội dung này đã có điều chỉnh theo những mức độ
khác nhau, chủ yếu hướng vào các vấn đề: ý thức học tập, lập nghiệp, tránh xa tệ
nạn xã hội, quan hệ tình dục trước hơn nhân.Tuy nhiên về cơ bản, giáo dục gia
đình vẫn thể hiện kỳ vọng của cha mẹ vào con cái. Sự kỳ vọng đó đã có những
thay đổi theo hướng mong muốn con cái đạt được những giá trị thực tế hơn, để
có được cuộc sống thuận lợi, chất lượng cao hơn.
15
❖ Biến đổi trong hình thức giáo dục
- Giáo dục trong gia đình truyền thống đề cao nguyên tắc yêu cho roi cho
vọt, ghét cho ngọt cho bùi, nên thường áp dụng các hình thức giáo dục khắt khe.
Nếu cha mẹ khơng nghiêm khắc, khơng áp dụng những hình thức giáo dục cứng
rắn thì con cái sẽ khó có thể nghe lời và đi vào khuôn khổ.
- Quan niệm trên đang có nhiều thay đổi, sự áp dụng các hình thức giáo dục
gia đình khơng hồn tồn mang tính chất khắt khe, cứng rắn như trước, thay vào
đó, chủ yếu là nhắc nhở, phân tích đúng sai hoặc quát mắng. Một hình thức
giáo dục khác khi trẻ mắc lỗi được áp dụng là liên hệ với nhà trường. Hình thức
này tuy khơng phổ biến nhưng sự xuất hiện của nó cho thấy, các bậc cha mẹ không
muốn giấu giếm việc con mình có lỗi và nhờ nhà trường can thiệp như một phương
thức hỗ trợ giáo dục gia đình.
- Xu hướng biến đổi này là do:
Điều này xuất phát từ nhận thức: Trẻ bị đánh mắng nhiều thường có
phản ứng tiêu cực: hoặc tự ti, tủi thân, buồn bã khi thấy mình khơng được đối xử
cơng bằng, khơng được giãi bày, giải thích; hoặc bất cần, thù hận, thậm chí bỏ nhà
ra đi vì nghĩ rằng làm như thế sẽ khiến cha mẹ phải đau khổ, ân hận. Ngay cả các
bậc cha mẹ cũng nhận thấy tác hại của việc đánh địn khi trẻ mắc lỗi, nên rất ít
người thừa nhận đã áp dụng hình thức đó. Nhưng trên thực tế, sự mất bình tĩnh,
nóng nảy đã khiến hình thức này được họ áp dụng với trẻ khá nhiều. Điều này
được truyền thống cho là hình thức giáo dục ngăn ngừa tái phạm, nhưng cũng lại
chính là nguyên nhân dẫn tới sự xa cách của con cái. Chúng sẽ không dám gần gũi,
chia sẻ với cha mẹ, nên dễ phạm sai lầm tiếp theo khi thiếu đi sự tư vấn kịp thời
của người lớn. Do vậy, trong bối cảnh hiện tại, việc áp dụng hình thức đánh địn
khi khơng thực sự cần thiết sẽ dễ gây tác dụng tiêu cực.
- Một trong những hình thức giáo dục khá mới hiện nay đang được áp dụng
là khen thưởng, động viên trẻ khi chúng có thành tích tốt. Gia đình truyền thống
khơng khuyến khích hình thức giáo dục này vì có thể sẽ tạo cho trẻ sự tự mãn.
16
- Điểm khác biệt nữa hiện nay chính là việc ít áp dụng hình thức giáo dục
bằng tục ngữ, thành ngữ ca dao vốn được gia đình truyền thống rất đề cao. Điều
này thường xuất hiện trong các gia đình trẻ, gia đình hai thế hệ và ở khu vực đơ
thị. Trên thực tế, đây là hình thức giáo dục rất hiệu quả, bởi lẽ nó đi vào tâm thức
trẻ em một cách hết sức tự nhiên, gần gũi. Tuy nhiên, do hầu hết các bậc cha mẹ
trẻ hiện nay ít được tiếp cận với nguồn thông tin về văn hóa truyền thống, nên
khơng có điều kiện chuyển tải đến trẻ em. Mặt khác, nhiều bậc cha mẹ có xu hướng
hiện đại hóa, đồng nhất những gì của dân gian đều là bảo thủ, lạc hậu, khắt khe...
nên cũng không muốn giáo dục trẻ em bằng hình thức này. Dần dần, con cháu trở
nên cảm thấy xa lạ khi ông bà dùng ca dao tục ngữ để khuyên bảo. Thậm chí, một
bộ phận trẻ vị thành niên cịn thấy buồn cười hoặc khó chịu khi được khun bảo
bằng hình thức này.
2.4.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm là một trong bốn chức năng quan trọng
nhất trong kết cấu xây dựng nên nền tảng của một gia đình.Từ xa xưa, các gia đình
Việt Nam truyền thống vốn coi trọng những giá trị vợ chồng, con cái-bố mẹ theo
những chuẩn mực nhất định. Người vợ kỳ vọng vào vai trò trụ cột kinh tế, vai trò
làm cha của người chồng hơn là vào tình yêu và sinh hoạt vợ chồng. Cịn người
chồng thì lại coi trọng vào sự đảm đang, vai trò làm vợ, làm mẹ của người vợ.
Nhưng xã hội dần biến đổi, những chuẩn mực mới đã được ra đời.
• Điểm tích cực của biến đổi gia đình hiện đại
- Việc thực hiện nghĩa vụ vợ chồng: Trong xã hội hiện đại, độ bền vững
của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc của các mối quan hệ về trách
nhiệm, nghĩa vụ vợ chồng mà còn bị chi phối bởi các mối quan hệ cá nhân, sinh
hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuộc sống chung. Việc
thực hiện chức năng này, là một yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến sự tồn tại,
bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình.
- Việc lựa chọn hạnh phúc: Ngày nay, trình độ văn hóa phát triển, chúng
ta nhìn nhận nhau bằng thế giới nhân sinh quan phát triển chứ khơng cịn cổ hủ lạc
17
hậu như ngày xưa. Chính vì vậy, mà con người được tự do lựa chọn hạnh phúc cho
bản thân.
- Ngoài ra, gia đình hiện đại có sự độc lập về quan hệ kinh tế. Kiểu gia
đình này tạo cho mỗi thành viên khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát
triển tự do cá nhân. Vai trò cá nhân được đề cao.
• Điểm hạn chế của biến đổi gia đình hiện đại
− Nhưng bên cạnh đó, gia đình hiện đại cũng đối mặt với những khó khăn,
thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có một con
tăng lên thì đời sống tâm lý-tình cảm của nhiều trẻ em cũng sẽ kém phong phú do
thiếu đi tình cảm của người anh, người chị. Điều này, lý giải vì sao trẻ em ngày
này có thói sống ích kỷ, hời hợt hơn vì họ thường sống trong gia đình ít con, chấp
nhận tình cảm, sự nuông chiều của cha mẹ. Họ không biết cách sẻ chia và thông
cảm như trẻ con thời trước, Thậm chí, trong những năm gần đây tỷ lệ trẻ mắc bệnh
trầm cảm, tự kỷ tăng lên rất nhiều với 1% tỷ lệ trẻ em ở Việt Nam mắc bệnh tự kỷ.
− Một lý do khác dẫn đến tình trạng cuộc sống hiện nay kém hạnh phúc là do
tác động của cơng nghiệp hóa, tồn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo
sâu sắc. Một số hộ gia đình thì có cơ may, trở nên giàu có, cịn một số hộ thì là
những lao động làm th, khơng có khả năng tích lũy tài sản, Chính vì vậy, mà đời
sống tình cảm của họ bị ảnh hưởng rất nhiều vì bản thân đang chịu áp lực của việc
mưu sinh kiếm sống.
− Sự tiếp nhận quá nhanh và thiếu chọn lọc một số sắc thái văn hóa từ đơ thị
đã làm xói mịn, thậm chí là triệt phá nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp lâu đời của
văn hóa làng xã. Những lợi ích vật chất, thói vụ lợi làm tha hóa, “lưu manh hóa”
một bộ phận cư dân nơng thơn, làm vẩn đục mơi trường văn hóa, xã hội, bào mịn
và làm rạn nứt quan hệ gia đình nơng thôn thuần phác
→ Lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, tệ nạn xã hội, sự tranh giành ảnh
hưởng, sự ích kỷ trong chia sẻ quyền lợi tạo ra những mâu thuẫn xung đột có tác
18
động sâu sắc đến cấu trúc trong nội bộ gia đình, làm cho gia đình phải đối mặt với
những thách thức lớn hơn so với trước đây, từ đó đặt ra yêu cầu cần phải quan tâm
đầu tư nhiều hơn đến việc chăm lo cho gia đình có cơ hội phát triển ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững đây còn là quan điểm, tư tưởng chủ đạo chiến lược của
Đảng và nhà nước ta hiện nay.
• Những giải pháp nhằm khắc phục nhược điểm của gia đình hiện đại
-
Nhà nước cần có những giải pháp để khắc phục tình trạng giàu nghèo
đang có xu hướng ngày càng tăng.
- Tạo dựng quan hệ bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm
ni con, chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên.
- Nhà nước cần tăng cường biện pháp để đảm bảo an tồn tình dục, giáo
dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho các thành viên- những người sẽ là chủ gia
đình tương lai.
- Củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng những chuẩn mực
và mơ hình mới về giáo dục gia đình.
- Giải quyết thỏa đáng nhu cầu tự do của người phụ nữ hiện đại với trách
nhiệm làm dâu theo quan niệm truyền thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ.
- Hình thành những chuẩn mực mới để đảm bảo sự hài hịa lợi ích giữa
các thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình xã hội.
III. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình.
- Quan hệ hơn nhân và quan hệ vợ chồng: dưới tác động của cơ chế thị
trường, khoa học cơng nghệ hiện đại,tồn cầu hóa… khiến các gia đình phải gánh chịu
nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng – gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hơn, ly
thân, ngoại tình, quan hệ tình dục trước hơn nhân và ngồi hơn nhân, chung sống
khơng kết hơn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cơ đơn,
trẻ em sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục… Từ đó, dẫn tới hệ lụy
là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ,
lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia đình đơn thân, độc thân, kết hơn đồng tính,
sinh con ngịai giá thú…Ngồi ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng,
19
không ổn định, di chuyển nhiều…) cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với
nhiều người trong xã hội.
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột trong gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản
của gia đình, người quyết định các cơng việc quan trọng của gia đình, kể cả quyền dạy
vợ, đánh con.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, khơng cịn một mơ hình duy nhất là đàn ơng
làm chủ gia đình. Ngồi mơ hình người đàn ơng – người chồng làm chủ gia đình ra thì
cịn có ít nhất hai mơ hình khác cùng tồn tại.1 Đó là mơ hình người phụ nữ - người vợ
làm chủ gia đình và mơ hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia
đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội,
được các thành viên trong gia đình coi trọng. Ngồi ra, mơ hình người chủ gia đình
phải là người kiếm ra nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người lãnh
đạo gia đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
- Quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình:
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như các
giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình cũng khơng ngừng biến đổi. Trong gia đình
truyền thống, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông bà,
cha mẹ ngay từ khi cịn nhỏ. Trong gia đình hiện đại, việc giáo dục trẻ em gần như
phó mặc cho nhà trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ.
Ngược lại, người cao tuổi trong gia đình truyền thống thường sống chung với con
cháu, cho nên nhu cầu về tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Cịn khi quy mơ gia
đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm.
Những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho gia
đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi cùng
chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu
hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ
(Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb.KHXH, H.2012,
tr.335.)
1
20
thường hướng tới những giá trị hiện đại, có xu hướng phủ nhận yếu tố truyền thống.
Gia đình càng nhiều thế hệ, mâu thuẫn thế hệ càng lớn.
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn,
làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có trong truyền
thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây
ra tranh cãi gay gắt giữa những người ủng hộ và khơng ủng hộ. Hơn nhân đồng tính
mới được chấp nhận dè dặt, chỉ có 27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều
đặc điểm hiện đại.Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy
chồng nhưng có con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia
đình.
Quan hệ của gia đình với dịng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn khá chặt
chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc điểm truyền
thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nơng thơn); thể hiện ở số gia đình
đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần ln gắn kết với dịng họ để
giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo 5 điểm, coi trọng việc giữ
gìn nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.
Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng theo mức độ hiện
đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền thống về tình làng nghĩa
xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên tục của các giá trị văn hóa nhưng
cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ về thái độ đối với quan hệ tình cảm và
quan hệ vật chất giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng. Trong khi người
cao tuổi đề cao việc ứng xử có lễ nghĩa, có trước có sau trong mọi hồn cảnh thì nhiều
thanh niên lại gắn khía cạnh kinh tế với khía cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ
cho rằng khơng thể có hạnh phúc nếu khó khăn về kinh tế.So với điểm trung bình về
mức độ gắn kết với dịng họ, mức độ gắn kết giữa gia đình với cộng đồng thấp hơn.2
(Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị chính
sách_PGS, TS.Trần Thị Minh Thi)
2
21
Mối quan tâm đến sự biến đổi mối quan hệ cha mẹ - con cái xuất hiện cùng lúc
với mối quan tâm của các nhà nghiên cứu đến sự biến đổi các mối quan hệ vợ chồng.
Mặc dù các nghiên cứu đều chỉ ra rằng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối
quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau thì các lý thuyết và phương pháp nghiên
cứu về tác động này lại phát triển chậm hơn. Để đáp ứng nhu cầu phát triển lý thuyết
trong lĩnh vực này, một nhóm tác giả (Patterson, Reid, và Dishion) đã đưa ra khung lý
thuyết về tác động của cha mẹ và con cái theo thời gian trong mối liên hệ đến nguy cơ
phạm tội của trẻ em. Lý thuyết phát triển của họ gắn liền với quá trình phát triển mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái từ khi thời thơ ấu, trước khi đi học đến giai đoạn sau
khi đứa trẻ đã trở nên độc lập hơn trong cuộc sống.
Các tác giả ban đầu chỉ ra rằng mơi trường sống xung quanh của gia đình (mức độ
căng thẳng, stress và các mối quan hệ láng giềng, v.v.) sẽ ảnh hưởng đến tình cảm và
hành vi của cha mẹ theo cách sẽ gây tác động đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái.3
(Sự tiếp nối và biến đổi các mối quan hệ gia đình: Lý thuyết, Phương pháp và các
phát hiện từ nghiên cứu thực nghiệm; Tác giả: Rand D.Conger, Frederick O.Lorenz và
K.A.S Wickrama; Xuất bản 2004)
3
22