Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI CỦA NGƯ DÂN VEN BIỂN KHÁNH HÒA- TRƯỜNG HỢP ĐẢO BÍCH ĐẦM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.71 KB, 16 trang )

VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI CỦA NGƯ DÂN VEN BIỂN KHÁNH
HÒA- TRƯỜNG HỢP ĐẢO BÍCH ĐẦM
Võ Văn Diễn
Bộ môn Kinh tế thủy sản - Khoa Kinh tế
Đặt vấn đề
Việt Nam điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thủy sản với bờ biển dài hơn
3.260 km trải dài qua 28 tỉnh thành và khu đặc quyền kinh tế rộng hơn một triệu km
2
. Với
những lợi thế như vậy, ngành thủy sản đã thể hiện là một trong những lĩnh vực chủ yếu của
nền kinh tế Việt Nam với 4% GDP năm 2006 (Pomeroy, et al, 2009). Vai trò quan trọng
của ngành thủy sản còn được thể hiện ở những khía cạnh khác như chiếm khoảng 10% giá
trị xuất khẩu, tạo ra khoảng 4 triệu việc làm (Long et al, 2008) và góp phần cung cấp thực
phẩm cho dân cư địa phương (FICen, 2006). Tuy nhiên, hầu hết nghề cá Việt Nam được
coi là nghề cá qui mô nhỏ với 88% tổng sản lượng cá thu hoạch và thu hút tới 82% lao
động (Long, et al, 2008), hoạt động ở khu vực gần bờ và sử dụng ngư cụ đánh bắt khá đơn
giản (Long, N. 2003).
Cuộc sống của cộng đồng ngư dân ở Việt Nam còn khó khăn và họ được coi là
những người nghèo nhất trong những người nghèo. Mặc dù vậy, cho đến nay có rất ít
nghiên cứu chuyên sâu về sự nghèo khổ của ngư dân (Béné, 2003). Những câu hỏi thường
trực là mức độ nghèo khổ của ngư dân như thế nào, những nhân tố cơ bản nào tác động
đến sự nghèo khổ của ngư dân và liệu cộng đồng ngư dân ở những khu vực địa lý bị cách
biệt như hải đảo có những điểm đặc trưng nào. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nghèo và
nghề cá qui mô nhỏ đang được các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức
nông lương thế giới (FAO), Liên hiệp quốc (UN) quan tâm hỗ trợ, đặc biệt cho những
nước nghèo với nghề cá chưa phát triển.
Nghề cá ở Đảo Bích Đầm, Nha Trang chủ yếu là ở qui mô nhỏ và cuộc sống của
cộng đồng ngư dân ở đây phụ thuộc gần như hoàn toàn vào hoạt động đánh bắt hàng ngày
trong khu vực gần bờ. Nghiên cứu sự nghèo khổ của ngư dân Bích Đầm có thể coi như là
một trường hợp điển hình mô tả sự nghèo khổ của ngư dân trong nghề cá qui mô nhỏ ở
Khánh Hòa nói riêng và Việt Nam nói chung. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các


chỉ số đo lường sự nghèo khổ của ngư dân, phân tích các nhân tố tác động đến sự nghèo
khổ đó và đề xuất các giải pháp, chính sách để giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống
của cộng đồng ngư dân trong nghề cá qui mô nhỏ.
Cơ sở lý thuyết
Nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu và đang thu hút nỗ lực chung của cả cộng
đồng quốc tế nhằm từng bước xóa bỏ đói nghèo và nâng cao phúc lợi cho người dân. Tuy
nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về thế nào là nghèo. Các
công trình nghiên cứu coi nghèo là trình trạng một người trong xã hội không có khả năng
được thụ hưởng “một cái gì đó” ở mức độ tối thiểu cần thiết. Sự khác nhau về việc xác
định “cái gì đó” cho phép chúng ta có thể chia thành ba trường phái chính trong quan niệm
về nghèo.
Trường phái phúc lợi coi một xã hội có hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều
cá nhân trong xã hội đó không có được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để
đảm bảo một cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó.
Trường phái nhu cầu cơ bản coi “cái gì đó” mà người nghèo thiếu là tập hợp
những hàng hóa và dịch vụ được xác định cụ thể mà việc thỏa mãn chúng là điều điện tiên
quyết để đẩm bảo chất lượng cuộc sống. Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm lương thực
thực phẩm, nước sạch, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế, và giao thông công
cộng, trong đó nhu cầu về dinh dưỡng là quan trọng nhất.
Trường phái năng lực cho rằng giá trị cuộc sống của con người không chỉ phụ
thuộc duy nhất vào độ thỏa dụng hay thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà
một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà học được hưởng, để vươn tới một cuộc
sống mà họ mong muốn.
Với những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau, rất khó để tìm được một khái
niệm duy nhất đầy đủ cho một vấn đề rất rộng như nghèo đói. Tuy vậy, có thể chỉ ra những
biểu hiện cơ bản hay những khía cạnh chủ yếu của nghèo đói. Ngày ngay, hầu hết các tổ
chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Liên hiệp quốc đều đã mở rộng khái niệm đói nghèo.
Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản như: (Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát
triển thế giới 2000: Tấn công đói nghèo, NXB Chính trị quốc gia, 2000).
- Sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập

hoặc chi tiêu.
- Sự thiếu thốn mức thụ hưởng về giáo dục và y tế.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá
nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khỏe.
- Tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.
Nguyên nhân của sự nghèo khổ
Các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (2005) đã tóm lượt các nguyên nhân dẫn tới
sự nghèo khổ thành bốn nhóm: nhóm nhân tố liên quan đến những đặc điểm về khu vực;
nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng; nhóm nhân tố về đặc điểm hộ gia đình và nhóm
nhân tố liên về đặc điểm của cá nhân.
- Ở mức độ khu vực, những vùng cách biệt về địa lý, ít nguồn tài nguyên và điều
kiện khí hậu khắc nghiệt thường có mức độ nghèo cao hơn. Những đặc điểm quan trọng
khác về quốc gia và cùng cũng ảnh hưởng đến nghèo như sự quản lý, các chính sách về
kinh tế, chính trị, sự ổn định của thị trường (WB, 2005).
- Ở mức độ cộng đồng, sự nghèo khổ có thể do cơ sở hạ tầng như tình hình cung
cấp nước sạch, khả năng tiếp cận với đường nhựa, sự phân chia đất đai trong vùng, khả
năng tiếp cận những dịch vụ công như trường học, chăm sóc sức khỏe (WB, 2005).
- Ở mức độ hộ gia đình, nghèo có thể bị tác động bởi nhiều nhân tố như trình độ
học vấn, cấu trúc tuổi của những thành viên trong gia đình, giới tính của chủ hộ, qui mô hộ
gia đình, tỷ lệ người phụ thuộc, tài sản của hộ gia đình, việc làm và kết cấu thu nhập của
hộ gia đình, sức khỏe và trình độ học vấn của những thành viên trong gia đình.
- Ở mức độ cá nhân, nghèo có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: tuổi của chủ hộ,
trình độ học vấn, tình trạng việc làm, tình trạng sức khỏe.
Phương pháp nghiên cứu
Để đo lường mức độ nghèo cần phải xác định ba yếu tố: (1) lựa chọn chỉ số phúc
lợi; (2) lựa chọn ngưỡng nghèo và (3) lựa chọn thước đo mức độ nghèo.
(1) Lựa chọn chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cở bản của nghèo có thể được chia làm hai khía cạnh tiền tệ và phi
tiền tệ. Khía cạnh tiền tệ được phản ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân đầu người, vì
chỉ số này tổng hợp được nhiều yếu tố có thể làm cải thiện chất lượng cuộc sống, như chi

cho ăn uống, học hành và các dịch vụ y tế. Ngoài việc sử dụng số liệu về chi tiêu, người ta
còn có thể sử dụng số liệu về thu nhập. Tuy nhiên, số liệu về chi tiêu thường được xem là
tốt hơn vì hai lý do. Thứ nhất, thu nhập chỉ làm tăng phúc lợi khi nó được sử dụng cho tiêu
dùng chú không phải tiết kiệm hay trả nợ. Điều đó có nghĩa là chi cho tiêu dùng cuar hộ
gia đình có liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Thứ hai, số liệu về thu nhập
thường không chính xác.
Các khía cạnh phi tiền tệ của nghèo được dùng để đo tình trạng thiếu thốn về y tế,
giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay thiếu quyền lực… Có thể ước
tính giá trị của các chỉ số phi tiền tệ này, nhưng đa phần phải dựa trên các đánh giá chủ
quan do cá nhân tự thể hiện qua các cuộc khảo sát.
(2) Lựa chọn ngưỡng nghèo
Ngưỡng nghèo (chuẩn nghèo) là ranh giới để phân biệt giữa người nghèo và người
không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính bằng tiền (một mức tiêu dùng hoặc thu nhập
nào đó), hay phi tiền tệ (một trình độ học vấn nhất định). Có hai cách xác định ngưỡng
nghèo:
Ngưỡng nghèo tuyệt đối: là chuẩn tuyết đối về mức sống được coi là tối thiểu cần
thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh.
Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng
chung phản ánh tình trạng của mộ bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng
đồng.
(3) Thước đo mức độ nghèo
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo về qui mô,
khoảng nghèo và mức độ trầm trọng của nghèo. Ba thước đo thông dụng nhất phản ánh các
khía cạnh đó lần lượt là: tỷ lệ nghèo (headcount), khoảng nghèo (poverty gap) và mức độ
nghèo (poverty severity). Các chỉ số này có thể được tính toán qua công thức do Foster,
Greer và Thorbecke (1984) đã xây dựng:
∑∑
==








=






=
q
i
i
q
i
i
z
yz
n
zyPor
z
g
n
zyP
11
1
),(

1
),(
α
α
α
α
(1)
Trong đó:
n: số hộ gia đình trong cộng đồng
q: số hộ gia đình dưới ngưỡng nghèo
g: khoảng nghèo của hộ gia đình thứ i
y
i
: chi tiêu hoặc thu nhập của hộ gia đình nghèo thứ i
z: ngưỡng nghèo
α ≥ 0 – đại lượng đo mức độ bất bình đẳng giữa những người nghèo.
Với giá trị của α = 0, đẳng thức (1) trở thành
n
q
z
g
n
P
q
i
i
=







=

=
1
0
0
1
. Khi đó, P
0
là chỉ
số cho biết tỷ lệ những người ở dưới ngưỡng nghèo (tỷ lệ nghèo).
Giá trị của α = 1, đẳng thức (1) trở thành

=







=
q
i
i
z
yz

n
P
1
1
1
. Khi đó, P
1
là chỉ số đo
khoảng cách nghèo, cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng
nghèo. Chỉ số này còn cho biết khoảng tiền tối thiểu để đưa những người nghèo lên đến
mức sống ngang với ngưỡng nghèo.
Giá trị của α = 2, đẳng thức (1) trở thành
2
1
2
1

=







=
q
i
i
z

yz
n
P
. Khi đó, P
2
là chỉ số đo
mức độ trầm trọng của nghèo. Những người có khoảng nghèo lớn hơn sẽ có trọng số lớn
hơn, nghĩa là mức độ nghèo của họ trầm trọng hơn.
Đo lường các nhân tố tác động tới nghèo
Để lượng hóa tác động của những nhân tố, mô hình semi-logarit nên được sử dụng
trong trong phân tích nghèo (WB, 2005). Mô hình kinh tế lượng tổng quát có thể được xây
dựng như sau:
ii
XCPCLn
ββ
+=
0
)(
Trong đó: CPC: chi tiêu bình quân đầu người trong hộ gia đình
0
β
,
i
β
: các hệ số ước lượng
X
i
: những biến độc lập – biến giải thích nguyên nhân nghèo
Kết quả nghiên cứu của WB (2005) đã chỉ ra nhiều nhân tố tác động đến nghèo, và
những nhân tố này có thể được chia làm hai mức vi mô và vĩ mô. Những đặc điểm về vùng

và cộng đồng dân cư có thể được xếp vào nhóm vĩ mô và những đặc điểm về hộ gia đình
và cá nhân có thể được xếp vào nhóm vi mô. Với đặc điểm của vùng nghiên cứu là vùng
đảo cách biệt về địa lý với đất liền, chúng ta có thể giả định rằng các nhân tố vĩ mô có tác
động như nhau tới các hộ gia đình. Nghiên cứu này chỉ tập trung phân tích và đánh giá các
yếu tố ở mức độ vi mô. Những đặc điểm của hộ gia đình có thể được đại diện bởi một số
nhân tố như qui mô hộ gia đình, số người phụ thuộc, tài sản và số trẻ em trong gia đình.
Những đặc điêm cá nhân có thể bao gồm tuổi của chủ hộ, giới tính chủ hộ, trình độ học
vấn và tình trạng việc làm của chủ hộ.
Mô hình kinh tế lượng cụ thể như sau:
Ln(CPC) = β
0
+ β
1
FSIZE + β
2
DEPEN + β
3
CHILD + β
4
BOAT + β
5
AQUA +
β
6
CREDIT + β
7
AGE + β
8
EDUC + β
9

EMPL + e (1)
Trong đó:
CPC – Chi tiêu bình quân đầu người: được xác định bằng cách chia tổng chi tiêu
của hộ gia đình cho số lượng thành viên trong gia đình đó. Ln(CPC) là biến phụ thuộc, mô
tả sự biến động của chi tiêu bình quân đầu người trong hộ gia đình. Biến phụ thuộc trong
mô hình nghiên cứu này có thể bị tác động bởi một số yếu tố quan trọng – biến độc lập.
FSIZE – Qui mô hộ gia đình: được xác đỉnh là số người sống trong cùng một hộ
gia đình. Nghiên cứu của WB (2005) cho thấy rằng những hộ gia đình có qui mô lớn
thường là những hộ nghèo. Giả thiết đưa ra trong nghiên cứu này là qui mô hộ gia đình và
tình trạng nghèo có mối tác động cùng chiều, nghĩa là những hộ gia đình ngư dân có qui
mô càng lớn thì thu nhập/chi tiêu bình quân đầu người càng thấp.
DEPEN – Số người sống phụ thuộc: được xác định bằng cách tính số lượng
người không có thu nhập và sống phụ thuộc vào gia đình. Kỳ vọng rằng tỷ lệ người phụ
thuộc cao sẽ làm giảm mức chi tiêu bình quân đầu người trong hộ gia đình, có nghĩa là
mức độ nghèo tăng lên.
CHILD – Số lượng trẻ em trong hộ gia đình: được xác định là những thành viên
dưới 15 tuổi trong gia đình. Trong độ tuổi này, trẻ em thường là đến trường hoặc là những
người không có việc làm. Một gia đình có nhiều trẻ em được giả thiết là không thể tiết
kiệm được tiền vì phải chi trả nhiều khoản để nuôi chúng. Số lượng trẻ em trong hộ gia
đình càng nhiều được giả thiết là làm tăng mức độ nghèo hay làm giảm chi tiêu bình quân.
BOAT – Số tàu khai thác sở hữu: là biến giả (dummy variable), sẽ nhận gía trị là
1 nếu hộ gia đình có sở hữu tàu khai thác hải sản và ngược lại sẽ nhận giá trị là 0. Biến này
dùng để đo lường tài sản của hộ gia đình, bởi vì đối với ngư dân trên đảo Bích Đầm, tàu
khai thác có thể là tài sản vật chất quí giá nhất trong gia đình. Bên cạnh đó, nếu có tàu khai
thác hải sản, thu nhập của họ có thể sẽ cao hơn những gia đình không có tàu. Giả thiết rằng
một hộ gia đình có tàu thì chi tiêu bình quân đầu người sẽ tăng và mức độ nghèo sẽ thấp
hơn.
AQUA – Số lồng nuôi hải sản: cũng là một biến giả, nhận giá trị là 1 nếu hộ gia
đình sở hữu trại nuôi trồng hải sản hoặc nhận giá trị 0 nếu hộ gia đình không có bất cứ
lồng nuôi nào. Lồng nuôi hải sản cũng là một tài sản của các hộ gia đình ở khu vực Đảo

Bích Đầm. Giả thiết đưa ra là nếu hộ gia đình có sở hữu các lồng nuôi hải sản sẽ làm tăng
nguồn thu nhập và sẽ làm giảm mức độ nghèo. Nói cách khác là số trại nuôi có tác động
làm tăng chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình
CREDIT – Hiện trạng tín dụng: cũng là một biến giả, sẽ nhận giá trị 1 nếu hộ gia
đình có vay vốn chính thức của ngân hàng với số tiền ít nhất 10 triệu đồng hoặc nhận giá
trị 0 cho những trường hợp khác. Nếu một hộ gia đình có khoản vay chính thức từ các
ngân hàng, họ có thể sử dụng nguồn tài chính này đầu tư vào khai thác hoặc nuôi trồng với
lãi suất ưu đãi. Ngược lại, nếu hộ gia đình có khoản vay từ các cá nhân (“tín dụng đen”) họ
phải trải lãi suất cao hơn nhiều. Điều này có thể là áp lực rất lớn cho các hộ gia đình ngư
dân. Giả thiết đặt ra là một hộ gia đình có thể tiếp cận được với các nguồn vốn vay ưu đãi
chính thức sẽ có khả năng thoát nghèo cao hơn.
AGE – Tuổi của chủ hộ gia đình: được coi là một trong những nhân tố ảnh
hưởng rất lớn đến sự nghèo khó của một hộ gia đình. Báo cáo của WB (2005) cho thấy
rằng những tuổi của những chủ hộ gia đình nghèo thường thấp hoặc những người trên 60
tuổi, trong khoảng này những chủ hộ gia đình có tuổi đời lớn hơn thường ít nghèo hơn. Lý
do căn bản được đưa ra là những người trưởng thành hơn thường có nhiều kinh nghiệm
làm việc hơn và nhận được mức thu nhập cao hơn. Giả thiết rằng, trong độ tuổi lao động,
những chủ hộ gia đình có tuổi cao hơn sẽ kiếm được thu nhập nhiều hơn và chi tiêu bình
quân trong gia đình sẽ cao hơn. Điều này cũng có nghĩa rằng khả năng giảm nghèo của hộ
gia đình này cũng sẽ cao hơn.
EDUC – Trình độ học vấn của chủ hộ: được xác định là số năm đi học của chủ
hộ gia đình. Trình độ học vấn được đo lường theo 5 mức độ. Giá trị của biến EDUC là 1
nếu chủ hộ gia đình không biết chứ; là 2 nếu học hết tiều học; là 3 đối với trung học cơ sở;
là 4 cho bậc phổ thông trung học và 5 cho những bậc học cao hơn. Chúng ta kỳ vọng rằng
trình độ học vấn cao có tác động tích cực đến kiến thức, sự hiểu biết và kỹ năng nghề
nghiệp. Những chủ hộ gia đình có trình độ học vấn cao thường có nhiều cơ hội việc làm
hơn và có nhiều sự lựa chọn hơn trong thị trường lao động. Điều này cũng có nghĩa rằng
mức độ nghèo khổ của hộ gia đình sẽ thấp hơn khi trình độ học vấn của chủ hộ cao.
EMPL- Tình trạng việc làm của chủ hộ: là một biến giả để xác định tình trạng
việc làm của chủ hộ gia đình. Biến EMPL sẽ nhận giá trị là 1 khi chủ hộ gia đình có việc

làm và thu nhập ổn định, ngược lại sẽ nhận giá trị là 0. Một chủ hộ có việc làm và thu nhập
ổn định được kỳ vọng là làm tăng mức chi tiêu bình quân đầu người cũng như sẽ làm giảm
tình trạng nghèo khổ.
Dữ liệu phân tích
Dữ liệu sơ cấp sử dụng trong nghiên cứu này được thu thập qua một cuộc khảo sát
kinh tế xã hội ở Đảo Bích Đầm vào tháng 2 năm 2009. Dữ liệu thu thập chủ yếu về đặc
điểm hộ gia đình cũng như chỉ số kinh tế chủ yếu như thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình
ngư dân trong năm 2008. Những thông tin quan trọng khác cũng được thu thập như điều
kiện tín dụng, nghề nghiệp chính, những khó khăn cũng như những mong muốn của các
gia đình ngư dân. Qui mô mẫu điều tra là 60 hộ gia đình được chọn một cách thuận tiện
trong tổng thể là 182 hộ. Phương pháp thu thập dữ liệu là phỏng vấn trực tiếp chủ hộ hoặc
vợ của chủ hộ bằng bảng câu hỏi. Sau khi thu thập, dữ liệu được làm sạch và phân tích
bằng Excel 2003 và phần mềm SPSS phiên bản 16.0.
Kết quả nghiên cứu
Những chỉ số nghèo
Để xác định các chỉ số đo lường mức độ nghèo khổ phải xác định chuẩn nghèo phù
hợp. Chuẩn nghèo được chọn trong nghiên cứu này theo chuẩn nghèo của Việt Nam giai
đoạn 2006 – 2010. Theo đó, hộ gia đình được xếp là hộ nghèo khi thu nhập bình quân đầu
người nhỏ hơn 200,000 đồng/tháng ở khu vực nông thôn và 260.000 đồng/tháng ở khu vực
thành thị. Trong năm 2008, chuẩn nghèo được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Chỉ số giá tiêu dùng này qua các năm như sau: 6,5% (2006) 12,63% (2007) and 27,5%
(2008)
1
. Bích Đầm vùng đảo và được xem là khu vực nông thôn, vì vậy chuẩn nghèo được
chọn là Z
1
= 200.000 đồng và chuẩn nghèo điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng Z
2
=
200,000*(1+6,5%)*(1+12,63%)*(1+27,5%) ≈ 300.000 đồng/người/tháng.

Những chỉ số như tỷ lệ nghèo, khoảng cách nghèo và mức độ trầm trọng của nghèo
của người dân Bích Đầm được tính toán trên cở sở chuẩn nghèo đã xác định. Kết quả cho
thấy có khoảng 3,33% dân cư trên Đảo Bích Đầm sống dưới ngưỡng nghèo khi chuẩn
nghèo được chọn là Z
1
= 200.000 đồng/ người/ tháng với số hộ gia đình thuộc diện nghèo
là 2 trong tổng số 60 hộ gia đình được điều tra (Bảng 1).Tỷ lệ nghèo tăng lên khi chọn
chuẩn nghèo có tính thêm yếu tố chỉ số giá tiêu dùng (Z
2
= 300.000 đồng ) với 18,33% ngư
dân sống dưới ngưỡng nghèo và số hộ nghèo tăng lên là 11 gia đình.
Bảng 1 Các chỉ số nghèo
Ngưỡng nghèo
z
1
= 200.000 đồng z
2
= 300.000 đồng
Số hộ gia đình dưới ngưỡng nghèo 2 11
Số hộ gia đình trên ngưỡng nghèo 58 49
Tổng số hộ gia đình 60 60
1

Tỷ lệ nghèo – P
0
(100%) 3.33% 18.33%
Khoảng cách nghèo – P
1
(100%) 0.82% 3.85%
Mức độ nghèo – P

2
(100%) 0.33% 1.34%
Chỉ số tỷ lệ nghèo cũng cho thấy rằng tỷ lệ người nghèo ở Đảo Bích Đầm cao hơn
mức bình quân chung của tỉnh Khánh Hòa. Cụ thể, theo báo cáo kinh tế xã hội tỉnh Khánh
Hòa năm 2008, có khoảng 8,12% dân cư sống dưới mức nghèo.
Chỉ tiêu về khoảng cách nghèo cho thấy rằng những người nghèo ở Đảo Bích Đầm
thiếu hụt khoảng 0,82% khi ngưỡng nghèo được chọn là Z
1
= 200.000 đồng và 3,58% khi
Z
2
= 300.000 đòng để thoát khỏi cảnh nghèo.
Đo lường những nhân tố tác động đến nghèo
Các nhân tố tác động đến nghèo được phân tích trong mô hình kinh tế lượng dạng
semi-logarit (1) với các biến độc lập được mô tả như sau:
Bảng 2 Thống kê mô tả các biến độc lập
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
FSIZE 60 2 8 5.10 1.349
DEPEN 60 0 6 2.92 1.441
CHILD con cái 60 0 4 1.20 1.190
AGE tuổi 60 33 70 47.43 9.153
EDUC giáo dục 60 1 4 2.30 .671
BOAT 60 0 1 .52 .504
AQUA 60 0 1 .37 .486
EMPL 60 0 1 .68 .469
CREDIT 60 0 1 .32 .469
Valid N (listwise) 60
Kết quả phân tích hồi qui để ước lượng múc tác động của các yếu tố cho thấy rằng
một vài biến độc lập không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, cụ thể là biến AQUA,
CREDIT, AGE, EDUC và EMPL với giá trị p-value lần lượt là 0,507; 0,521; 0,987; 0,640

và 0,270. Một điểm đáng chú ý thứ hai trong mô hình này là sự tác động của một số biến
không như kỳ vọng. Cụ thể là các biến DEPEN, AQUA và EMPL (Bảng 3).
Bảng 3 Kết quả hồi qui (lần 1)
Model
Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
t Sig.B Std. Error Beta
1 (Constant) 7.115 .475 14.989 .000
FSIZE 263 .060 701 -4.399 .000
DEPEN .165 .065 .469 2.556 .014
CHILD 179 .064 420 -2.793 .007
BOAT .218 .120 .217 1.813 .076
AQUA 081 .121 078 668 .507
CREDIT .087 .134 .080 .647 .521
AGE .000 .007 002 016 .987
EDUC .041 .087 .054 .470 .640
EMPL 147 .131 136 -1.116 .270
Dependent Variable: LnCPC
R Square = 0.398, Adjusted R Square = 0.290
Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi qui này chưa phải kết quả cuối cùng. Kết quả hồi
qui có thể bị ảnh hưởng khi các hiện tượng như phương sai thay đổi, đa cộng tuyến xảy ra
trong mô hình. Chính vì vậy, việc kiểm định các giả thuyết của mô hình kinh tế lượng là vô
cùng quan trọng trong quá trình ước lượng. Kết quả của việc kiểm định các giả thuyết của
mô hình kinh tế lượng cho thấy rằng phương sai thay đổi và đa cộng tuyến không xảy ra
trong mô hình này. Việc kiểm tra phân phối cho thấy rằng giá trị trung bình là 3.57E-15,
gần bằng 0 và độ lệch chuẩn bằng 0.966, gần như 1. Điều này cho chúng ta kết luận rằng
dữ liệu đảm bảo giả thuyết phân phối chuẩn.
Sau khi kiểm định mô hình và loại bỏ một số biến không có ý nghĩa thông kế, kết

quả phân tích hồi qui cuối cùng như sau (bảng 4):
Bảng 4 Mô hình hồi qui
Model
Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients
t Sig.B Std. Error Beta
1 (Constant) 7.158 .228 31.331 .000
FSIZE 262 .054 698 -4.880 .000
DEPEN .140 .059 .399 2.367 .021
CHILD 158 .058 372 -2.727 .009
BOAT .187 .108 .186 1.726 .090
Dependent Variable: LnCPC
R Square = 0.371, Adjusted R Square = 0.326
LnCPC = 7.158 – 0.262FSIZE + 0.140DEPEN – 0.158CHILD + 0.187BOAT
Kết quả phân tích hồi qui cho thấy rằng có khoảng 33% ( R
2
điều chỉnh = 0.326 and
R
2
= 0.371) sự biến động của Ln(CPC) trong các gia đình ngư dân ở Đảo Bích Đầm được
giải thích bằng mô hình hồi qui trên, trong đó một số yếu tố tác động quan trọng là FSIZE,
CHILD, DEPEN và BOAT.
Dấu của các hệ số ước lượng cũng như sự kỳ vọng ban đầu, chỉ có riêng biến
DEPEN là khác. Tất cả các biến giải thích trong mô hình kinh tế lượng đều có ý nghĩa
thông kê. Cụ thể, biến FSIZE và CHILD có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, biến DEPEN và
BOAT có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 5% và 10%.
Thảo luận kết quả nghiên cứu
Giá trị của R
2
= 0,371 và R
2

điều chỉnh = 0,326 trong mô hình phân tích này là có
thể chấp nhận được. Với dữ liệu chéo, giá trị của R
2
trong khoảng 0,10 đến 0,40 là bình
thường. Hơn nữa, hành vi của hộ gia đình cũng khó giải thích đầy đủ (Hill, et al, 2007).
Bên cạnh đó, mô hình chỉ mới dừng lại ở việc phân tích các yếu tố vi mô, chưa đánh giá
tác động của các yếu tố vĩ mô.
Phân tích này cũng cho thấy rằng, có khoảng 30% dân cư ở Đảo Bích Đầm trong độ
tuổi lao động nhưng không có việc làm. Có thể nói đây là một sự lãng phí nguồn lực của
địa phương. Chính vì vậy, chính quyền địa phương có thể tạo ra nhiều việc làm hơn cho
những người này, đặc biệt là phụ nữ. Mô hình hỗ trợ tạo việc làm của dự án bảo tồn biển
khu vực Vịnh Nha Trang (Thu, 2005) nên được mở rộng hơn và có sự quan tâm nhiều hơn
từ chính quyền địa phương.
Những hộ gia đình có sở hữu tàu khai thác hải sản có mức chi tiêu bình quân đầu
người cao hơn những hộ gia đình không có, nghĩa là các hộ gia đình có tàu ít nghèo hơn.
Điều này có thể dẫn đến một đề xuất về giải pháp thoát nghèo cho cộng động ngư dân là
hỗ trợ cho họ mua tàu. Giải pháp này có thể làm giải quyết được phần nào vấn đề nghèo
khổ của cộng đồng ngư dân nghề cá qui mô nhỏ trong ngắn hạn. Tuy nhiên, hỗ trợ ngư dân
mua tàu đồng nghĩa với việc năng lực khai thác trong nghề cá sẽ răng lên trong dài hạn.
Điều này có thể gây ra áp lực đối với nguồn lợi hải sản gần bờ và ảnh hưởng tiêu cực đến
sự phát triển bền vững của nghề cá qui mô nhỏ. Như vậy, để tìm giải pháp thoát nghèo cho
cộng đồng ngư dân trong nghề cá qui mô nhỏ cần phải phân tích kỹ hơn về mối quan hệ
này. Mối quan hệ giữa nghèo và nghề cá qui mô nhỏ có thể được giải thích theo hai khía
cạnh: thứ nhất “họ nghèo bởi vì họ là ngư dân” và thứ hai “họ là ngư dân bởi vì họ nghèo”.
Ở khía cạnh thứ nhất của mối quan hệ này, ngư dân được coi là người nghèo nhất
trong những người nghèo xuất phát từ những nguyên nhân bên trong và bên ngoài nghề cá
qui mô nhỏ (Béné, 2003). Về những nguyên nhân bên trong, sự nghèo khổ là do tài nguyên
nguồn lợi ít (Copes, 1989) và điều kiện tự nhiên của tài sản chung trong nghề cá qui mô
nhỏ (Gordon, 1954), nghĩa là nghề cá khai thác tự do cho phép nhiều người gia nhập và
điều này sẽ dẫn đến sự khai thác quá mức nguồn lợi. Về những yếu tố bên ngoài, nguyên

nhân của sự nghèo khổ trong nghề cá là do ngư dân có ít cơ hội tìm kiếm thu nhập (Béné,
2003). Cộng đồng ngư dân trong nghề cá qui mô nhỏ thường ở những khu vực biệt lập với
rất ít cơ hội kiếm việc làm thay thế khác. Nói cách khác, thu nhập thay thế bên ngoài nghề
cá là rất thấp. Chính vì vậy mà nghề cá qui mô nhỏ tạo ra ít thu nhập cho ngư dân, dù cho
họ có cố gắng làm gì đi nữa, ngư dân vẫn là những người nghèo (Béné, 2003).
Ở khía cạnh thứ hai, nghề cá khai thác tự do tạo cơ hội cho những người nghèo nhất
tìm kiếm được kế sinh sống bằng các hoạt động khai thác. Nghề cá qui mô nhỏ được ví
như là phương kế cuối cùng cho những người nghèo, nó cho phép người người nghèo gia
nhập vào nghề cá mà không cần bất cứ kỹ năng hay tài sản nào (Béné, 2003).
Kết luận
Nghiên cứu đã khẳng định rằng cộng đồng ngư dân trong nghề cá qui mô nhỏ, nhất
là những người ở vùng đảo, cách biệt về địa lý sống trong điều kiện nghèo nàn hơn mức
trung bình của địa phương. Nguồn thu nhập của họ rất hạn chế, chủ yếu là từ hoạt động
khai thác hàng ngày với những nghề cá thủ công và không có nguồn thu nhập thay thế.
Qui mô hộ gia đình, số lượng trẻ em và tỷ lệ người phụ thuộc có tác động đáng kể
đến mức chi tiêu bình quân đầu người. Bên cạnh đó, những gia đình sở hữu tàu khai thác
có mức chi tiêu bình quân cao hơn những gia đình khác.
Những đặc điểm cá nhân của chủ hộ gia đình như tuổi, trình độ học vấn không ảnh
hưởng đáng kể đến mức chi tiêu. Nói cách khác, hiệu quả của nghề cá qui mô nhỏ có thể
không bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm đi biển hay trình độ học vấn của ngư dân.
Giải pháp giảm nghèo hay nâng cao chất lượng cuộc sống của ngư dân nên là tạo
việc làm thêm để đa dạng hóa nguồn thu nhập hơn là hỗ trợ cho họ mua thuyền.
Hạn chế của đề tài
Phương pháp đo lường mức độ nghèo khổ được tiếp cận theo hướng tiền tệ, do đó
chưa thể hiện được toàn cảnh bức tranh về sự nghèo khổ của cộng đồng ngư dân.
Nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích những yếu tố vi mô tác động đến nghèo
của hộ gia đình ngư dân, trong khi những yếu tố vĩ mô chưa được đề cập. Bên cạnh đó, tất
cả các thành viên trong hộ gia đình đều được giả định là có mức tiêu dùng như nhau, nghĩa
là tính kinh tế trong tiêu dùng hay sự khác nhau về mức chi tiêu giữa người lớn, trẻ em và
người già không được xem xét.

Tài liệu tham khảo
1. Béné, C. (2003). When fishery rhymes with poverty: A first step beyond the old
paradigm on poverty in small-scale fisheries. World Development , 31(6), 949-975.
2. Blackwood, D.L., Lynch, R.G. (1994). The measurement of Inequality and Poverty:
A policy maker’s guide to the literature. World Development, 22(4), 567-578.
3. Copes, P. (1989). Why are fishing incomes often low? A critical review of the
conventional wisdom. Discussion paper 21/89-1, Burnaby, Canada: Institute of Fisheries
Analysis, Simon Fraser University.
4. Coudouel, Aline & Hentschel, Jesko & Wodon, Quentin. (2002). "Medición y
análisis de la pobreza [Poverty Measurement and Analysis] ," MPRA Paper 10491,
University Library of Munich, Germany.
5. FICen (2006) - Fisheries Informatics Centre (2006). Role of importance of fisheries
sector in the national economy. />Object=2114246&news_ID=921147
6. Foster, J., Greer, J., Thorbecke, E. (1984). A class of decomposable poverty
measures. Econometrica, Vol. 52, No. 3, 761-766.
7. Gordon, S. H. (1954). The economic theory of a common property resources: the
fisheries. Journal of Political Economy, 62, 124-142.
8. Hill, R.C., Griffiths, W. E., Lim, G.C. (2007). Principles of Econometrics, Third
Edition, Wiley. P. 83, 87, 93, 473, 474.
9. Long, L.K. , Flaaten, O., Kim Anh, N.T. (2008). Economic performance of open-
acess offshore fisheries – The case of Vietnamese longliners in the South China Sea.
Fisheries Research, 93 (2008) 296-304.
10. Long, N. (2003). A preliminary analysis on the socioeconomic situation of coastal
fishing communities in Vietnam, p. 657 - 688. In G. Silvestre, L. Garces, I. Stobutzki, M.
Ahmed, R.A. Valmonte- Santos, C. Luna, L. Lachica-Aliño, P. Munro, V. Christensen and
D. Pauly (eds.) Assessment, Management and Future Directions for Coastal Fisheries in
Asian Countries. WorldFish Center Conference Proceedings 67, 1 120 p.
11. Pomeroy. R, Kim Anh. N.T, Thong. HX. (2009). Small-scale fisheries policy in
Vietnam, Marine Policy, 33, 419-428.
12. Sen, A. (1976). Poverty: An ordinal approach to measurement. Econometrica,

44(2), 219-231.
13. Thu, V.T. Ho. (2005). Socio-Economic impact assessment of the Hon Mun MPA
project on local communities within the MPA. Hon Mun Marine Protected Area Pilot
Project.
14. Wagle, U (2002). Rethinking poverty: definition and measurement. Open Forum.
International Social Science Journal. Vol 54, Issue 171, Pages 155-165.
15. World Bank (2005), Poverty manual.

×